TOP 10 mẫu Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim (2024) SIÊU HAY

Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 488 lượt xem


Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim

Đề bài: Câu lạc bộ Văn học-Nghệ thuật của trường bạn tổ chức cuộc thi viết về Tác phẩm sân khấu - điện ảnh tôi yêu. Để tham gia, bạn hãy viết văn bản nghị luận nhận xét về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim mà bạn yêu thích.

TOP 10 mẫu Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim (2024) SIÊU HAY (ảnh 1)

Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim - mẫu 1

Những vở kịch của Sếch-xpia luôn là nguồn tài nguyên giá trị để các thế hệ sau khai thác, khám phá. Không chỉ lột tả được bức tranh chân thực của thời đại, ông còn đem đến cho nhân loại vô vàn thông điệp, giá trị nhân sinh sâu sắc. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ qua văn bản “Sống hay không sống - đó là vấn đề”, trích trong vở bi - hài kịch “Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch”.

Về nội dung, tác phẩm mang đến rất nhiều thông điệp giá trị, ý nghĩa đối với nhân loại. Theo các nhà nghiên cứu nhận xét, “Sống hay không sống - đó là vấn đề” đã phản ánh được tinh thần của thời đại. Trong xã hội nơi sự mưu mô, xấu xa bao trùm, vẫn có những con người luôn hướng tới cái lương thiện, tốt đẹp. Ở đó, ta thấy cuộc đấu tranh không hồi kết giữa cái thiện và cái ác, giữa lí tưởng sống cao cả của con người với thực tại đổ vỡ, tối tăm. Qua đây, tác giả muốn hướng con người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đồng thời, đưa ra được câu hỏi mang bản chất triết học của loài người: “Sống hay không sống?”. Đây là vấn đề đề cập đến mục đích sống của từng cá nhân. Để trả lời câu hỏi ấy, con người cần ý thức được thực tại vô định, bất công. Từ đó suy xét và hình thành suy nghĩ: “Hành động hay không hành động?”. Tất cả đều nhằm hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, công bằng và hạnh phúc cho nhân loại.

Về nghệ thuật, đầu tiên phải kể tới nghệ thuật xây dựng nhân vật vô cùng tài hoa của Sếch-xpia. Đó là Hăm-lét- người suy nghĩ bằng cả trái tim và trí óc, dám lên tiếng hoài nghi cả xã hội; là tên vua Clô-đi-út nham hiểm, được ngụy tạo bằng những lời nói đường mật; tên Pô-lô-ni-út giả dối, độc đoán hay nàng Ô-phê-li-a thủy chung nhưng sợ lễ giáo, cường quyền;... Tất cả đã tạo nên một hệ thống các nhân vật điển hình với những màu sắc rõ ràng, riêng biệt. Ngôn ngữ kịch cũng được Sếch-xpia sử dụng vô cùng điêu luyện. Nhìn vào những cuộc đối thoại trong văn bản, ta thấy rất rõ sự biến chuyển linh hoạt: từ đau đớn, tự vấn đến giễu cợt, gay gắt, mỉa mai. Bên cạnh đó, ngôn ngữ độc thoại đặc sắc đã góp phần quan trọng thể hiện tư tưởng, góc nhìn của nhân vật cũng như của tác giả. Không chỉ vậy, những xung đột trong kịch cũng được gắn liền với xung đột nội tâm nhân vật Hăm-lét. Từ niềm tin mãnh liệt vào con người, Hăm-lét dần chuyển sang hoang mang, lo sợ trước thực tại đổ vỡ. Từ đó, có thái độ hoài nghi, chán nản với nhân sinh. Sau cùng, trải qua bao sóng gió, chàng đã nhận thức lại thế giới và nảy sinh nghị lực phản kháng.

Như vậy, có thể nói tác phẩm “Sống hay không sống - đó là vấn đề” đã thể hiện vô cùng rõ nét tài năng cũng như tầm nhìn mang tính vĩ mô của đại văn hào Sếch-xpia. Qua đó, để lại cho nhân loại một kiệt tác mà đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.

Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim - mẫu 2

Xã trưởng - Mẹ Đốp là đoạn trích được trích từ vở chèo Quan Âm Thị Kính, bằng ngôn ngữ đực trưng của chèo và các vai nhân vật, người đọc thấy được cuộc trao đổi giữa xã trưởng (người quản lí xã) với mẹ Đốp (vợ của người mõ làng) về việc đi rao mõ, thông báo cho cả làng biết tin Thị Mầu mang thai khi chưa có chồng. Qua đó thấy sự phê phán đối với những tầng lớp chức dịch như xã trưởng nhưng lại có tính trêu ghẹo, đùa cợt người khác, ham sắc và khinh người, tự cao và không có đạo đức.

Mở đầu đoạn trích là thông tin Thị Mầu mang thai khi chưa có chồng, bị rêu rao khắp làng xóm và bị phạt. Thông tin hết sức ngắn gọn được xã trưởng nêu lên để triệu tập bố Đốp ra làm việc. Thông tin ấy phần nào thể hiện xã hội cổ hủ, lạc hậu xưa với những giáo điều, quy định khắt khe.

Tiếp theo là màn đối đáp giữa xã trưởng (người quản lí xã) với mẹ Đốp (vợ của người mõ làng) về việc đi rao mõ, các màn kịch lần lượt được hiện lên. Đầu tiên là màn kịch phơi bày bộ mặt gian trá, dốt nát, kém hiểu biết của xã trưởng, sự tinh lanh, nhanh nhẹn hoạt ngôn của mẹ Đốp: “Một mình tôi cả xã ngóng trông/ Điều phải trái tôi nay trước bảo”. Rồi khi mẹ Đốp đọc thơ, xã trưởng cũng lấy làm hay thì mẹ Đốp bảo thầy chép về mà treo…

Tiếp đó là màn kịch của một tên háo sắc, nhũng nhiễu dân lành. Đường đường là người đứng đầu một làng một xã, lẽ ra phải là người ăn nói chỉn chu, lịch sự nhã nhặn với dân. Nhưng không, xã trưởng ở đây ngang nhiên gạ gẫm dân lành “nhà Đốp lớp này coi ra bảnh gái dễ coi lắm nhỉ… hôm nào mát trời tao sang gửi một đứa nhỉ”. Những ngôn ngữ “bảnh gái, gửi đứa” chỉ phù hợp với lứa trẻ đang tán tỉnh, trêu đùa nhau, không hề phù hợp với người cán bộ, người đứng đầu.

Và màn kịch cuối là màn kịch sử dụng ngôn ngữ đối thoại của hài kịch để khắc hoạ nổi bật tính cách của các nhân vật, cùng với sự dẫn dắt mâu thuẫn khéo léo, bất ngờ, hành động giàu kịch tính. Yếu tố hài hước được tạo nên từ những thủ pháp như sử dụng từ đồng âm ''bằng'' (“Bố cháu trẩy tỉnh lĩnh bằng rồi ạ/ Làm cái thứ mõ thì bằng với sắc cái gì/ Bố cháu cắp tráp theo hầu cụ Bá lên tỉnh lĩnh bằng rồi”); sử dụng âm vận “ôi” (Thánh đế lên ngôi/Chẳng giấu gì mẹ đốp là tôi; giấy quan về là phải báo với tôi/ tôi chưa ra là làng chửa được ngồi)… cùng những từ ngữ dân dã, xưng hô xuồng xã: con mẹ Đốp, con này, bảnh gái, mộc đạc… Qua đó nhân vật hiện lên rõ nét: mẹ Đốp là nhân vật nhân vật hài hước, gây cười, là người nhanh nhẹn, hoạt bát, mồm năm miệng mười. Còn xã trưởng là người tự hào khi mình được chọn làm lí trưởng, ra oai với dân làng, khinh bỉ, coi thường những người có địa vị thấp kém hơn mình. Sự xuất hiện hai nhân vật đối lập trong kịch bản chèo: giúp thể hiện rõ tư tưởng, triết lí dân gian bởi lời nói cử chỉ của nhân vật vừa gây cười nhưng rất thâm thúy, sâu sa, thể hiện rõ tư tưởng của tác giả dân gian.

Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật chèo truyền thống. Xây dựng xung đột kịch lôi cuốn, hấp dẫn. Xây dựng nhân vật tiêu biểu, đại diện cho giai cấp tầng lớp trong xã hội (xã trưởng- quan lại kém hiểu biết, lố lăng háo sắc; mẹ Đốp- nông dân khéo ăn khéo nói). Những làn điệu chèo phù hợp, giúp diễn tả tâm trạng, tính cách nhân vật. Nhân vật mang tính quy ước, thiện – ác phân chia làm hai tuyến rõ ràng. Qua việc xây dựng nhân vật và xung đột kịch hấp dẫn góp phần thể hiện văn hóa dân gian, thể hiện rõ tư tưởng của tác giả dân gian.

Nghị luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc bộ phim - mẫu 3

Bao trùm lên sáng tác của nhà văn là nguồn cảm hứng lớn về lịch sử. Viết văn để tỏ lòng yêu nước, đó là triết lí sống và là quan điểm sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi.” Vũ Như Tô là vở kịch nổi tiếng nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước. Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng Đài. Nhưng Cửu Trùng Đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu trùng Đài bị thiêu trụi. Tác phẩm phản ánh tình hình chính trị loạn lạc thời Lê Tương Dực Nguyên nhân là do Vua ăn chơi vô độ làm mất lòng dân, hao tổn sức người sức của” mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng..”. Trịnh Duy Sản sắm sưả thuyền bè khí giới, họp ở bến đó Thái Cực, nó reo là đi đánh Trần Cao, rồi đương đêm đem ba nghì quân Kim Ngô (cận vệ) vào cửa Bắc Thần đốt lưả cho sáng.. Hoàng thượng trông thấy lưả sáng hốt hoảng lên ngưạ lẻn ra cửa Bảo Khánh, qua cửa Thái Học, đến ao Chu Tước ở phường Bích Câu vưà gặp Duy sản. Duy Sản sai võ sĩ tên Hạch đâm vua ngã ngưạ chết. Hoàng hậu thương vua nhảy vào lưả chết. Nguyễn Vũ ăn lộc vua, tự sát theo vua..

Miêu tả bi kịch của người nghệ sĩ Vũ Như Tô Nguyễn Huy Tưởng đã đặt một câu hỏi trong Đề Tựa vở kịch: “Chẳng biết Vũ như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải? (…) than ôi, Như Tô phải hay những kẽ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. ”Đó là bi kịch của Như Tô và cũng là bi kịch của người nghệ sĩ trong xã hội cũ. Như Tô là kiến trúc tài năng. Lúc đầu ông từ chối yêu cầu của Lê Tương Dực, không xây Cửu Trùng Đài. Đan Thiềm khuyên: “Ông cứ xây một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi sẽ mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn thuộc về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện…Hậu thế sẽ xét công và nhớ ơn ông mãi mãi “. Vũ Như Tô nghe lời Đan Thiềm, đã dốc hết tâm huyết, tài năng vào việc xây Cửu Trùng Đài. Thế nhưng việc xây Cửu Trùng Đài làm chết mấy nghìn người, hao tổn công quỹ, mà chỉ phục vụ cho mục đích ăn chơi của vua. Sự bất mãn của nhân dân và cuả những người thợ xây ngày càng tăng lên, sau cùng họ đã theo Trịnh Duy Sản nổi dậy, giết vua phá Trùng Đài, rồi giết cả Đan Thiềm và Vũ Như Tô. Những phút cuối đời, Vũ Như Tô vẫn không tin mình có tội với nhân dân, vẫn không tin Cửu Trùng Đài bị đốt phá, vì đó là một điều vô lý, ông không thể hiểu. Chỉ khi biết rõ Cửu Trùng Đài bị phá. Vũ Như Tô kếu lên; “Thôi thế là hết! dẫn ta đến pháp trường”. Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ trong sự chọn lưạ mục đích sáng tạo nghệ thuật là để đạt tới cái đẹp vĩnh cửu (sự nghiệp còn lại muôn đời) hay phục vụ chính trị (phục vụ yêu cầu của Lê Tương Dực xây cung điện để ăn chơi). Chính vì thế, Vũ Như Tô trở nên ảo tưởng. Ông không nghĩ hành động của mình đang phục vụ nhà vua, gây bao đau khổ cho nhân dân, mà chỉ nghĩ đó là công trình của tâm huyết, tài năng, khát vọng và sống chết với công trình ấy. Bi kịch là ở chỗ ông không biết mình đúng hay sai, và nhân dân, những người theo 1 Trịnh Duy sản đã giết ông là đúng hay sai. Ông đã chết trong ảo tưởng của mình. Còn tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã trả lời vấn đề đó bằng hành động kịch. Nhiều lần các nhân vật đều khẳng định tội của Vũ Như Tô, tội gây ra mấy nghìn người chết, hao tốn bao nhiêu công quỹ, phục vụ cho hôn quân, và vì thế Vũ Như Tô phải ra pháp trường. Nguyễn Huy Tưởng đặt ra vấn đề: nghệ thuật phải đứng về phía nhân dân mới tồn tại (phục vụ hôn quân thì bị nhân dân đốt phá). Người nghệ sĩ phải đem tài năng phục vụ nhân dân mới có thể tồn tại và phát triển (Vũ Như Tô phục vụ thế lực tàn bạo thì bị nhân dân tiêu diệt). Nhân vật Vũ Như Tô Một kiến trúc sư tài ba, có hoài bão lớn, có nghĩa khí của kẻ sĩ, và sống chết với hoài bão của mình. Không sợ cường quyền, không sợ gian khổ hy sinh. Nhưng sự phát triển tính cách và số phận của Vũ Như Tô lại không thuyết phục. Lúc đầu Vũ Như Tô nhất quyết từ chối yêu cầu của Lê Tương Dực, dù biết rằng có thể mất mạng. Vậy mà chỉ vì lời khuyên của Đan Thiềm, một cung nữ, mà Vũ Như Tô xây đài cho Lê Tương Dực. Ông đã coi lời của Đan Thiềm là chân lý, và quyết tâm thực hiện chân lý ấy, bất chấp tất cả những lời khuyên can, những tiếng kêu thương của nhân dân. Sau cùng, Đan Thiềm khuyên ông đi trốn, ông không đi, ông không nhận ra sai lầm của mình và chết trong mù quáng. Với một kẻ sĩ (nhà Nho có lý tưởng trị quốc, bình thiên hạ) thì không ai lại đem lý tưởng, hoài bão và cuộc đời giao vào tay một cung nữ, để chết thảm như vậy. Lê Tương Dực vì cung nữ mà đắc tội với nhân dân nên phải chết. Vũ Như Tô cũng vậy, vì cung nữ Đan Thiềm (dù hai người có là tri kỷ của nhau) mà mang tội với nhân dân, bị dẫn ra pháp trường.

Nói cho đúng, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng một nhân vật kẻ sĩ phong kiến, mang ảo tưởng nghệ thuật vị nghệ thuật của người trí thức tiểu tư sản hiện đại. Vì thế hình tượng nhân vật không hiện lên như mong muốn của tác giả. Đỗ Đức Hiểu coi Vũ Như Tô là một anh hùng bi kịch (tạp chí Văn Học số 10, 1997), tôi nghĩ điều ấy là một ngộ nhận, bởi vì chính tác giả Nguyễn Huy Tưởng cũng không xác định được lý tưởng của Vũ Như Tô là đúng hay sai, hành động, cuộc đời của Vũ Như Tô có vì mụch đích cao cả của nhân dân mà phục vụ hay không, thì sao Vũ Như Tô có thể là một nhân vật anh hùng. Trái lại, cuộc đời ấy bị điều khiển bởi một cung nữ Đan Thiềm, chạy theo những ảo tưởng, hơn nữa những ảo tưởng ấy lại chà đạp lên sinh mệnh nhân dân Vũ Như Tô phải chết trong bi thảm , sao có thể gọi là một nhân vật anh hùng, dù là anh hùng bi kịch? Người anh hùng phải là người chiến đấu cho một lý tưởng cao đẹp và là người chiến thắng. Vũ Như Tô thì ngược lại, sống và chết trong mù quáng.

Hạn chế của vở kịch Nguyễn Huy Tưởng chỉ mượn Vũ Như Tô để thể hiện những trăn trở của người trí thức trước thời đại. Vở kịch được viết năm 1941, lúc đất nước đang trong ách Thực dân Phát xít. Người nghệ sĩ sẽ phục vụ ai? Sẽ sáng tác thế nào? ghệ thuật vị nghệ thuật, hay nghệ thuật phục vụ cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng. Nguyễn Huy Tưởng còn lung túng trong sự chọn lưạ. Ông để cho Vũ Như Tô phục vụ cái đẹp cao cả, vĩnh cửu, tách rời cuộc sống, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân, nhưng ông lại để nhân dân xử tội Vũ Như Tô. Hoàn cảnh hiện nay đã khác với những năm 1941, người nghệ sĩ hôm nay phục vụ 2 chính trị là chính trị của nhân dân, nghệ thuật thuộc về nhân dân là nghệ thuật vĩnh cửu.Vở kịch Vũ Như Tô chưa đạt tới tầm tư tưởng như thế. Mọi giải thích khác đi, hoặc tụng ca quá đáng vở kịch đều làm khúc xạ đi giá trị thực của vở kịch. Hạn chế cơ bản của vở kịch là hạn chế tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng. Không phải vô tình mà vở kịch ra đời 1941 nhưng mãi 1995 mới được công diễn lần đầu, bởi vì đạo diễn sẽ rất khó giải quyết vấn đề tư tưởng còn lung túng của Nguyễn Huy Tưởng.

1 488 lượt xem


Xem thêm các chương trình khác: