Chương II Luật Lao động 1994: Việc làm
Số hiệu: | 35-L/CTN | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 23/06/1994 | Ngày hiệu lực: | 01/01/1995 |
Ngày công báo: | 30/09/1994 | Số công báo: | Số 18 |
Lĩnh vực: | Lao động - Tiền lương | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/05/2013 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.
1- Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo Điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động.
2- Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số.
3- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo Điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm cho người lao động.
1- Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm. Hàng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về việc làm.
2- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập chương trình và quỹ giải quyết việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
3- Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện các chương trình và quỹ giải quyết việc làm.
1- Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. Người cần tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc tuỳ theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình.
2- Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
1- Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ một năm trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương.
2- Khi cần cho nhiều người thôi việc theo Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải công bố danh sách, căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp và thâm niên làm việc tại doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của từng người để lần lượt cho thôi việc, sau khi đã trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp theo thủ tục quy định tại Khoản 2 Điều 38 của Bộ luật này. Việc cho thôi việc chỉ được tiến hành sau khi đã báo cho cơ quan lao động địa phương biết.
3- Các doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm theo quy định của Chính phủ để kịp thời trợ cấp cho người lao động trong doanh nghiệp bị mất việc làm.
4- Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại, hướng dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, tạo Điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm; hỗ trợ về tài chính cho những địa phương và ngành có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ.
1- Tổ chức dịch vụ việc làm được thành lập theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu, cung ứng và giúp tuyển lao động, thu thập và cung ứng thông tin về thị trường lao động. Việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2- Tổ chức dịch vụ việc làm được thu lệ phí, được Nhà nước xét giảm, miễn thuế và được tổ chức dạy nghề theo các quy định tại Chương III của Bộ luật này.
3- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thống nhất quản lý Nhà nước đối với các tổ chức dịch vụ việc làm trong cả nước.
Cấm mọi hành vi dụ dỗ, hứa hẹn và quảng cáo gian dối để lừa gạt người lao động hoặc lợi dụng dịch vụ việc làm để thực hiện những hành vi trái pháp luật.
Article 13.- All income-generating laboring activities which are not banned by law are recognized as employment.
The State, businesses and the whole society are all responsible to provide jobs and ensure that every person with labor capabilities has the chance to be employed.
1 - The State shall set out the targets for job generation in its five-year and annual plans for socio-economic development, create necessary conditions, provide financial support, grant loans, tax exemption or reduction, and apply other incentive measures to enable employable persons to create employment for themselves as well as to enable organizations, units and individuals in all economic sectors to develop new and diversified occupations aimed at providing employment for as many individual employees as possible.
2- The State shall enact preferential employment policies to attract and use the labor force among the people of ethnic minorities.
3- The State shall enact incentive policies to create favorable conditions for organizations and individuals inside and outside the country, including Vietnamese settled abroad, to invest in developing production and business in order to increase the availability of jobs.
1- The Government shall draw up national employment programs and projects on investment in socio-economic development and transfer of the population to undeveloped regions in close association with the employment program; establish the national employment fund from the State budget and other sources and expand the job-seeking service system. Annually, the Government shall submit to the National Assembly its proposed national employment program and fund for approval.
2- The People�s Committee in provinces and cities directly under the Central Government shall set up their own employment programs and funds and submit them to the People�s Council of the same level for approval.
3- The State agencies, economic organizations, people�s organizations and social organizations shall, within the scope of their responsibility and powers, have the task of joining in the implementation of the employment programs and funds.
1- The employee has the right to work for any employer and at any place not forbidden by law. The job seeker has the right to contact directly a potential job procurer or register with a job-seeking service organization to find a job suited to his/her desire, capabilities, professional standard and health condition.
2- The employer is entitled to contact directly the job seeker or recruit labor through a job-seeking service organization. He/she has the right to increase or reduce the number of employees in conformity with the demand in production and business and within the prescriptions of law.
1- In case the employee who has been working regularly in a business for one year or more loses his/her job due to the restructuring of the business or the change of technology, the employer has the responsibility to retrain him/her in order to employ him/her in a new job. If no new job can be created and the employee has to be laid off, his/her employer has to pay him/her a severance allowance at the rate of one month's salary for every year of service, but the amount shall not be less than the value of two months of his/her salary.
2- When the need arises for a massive lay-off by virtue of Item 1 of this Article, the employer must publicize the list of the would-be laid-off employees and then proceeding from the need of the business and the seniority of each employee at the business, his/her professional skill, family situation and other factors, shall lay them off one by one after discussing and agreeing with the Executive Committee of the local trade union in the business according to the procedure stipulated in Item 2 of Article 38 of this Code. The lay-off can become effective only after the local labor office has been notified about it.
3- The business must set up its reserve fund for severance allowances as prescribed by the Government in order to provide timely relief for the employees who lose their jobs at the business.
4- The Government shall adopt policies and measures to provide job training and retraining and guidance in production and business, grant low interest loans from the National Employment Fund and create other conditions for the employees to find new jobs or create jobs for themselves; and provide financial support for the localities and services where many people are under-employed or lose their employment due to business restructuring or to a change in technology.
1- The job seeking service organization, established by virtue of law, has the task of providing consultation, introducing or supplying jobs or helping in the recruitment of labor, along with collecting and supplying information about the labor market. The sending of Vietnamese laborers to work abroad can be effected only when a permit to this effect has been issued by the competent State authority.
2- The job-seeking service organization is allowed to collect fees, is eligible for tax exemption or reduction by the State and is entitled to organize job training as stipulated in Chapter III of this Code.
3- The Ministry of Labor, War Invalids and Social Welfare shall exercise unified State management over the job-seeking service organizations throughout the country.
Article 19.- All acts enticement, false promise and mendacious advertisement aimed at misleading the laboring people or misusing the job-seeking service to commit law-breaking acts are prohibited.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực