TOP 10 mẫu Nghị luận Chí khí anh hùng (2024) SIÊU HAY

Nghị luận Chí khí anh hùng gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 326 23/07/2024


Nghị luận Chí khí anh hùng

Đề bài: Em hãy viết bài văn Nghị luận về tác phẩm "Chí khí anh hùng".

TOP 10 mẫu Nghị luận Chí khí anh hùng (2024) SIÊU HAY (ảnh 1)

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 1

Các tác phẩm giai đoạn văn học trung đại là những tác phẩm thể hiện “đạo” và “chí” của con người lúc bấy giờ. Thông qua đó, các nhà văn, nhà thơ đã gửi gắm giấc mơ của mình qua việc khắc họa hình tượng những nhân vật mang cốt cách và bản lĩnh của thời đại. Nguyễn Du đã thể hiện khát vọng và lý tưởng của người anh hùng qua nhân vật Từ Hải- người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” trong đoạn trích Chí khí anh hùng trích từ tuyệt tác Truyện Kiều.

Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:

“Râu hùm hàm én mày ngài.

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:

“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang.

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

(Chí anh hùng)

“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:

“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:

“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.

Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:

“Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một năm trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:

“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?

Anh hùng mới biết anh hùng.

Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.

Qua đoạn thơ 18 câu đoạn trích Chí khí anh hùng (từ câu 2213 – 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 2

Truyện Kiều được xem là một đỉnh cao chói lọi của truyện thơ Nôm, là quốc hồn, quốc túy của dân tộc, một kiệt tác của văn học Việt Nam. Đọc tác phẩm ta không thể không xót xa, thương cảm trước một nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, căm phẫn trước những Hoạn Thư ích kỉ, hẹp hòi với lòng ghen tuông ngút trời, Tú Bà độc ác, Mã Giám Sinh giả nhân giả nghĩa; đồng cảm trước một Thúc Sinh dù có chút nhu nhược nhưng là kẻ si tình, trọng tình trọng nghĩa.

Và đặc biệt, ta không thể quên được hình ảnh một Từ Hải đầu đội trời, chân đạp đất, một người hùng lí tưởng với những phẩm chất và chiến công phi thường. Đoạn trích Chí Khí anh hùng đã thể hiện rõ nhất cốt cách của người anh hùng này.

“ Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong ”

Trai anh hùng – gái thuyền quyên, tình yêu của Từ Hải và Thúy Kiều vượt bao sóng gió để đến được với nhau. “Chàng”và “thiếp” tuy hai mà một, hiểu rõ nhau, thông cảm, sẻ chia cùng nhau. Tình cảm đang mặn nồng, thì kẻ “trượng phu” lại nuôi chí lớn, ý nguyện lập công danh nơi biên ải xa xôi. Chàng đã tạm gác lại nỗi niềm riêng bên gia đình nhỏ để ra đi xây dựng sự nghiệp.

Điều đó cho thấy Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà còn người của chiến công và sự nghiệp hiển hách. Hình ảnh Từ Hải lên đường một mình một ngựa thể hiện khí phách của một người anh hùng dũng cảm, ra đi dứt khoát , không để niềm riêng vướng bận. Một người có chí khí mạnh mẽ, chí tang bồng phải làm nên nghiệp lớn, khát khao được vùng vẫy bốn bể năm châu. Đó là lí tưởng, là mục đích cao đẹp của một vị anh hùng nuôi chí lớn.

“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,

Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.”

Sự nghiệp vinh quang đang đợi chàng phía trước. Từ ra đi không chút do dự, một lòng hướng về chí lớn tạo lập công danh. Động từ “thoắt” thể hiện sự nhanh chóng, quyết định một cách dứt khoát , chí từng hoành khắp bốn phương, người anh hùng chẳng thể để bản thân nghỉ ngơi khi chưa có công danh trong tay, cũng không thể giam mình trong không gian chật hẹp khi chí lớn chưa thành.

Quyết định ra đi chắc hẳn sẽ không dễ dàng với Từ Hải bởi bên cạnh chàng còn có người mình thương, nhưng đó là quyết định sáng suốt và vững vàng. Bởi trong con người Từ Hải luôn nung nấu chí nguyện anh hùng.

“Kiều rằng: phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Trải qua bao bể dâu, đau đớn, vừa hạnh phúc chưa được dài lâu, Từ Hải lựa chọn ra đi chắc hẳn Kiều cũng rất buồn. Nhưng với tấm lòng nhân từ, lại là người tri âm tri kỉ với Từ, Kiều hiểu hơn ai hết chí hướng của Từ Hải. Và nàng sẽ không cản bước Từ, trái lại, nàng là người ủng hộ, mong muốn được đi cùng chồng sẻ chia khó khăn gian nan nơi chiến trận. Đó là vẻ đẹp trong nhân cách Kiều.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Một lần nữa, Từ khẳng định tình cảm khăng khít, gắn bó giữa Kiều và chàng nhưng đồng thời cũng có lời trách cứ nhẹ nhàng: Lòng dạ nhau đã hiểu, sao nàng chưa thoát khỏi những mong muốn tầm thường của bậc nữ nhi. Là người phụ nữ của bậc trượng phu phải thật cứng cỏi và mạnh mẽ. Thông qua lời của Từ, tình yêu thương và sự trân trọng Kiều được bộc lộ rõ nét.

Trong bất kì cuộc chia li nào, người phụ nữ cũng là người chờ đợi và u sầu hơn cả. Từ Hải hiểu hơn ai hết điều đó. Song phút chia tay lúc này không quá bị lụy mà hướng tới những chiến công hiển hách, tạo niềm tin nơi Thúy Kiều:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Trong suy nghĩ của bậc đại trượng phu lúc này là hoài bão và những chiến công hiển hách. Dù đi trong tư thế một mình, một ngựa nhưng khi lập công trở về với mười vạn tinh binh, với tiếng chiêng và bóng cờ rợp đất trời trong hào khí chiến thắng. Chàng tin những gì mình nói, tin những gì mình làm và hơn hết đem lại vinh quang cho đất nước, cho nhân dân và cho người phụ nữ của mình. Lúc ấy sẽ cùng Kiều vui vầy hưởng hạnh phúc lứa đôi.

Chàng không thể để cho người mình yêu phải chịu khốn khổ nơi xa trường và khẳng định “một năm” sau sẽ trở về. Một mốc thời gian cụ thể, cho thấy được quyết tâm và sự tự tin, bản lĩnh của Từ Hải.

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đây không phải là một lời hứa đơn thuần mà là một thề hẹn, một lời đinh ninh. Dù trong lòng có bão bùng, tâm can có gào thét thì nàng hãy dằn lòng mình xuống để ta đi, rồi ngày sau trở về trong vinh quang hiển hách. Nàng hãy yên lòng chờ đợi. Chí anh hùng trong con người Từ Hải không chỉ là hoài bão, khát khao mà còn là con người có đạo đức, trách nhiệm, là con người có một tấm lòng trượng nghĩa, khao khát lập công danh.

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Hành động nhanh chóng, kiên quyết “quyết lời”, “dứt áo ra đi”.

Từ Hải đã không để tình cảm quyến luyến, bịn rịn làm lung lay và ngăn bước ý chí, sự nhất quán trong suy nghĩ và hành động. Nguyễn Du thật tinh tế khi sử dụng hình ảnh cánh chim bằng và hình ảnh “gió, mây” thường gặp trong văn chương cổ điển tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng, có mục đích cao đẹp, có bản lĩnh phi thường sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, thỏa sức vùng vẫy giữa biển trời để thực hiện lí tưởng của bậc đại trượng phu.

Qua đoạn trích Chí Khí anh hùng ta thấy được Nguyễn Du đã thể hiện ước mong về người anh hùng lí tưởng trong thời đại với khát vọng lớn lao và tấm lòng cao cả.

Đồng thời, cho thế hệ trẻ những người như chúng em bài học về mục đích và lí tưởng sống. Hãy can đảm tiến về phía trước, đặt ra những mục tiêu cho bản thân, kiên trì với mục tiêu. Hãy là những thanh niên của thế hệ mới đầy nhiệt huyết, sống với ước mơ và lí tưởng dù phía trước có gian nan, thách thức hãy giữ vững niềm tin vào chính bản thân mình. Thành công sẽ đến với những người tận lực và tận tâm.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 3

Đọc Kiều, bao thế hệ người đọc không khỏi thốt lên rằng: “Tố Như ơi, Lệ chảy quanh thân Kiều!” (Tố Hữu). Tuy vậy, bên cạnh những tình cảnh đớn đau, Kiều đã có những giây phút hạnh phúc thực sự, như khi bên vị anh hùng Từ Hải. Vậy mà “Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang”, chia li giữa hai người vẫn xảy ra khi Từ động chí nam nhi. Kiều lại lần nữa rơi vào cô đơn lẻ bóng, tình cảnh ấy được thể hiện rõ trong trích đoạn “Chí khí anh hùng”, một trong những trích đoạn tiêu biểu nhất dựng lên hình ảnh vị anh hùng trong lí tưởng của Nguyễn Du.

Nguyễn Du, với tư cách là một cây đại thụ của nền văn học nước nhà đã cho ra đời không biết bao nhiêu kiệt tác khẳng định được tài năng và tâm hồn cao cả của mình. Trong số ấy, nổi bật lên là truyện thơ Nôm mang tên “Truyện Kiều”. Tác phẩm dài 3254 câu lục bát, là minh chứng rõ ràng nhất cho ngòi bút tài ba của vị thi sĩ làng Tiên Điền. Đoạn trích nằm từ câu 2213 đến câu 2230, nói về nhân vật Từ Hải quyết chí ra đi để tạo dựng sự nghiệp sau một khoảng thời gian ngắn ngủi mặn nồng với nàng Kiều. Hình tượng anh hùng lí tưởng hiện lên với những phẩm chất phi thường.

Bốn câu thơ đầu mở ra khát vọng, chí lớn của vị anh hùng chót động lòng bốn phương:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”

Dường như Nguyễn Du tạo ra cuộc gặp gỡ giữ nàng Kiều và chàng Kim chỉ để tạo ra phút chốc nghỉ ngơi trên con đường sự nghiệp của Từ Hải. Và quả như thế thật, mối tình của họ sau này dù không đến kết thúc viên mãn nhưng ít ra đã tạo ra những giây phút thực sự cho cả hai. Nguyễn Du đã dùng cách gọi trân trọng nhất dành cho bậc anh hào để gọi Từ Hải: “trượng phu”. Bậc trượng phu không chỉ có tài mà phải vẹn toàn cả đức và Từ đều có cả hai thứ ấy. Hoàn cảnh chia li mở ra bằng sự lí giải tài tình của Tố Như. Trước là khoảng thời gian “nửa năm” hai người chung sống ân tình với nhau, sau là không gian “hương lửa đương nồng” say đắm ái tình. Tất cả chợt lùi về sau, nhường chỗ cho khoảng không gian vũ trụ của “bốn phương”, của “trời bể mênh mang”. Trong không gian ấy, tầm vóc người anh hùng cũng được nâng lên tầm vũ trụ. Chỉ với tính từ “thoắt” đã thể hiện được sự mau lẹ, quyết đoán, không có sự phân vân, trăn trở. Cuộc sống đang lúc viên mãn thì Từ lại lên đường lập công danh sự nghiệp. Sự thức tỉnh của chí khí anh hùng đã vượt lên những điều bình thường để làm điều phi thường, như Hoài Thanh đã từng bình rằng Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”.

Mười hai câu tiếp lại mở ra cuộc đối thoại đẫm buồn của cuộc chia li Thúy Kiều – Kim Trọng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Chỉ bằng đôi lời ngắn ngủi nhưng ta cũng thấy được sự thấu hiểu, trân trọng với ước mơ, hoài bão của chồng của nàng Kiều. Và cũng bởi lẽ thế, nàng mong muốn được đi cùng chồng. Cuộc đời người phụ nữ ngày xưa gắn chặt với lễ giáo phong kiến: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” vậy nên mong muốn theo chồng sẻ chia những khó khăn cũng không có gì là khó hiểu. Từ Hải hiểu nỗi lòng nàng và cũng khéo léo từ chối bằng một loạt hình ảnh thể hiện chí lớn của mình. “Mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường” thực chất tượng trưng cho tầm vó phi thường của Từ Hải . Từ muốn một tay dựng lên cơ đồ của bậc đế vương. Để Kiều yên tâm, chàng cũng hẹn ước “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Chàng từ chối Kiều bởi vừa không muốn nàng chịu vất vả cùng mình, lại vừa muốn không bận lòng để tập trung cho sự nghiệp. “Bốn bể không nhà” có chút gì đó cô đơn nhưng lại càng tô đậm thêm quyết tâm thực hiện chí lớn của vị anh hùng. Việc xây dựng công danh trước nay không phải là câu chuyện của ngày một ngày hai nhưng Từ lại hẹn ước với Kiều sau “một năm” phải chăng là thái độ tự mãn quá đáng? Không hề, đó là niềm tin vào bản thân, là lòng quyết chí đã lên tới cao độ kết tinh trong một người trượng phu. Một loạt những hình ảnh ước lệ xuất hiện càng làm nổi bật hoài bão, khát vọng lớn lao của Từ Hải. Người trượng phu lên đường để làm trọn chí “tang bồng”, để đem hạnh phúc vẻ vang về cho nữ nhân của mình.

Cuối cùng chính là hình ảnh Từ Hải ra đi không chút bịn rịn, lưu luyến như các cuộc chia tay bình thường khác mà hành động đã thể hiện rõ quyết tâm của mình:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Hai hành động mạnh mẽ đi liền nhau: “quyết lời”, “dứt áo” mang phong cách mạnh mẽ, dứt khoát của bậc trượng phu lúc li biệt. Đặc biệt hình ảnh so sánh ở câu thơ cuối đoạn trích tạo nên nét nghĩa thật thú vị. Nguyễn Du ví Từ Hải như cánh chim cưỡi gió bay ngoài biển khơi. Đây thực chất là mượn ý của Trang Tử: chim bằng khi cất cánh thì như đám mây ngang trời và bay chín vạn dặm mới nghỉ chứ không như loài chim thường chỉ biết quanh quẩn bên những cành cây. Đây chính là chí khí quyết thắng của những bậc phi thường tại nơi tiễn biệt. Đừng hiểu rằng Từ muốn cưỡi mây đạp gió vì ham mê quyền lực tầm thường mà bởi Từ chứng kiến những “đoạn trường” đớn đau mà Kiều phải chịu nên cần khẳng định bản thân, đem những công lí về cho người phụ nữ mình yêu thương nói riêng và bao mảnh đời bất hạnh khác ngoài kia nói chung.

Hình tượng Từ hải được dựng xây thành công đã thể hiện rõ lí tưởng của Nguyễn Du về người anh hùng đương thời của mình. Những con người ấy không bao giờ để tình cảm riêng ràng buộc chí lớn mà biến tình riêng ấy thành động lực để vươn tới chí lớn bằng những hành động đích thực. Đoạn trích sử dụng dày đặc các hình ảnh tượng trưng nhằm mô phỏng rõ tầm vóc của người anh hùng. Nhân vật bất giác tăng thêm sức sống trong lòng bạn đọc muôn đời.

Bút lực của Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói riêng cả cả thiên truyện thơ nói chung không đời nào có thể phủ nhận, đến nỗi Tố Hữu từng viết rằng:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Bằng vài dòng thơ, Nguyễn Du đã lên án cả một xã hội bất công vô lí vùi dập những thân phận yếu nhỏ như Kiều, thể hiện niềm trân trọng sâu sắc với chí lớn của những ước mơ con người và cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc qua từng câu chữ,…Ước mơ về tự do công lí, về khát khao thực hiện được lí tưởng của bản thân đâu phải chỉ là câu chuyện của một đời mà là của muôn đời. Người ta nói Nguyễn Du có tầm nhìn xuyên cả không gian, thời gian là bởi lẽ ấy!

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 4

Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.

Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.

Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa sức vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Hay như:

“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cầm vị ào ào gió thu”

( Chinh phụ ngâm_ Đoàn Thị Điểm)

Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”

Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

Từ rằng: “Tam phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:

“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”

Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thảy bạn đọc.

Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 5

Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích "Chí khí anh hùng" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.

Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:

"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".

Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:

"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".

Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lòng bốn phương". Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là "trượng phu" - người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân. Một con người "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.

Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều - Kim Trọng cũng không ngoại lệ:

"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:

"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.

Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:

"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.

Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:

"Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng"

thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng" được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:

"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".

Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 6

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 7

Ngòi bút Nguyễn Du tài tình khi khắc họa những nhân vật trong Truyện Kiều luôn chân thật, sống động, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhân vật vừa có nét chung, vừa có nét riêng nổi bật, đặc biệt là về tâm lý, tính cách. Chỉ cần một lời thơ cô đọng, tác giả đã làm lộ ngay thần thái của nhân vật. Đoạn Chí khí anh hùng- Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, giã từ Thúy Kiều - đã thể hiện sắc nét nghệ thuật miêu tả nhân vật đó của Nguyễn Du.

Từ Hải đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chỉ là mục đích cao để hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích. Ở con người Từ Hải, nỗi khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một sức mạnh của thiên nhiên, không gì có thể kiềm chế nổi. Từ Hải đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa, chợt động lòng bốn phương. Thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời bể mênh mang và lập tức ở vào tư thế một mình với thanh gươm yên ngựa sẵn sàng lên đường. Động lòng bốn phương là "động bụng nghĩ đến bốn phương" (Tản Đà). Nói cụ thể hơn là thấy trong lòng cái chí tung hoành ở bốn phương đang thúc giục, kêu gọi. Chỉ hai câu đầu, ta thấy Từ Hải không phải là con người tầm thường, mà có tâm chí của bậc hào kiệt Không gian trong câu 3, 4 (trời bể mênh mang, lên đường thẳng rong) thể hiện chí khí anh hùng của Từ Hải: lên đường, một mình một ngựa, một thanh gươm!

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt thể hiện rõ tính cách của nhân vật anh hùng này. Từ Hải là con người của sự nghiệp phi thường, không thể đắm mình mãi chốn khuê phòng. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, Từ Hải thoắt đã động lòng bốn phương, tiếng gọi của sự nghiệp đã thức tỉnh chàng. Giờ đây sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, sự nghiệp chẳng những là ý nghĩa của sự sống, mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỷ gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy nên không chút bịn rịn, không có những lời than vãn lúc chia biệt. Thêm nữa, trong lời trách người tri kỷ chưa thoát khỏi thường tình nhi nữ, còn bao hàm cái ý khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để làm vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ thương của Kiều (Cánh hồng bay bổng tuyệt vời - Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm) không chỉ có sự mong chờ người yêu xa cách, mà còn mong chờ cả sự nghiệp của Từ Hải.

Con người rất tự chủ và tự tin. Trước đây, ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải ngang nhiên xem mình là anh hùng, tất cả sự nghiệp sau này như đã nắm chắc trong tay. Giờ đây xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, Từ Hải đã khẳng định, muộn thì cũng không quá một năm, sẽ nhất định trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Trong đoạn trích này, qua từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật miêu tả của tác giả, Từ Hải hiện ra với tính cách của con người phi thường.

Trượng phu là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt nói những quyết định dứt khoát của Từ Hải. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chữ dứt áo trong câu Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách con người phi thường lúc chia biệt: người ở nắm áo, nhưng người đi cứ dứt áo ra đi.

Mặt khác, Từ Hải là con người phi thường, nên lúc ra đi cũng không thể ra đi như mọi người. Hơn nữa, hình ảnh Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi cho thấy chí lớn của một bậc hào kiệt. Từ Hải ra đi chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng vẫn cả quyết ngày trở về sẽ có mười vạn tinh binh. Làm thế nào mà có được như thế, Từ Hải không nói, nhưng Kiều thì tin và người đọc cũng không thấy phải băn khoăn.

Nguyễn Du đã thành công trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật miêu tả theo khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng lý tưởng, phi thường với những nét thật cụ thể, sinh động.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 8

Bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều ở trong tình trạng vô cùng đau đớn, tuyệt vọng: "Biết thân chạy chẳng khỏi trời – Cũng liều một phấn cho rồi ngày xanh". Từ Hải xuất hiện đột ngột ở lầu xanh và tìm đến Kiều – một người tri kỉ. Với "con mắt xanh" tinh tường, Kiều đã mau chóng nhận ra Từ Hải là một anh hùng ngay từ lúc Từ chưa làm nên sự nghiệp. Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ, nhưng tình yêu không thể níu giữ chân Từ Hải. Đang sống êm đềm và hạnh phúc bên người đẹp, Từ Hải đột ngột từ biệt Kiều ra đi lập nghiệp anh hùng.

Đây là đoạn thơ sáng tạo của Nguyễn Du. Đoạn trích thể hiện khí phách anh hùng của Từ Hải qua lời chia tay Thúy Kiều.

Đoạn trích tập trung khắc họa hình ảnh người anh hùng Từ Hải – người anh hùng với chí khí cao đẹp, với quyết tâm thực hiện lí tưởng, khát vọng lớn lao. Đặt Từ Hải trong cảnh chia tay với Kiều trong cảnh" hương lửa đương nồng", Thúy Kiều lại "một lòng xin đi" cho vẹn "chữ lòng", trong hoàng cảnh đó Từ Hải có điều kiện để giãi bày, bộc lộ khát vọng, chí khí của mình. Chí anh hùng chính là vẻ đẹp, là khí phách của Từ Hải nó trở thành cảm hứng bao trùm cả đoạn thơ.

Trong đoạn thơ, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh không gian "bốn phương", "bốn bề". Đó là không gian của vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt trước mặt người anh hùng, trời bể như mở ra mênh mang và con người ấy "thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong". Không gian đó hoàn toàn phù hợp với tính cách của Từ - một người "đội trời đạp đất", "dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi". Không gian đó chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng lớn lao phi thường của Từ.

Đang sống trong bình yên đằm thắm, tha thiết của người vợ - người tri kỉ, có con mắt ‘tinh đời". Từ Hải bỗng "động lòng bốn phương". Chàng thấy trong lòng mình náo nức cái chí tung hoành bốn phương trời. Khát vọng vùng vẫy tự do, sống không chịu gò bó mình vào trong một khuôn khổ nào khiến Từ không chịu yên phận. Chàng vốn là người sống có lí tưởng – lí tưởng của chàng là được sống tự do, vùng vẫy giữa đất trời cao rộng không chịu một sự trói buộc nào "Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai".

Là người anh hùng với những ước mơ, khát vọng lớn lao nhưng Từ Hải cũng là một con người đa tình. Khi mới gặp Kiều, Từ Hải đã mau chóng nhận ra Kiều là người tri kỉ với mình, còn Thúy Kiều với con mắt xanh nàng cũng nhận ra Từ là người anh hùng "hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa", bởi "trai anh hùng" đã gặp "gái thuyền quyên". Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho Kiều và Từ Hải một cuộc sống hạnh phúc, êm ấm. Nhưng người vợ đẹp, thông minh, sắc sảo và hạnh phúc gia đình cũng không thể níu giữ được chân Từ. Chàng thấy"động lòng bốn phương "là thấy trong lòng sôi nổi, náo nức hướng tới trời cao đất rộng, tới cuộc sống tự do chí khí tung hoành bốn phương trời. Những hình ảnh lớn lao kì vĩ "bốn phương", "trời bể mênh mang" xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ đã thể hiện lí tưởng và khát vọng lớn lao của Từ. Con người ấy đã nói là làm, nói đi là đi, đã đi là tới. Đó là tính cách mạnh mẽ, phi thường của người anh hùng.

Nguyễn Du để cho Từ Hải ngồi trên yên ngựa với tư thế đã sẵn sàng lên đường rồi mới nói với Kiều những lời tiễn biệt. Có thể thấy đây là một cuộc chia tay rất khác thường. Cuộc đời Kiều đã trải qua nhiều cuộc chia tay. Đó là cuộc chia tay với Kim Trọng âm thầm, lưu luyến "khách đà lên ngựa người còn ghé theo" – của đôi nam nữ thanh tú mới gặp nhau lần đầu mà đã "tình trong như đã mặt ngoài còn e"; đó là cuộc chia tay bịn rịn với Thúc Sinh "người lên ngựa, kẻ chia bào" Trong cuộc chia tay lần này, Từ Hải đã ở trong tư thế sẵn sàng của con người dứt lòng ra đi vì nghĩa lớn. vì lí tưởng, vì sự nghiệp của mình. Tiếng gọi của sự nghiệp đã lay động chàng. Từ không thể đắm mình trong chốn phòng khuê và Kiều cũng không thể ngăn chàng thực hiện khát vọng lập nghiệp của mình. Sự nghiệp đối với Từ là điều trên hết. Đó không chỉ là ý nghĩa sự sống của chàng mà còn là điều kiện để chàng thực hiện những khát vọng, ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm ở chàng. Vì thế mà Từ đã quyết dứt áo ra đi, dường như không một chút bịn rịn, lưu luyến.

Khi Thúy Kiều xin với Từ cho nàng được đi theo, Từ đã trách người tri kỉ chưa thoát khỏi "nữ nhi thường tình". Từ Hải mong muốn Kiều sẽ vượt lên những tình cảm thông thường để làm vợ một anh hùng có chí khí phi thường. Cho nên sau này trong nỗi nhớ thương của Thúy Kiều "Cánh hồng bay bổng tuyệt vời / Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm" không chỉ có sự mong chờ người yêu nơi phương xa mà còn hi vọng thành công trong sự nghiệp

Những lời nói của Từ Hải, còn thể hiện chàng là con người rất mực tự tin. Ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải đã xem mình như một người anh hùng, sự nghiệp của chàng như đã nắm vững trong tay. Bây giờ mới bắt đầu xuất phát với "thanh gươm yên ngựa" nhưng chàng đã khẳng định không quá một năm sau chàng sẽ trở về với một cơ đồ to lớn.

Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Để xây dựng nhân vật này, nhà thơ đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để khắc họa hình tượng người anh hùng: sử dụng từ ngữ, xây dựng hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại,....tất cả đều tô đậm vẻ đẹp phi thường của Từ Hải.

Trong đoạn trích, một loạt những từ Hán Việt và những từ chỉ hành động mạnh mẽ như "trượng phu", "thoắt" đã diễn tả những hành động dứt khoát, mạnh mẽ của con người có chí khí lớn ấy.

Những hình ảnh lớn lao, kì vĩ như "động lòng bốn phương" "quyết lời dứt áo ra đi", "trời bể mênh mang" đã giúp nhà thơ thể hiện chí khí lớn lao phong thái của người anh hùng trong lúc chia biệt. Con người ấy muốn vẫy vùng nơi trời cao đất rộng, không chịu trói mình trong cuộc sống tù túng chật hẹp. Nguyễn Du đã ví Từ Hả như con chim bằng khi cất cánh thì như đám mây ngang trời, và mỗi lần bay thì chín vạn dặm mới nghỉ. Hình ảnh đó đã giúp tác giả diễn tả một cách phóng túng giây phút tiễn biệt giữa Từ Hải và Thúy Kiều.

Ngôn ngữ đối thoại cũng là tất yếu góp phần tô đậm khí phách của người anh hùng. Biết rõ Từ đi "bốn bể là nhà" Kiều vẫn tha thiết xin được đi cùng: "Nàng rằng" Phận gái chữ tòng / Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi" Từ đã nói với nàng những lời kiên quyết và tin tưởng chàng trở về với "mười vạn tinh binh - tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường". Chàng hứa "Chầy chăng là một năm sau vội gì!" Những lời nói của Từ không chỉ thể hiện khí phách hiên ngang của người anh hùng mà còn thể hiện chàng là người rất tự tin, tin vào sức mạnh tin vào tài năng của mình, chàng sẽ lập nên sự nghiệp lớn.

Vận dụng linh hoạt và sáng tạo các yếu tố nghệ thuật: từ ngữ, hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Từ Hải. Khuynh hướng lí tưởng hóa với những nét tính cách đẹp đẽ sinh động mang đậm chất lí tưởng.

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 9

Trong đời Kiều có nhiều cuộc chia tay, chia tay đột ngột với Kim Trọng khi mối tình đầu chớm hé; chia tay Thúc Sinh trong tâm trạng cô đơn, đầy dự cảm không lành. Trong đoạn trích này tác giả tái hiện cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn. Nhưng tại sao người soạn sách lại đặt tên cho đoạn trích này là “Chí khí anh hùng” mà không phải “Từ Hải chia tay Thuý Kiều”? Đó là vì đoạn trích này không tập trung khắc hoạ cảnh chia tay mà muốn khắc hoạ Từ Hải ở vẻ đẹp, tầm vóc và quyết tâm đạt đến khát vọng.

Vị trí đoạn trích từ câu 2213 tới 2230. Đoạn trích này là sáng tạo riêng của Nguyễn Du so với cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong “Kim Vân Kiều truyện” không có cảnh tiễn biệt của hai người và những nhớ mong, chờ đợi của Thuý Kiều sau đó.

“Chí”: mục đích cao cần hướng tới. “Khí”: nghị lực để đạt tới mục đích. “Chí khí anh hùng” là: lí tưởng, mục đích cao và nghị lực lớn của người anh hùng.

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.”

Sống với Kiều được nửa năm, cuộc sống đang lúc đằm thắm, nồng nàn nhất thì Từ Hải muốn ra đi thực hiện nghiệp lớn. Tâm trí Từ Hải luôn suy nghĩ về những việc lớn lao. Vì thế, việc “động lòng bốn phương” là hợp lí. Từ “bốn phương” chỉ công việc và chí lớn của người nam nhi thời xưa. “Động lòng” nhấn mạnh việc Từ Hải nung nấu những ý chí lớn lao.

Ý chí đó đã có sẵn trong con người chàng, nó chỉ tạm lui đi trong thời gian sống cùng Kiều, giờ là lúc chàng thể hiện. Từ “thoắt” diễn tả sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải. ở đây, Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu”. Đó là cách nói vô cùng trân trọng với các vị anh hùng. Nó dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một vị tướng võ.

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”

Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc hoạ dáng vẻ phóng khoáng của Từ Hải. Nguyễn Du đã xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất. Nhắc đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất, vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng, độ cao càng khắc hoạ rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là trông hay nhìn bình thường mà là “trông vời” – cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường.

Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình. Việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình không làm chân dung chàng đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Hành động được miêu tả đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn. Đã nghĩ là làm, Từ Hải không bao giờ chần chừ, do dự, suy tính lâu. “Thoắt đã động lòng bốn phương” là “lên đường thẳng rong” ngay.

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Tác giả để Từ Hải “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.” rồi mới để Kiều nói xin đi theo nói lên việc chàng ra đi là quyết định chắc chắn, không thể lay chuyển nổi. Thuý Kiều muốn theo Từ Hải, nhưng với chàng đã làm là dứt khoát. Dặn dò xong Kiều, Từ Hải ra đi ngay. Từ “quyết” và “dứt” cùng xuất hiện trong một câu thơ cho thấy sự quyết đoán của Từ.

Câu thơ cuối đoạn dựng lên hình ảnh phóng khoáng, kì vĩ về Từ Hải. Nguyễn Du đã so sánh Từ Hải với chim bằng để nhấn mạnh bản lĩnh phi thường của chàng. Cảnh chàng ra đi thực hiện sự nghiệp hùng tráng như cảnh chim bằng tung bay giữa gió mây. Dáng vẻ, hành động của Từ Hải đầy phóng khoáng, kì vĩ, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm.

Bằng bút pháp lãng mạn, Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Từ Hải với khát vọng và lý tưởng của bậc anh hùng mang vẻ đẹp phi thường. Với ngôn ngữ tinh tế, chắt lọc, Nguyễn Du đã xây dựng hình mẫu lý tưởng, nhân vật mang khí chất và bản lĩnh đẹp đẽ trong tác phẩm Truyện Kiều .

Nghị luận Chí khí anh hùng - mẫu 10

Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”, là tri kỉ “tâm phúc tương tri” đã cứu vớt và mang đến cho Kiều những tháng ngày êm đềm, hạnh phúc sau bao biến cố dữ dội. Từ Hải xuất hiện trong truyện Kiều không chỉ với vai trò là tri kỉ của nàng Kiều mà còn là nhân vật thể hiện được mong ước của tác giả Nguyễn Du về một người anh hùng lí tưởng trong thời loạn.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa rõ nét, sống động nhất về Từ Hải, một con người anh hùng xuất chúng có khát vọng, hoài bão cao đẹp, một đấng trượng phu có bản lĩnh, quyết tâm và sự tự tin. Rơi vào tay Bạc Bà, lần thứ hai, Kiều lại rơi vào chốn lầu xanh. Nàng sống trong tâm trạng chán chường, đầy tuyệt vọng. Thế rồi, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh cứu vớt cuộc đời của nàng. Hai người trở thành tri âm tri kỉ và Từ Hải đã đưa Kiều khỏi chốn thanh lâu nhơ nhớp ấy và trở thành vợ chồng.

Nhưng tình yêu với Thuý Kiều cũng không thể kìm chân người anh hùng lâu hơn thế. Nửa năm sau, Từ Hải đã từ biệt Kiều để ra đi thực hiện chí lớn của mình:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Sau nửa năm hạnh phúc, yên ấm bên Thúy Kiều, Từ Hải đã quyết định lên đường thực hiện lí tưởng lớn của cuộc đời mình. Đấng “trượng phu” chí lớn, tài năng như chàng sao có thể ngồi yên một chỗ mà hưởng cuộc sống an nhàn được nên chàng đã “thoắt động lòng bốn phương”. Một từ “thoắt” thôi cũng đủ bộc lộ thái độ dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết và bất ngờ khi chàng quyết định ra đi lập nghiệp.

Cùng với đó, cụm từ “động lòng bốn phương” càng cho ta thấy được lý tưởng cao đẹp của chàng. Đó là khát vọng được vùng vẫy trong thiên hạ, được thỏa chí lớn bốn phương, ý chí ấy mạnh mẽ không gì cản nổi.

Ở Từ Hải hội tụ đủ những phẩm chất, những yếu tố cao đẹp của một người anh hùng thời loạn, không chỉ có lí tưởng cao đẹp mà người anh hùng ấy còn có bản lĩnh, quyết tâm và những hành động mạnh mẽ, dứt khoát. “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” một mình với một gươm, một ngựa, chàng lên đường “thẳng rong”, nhanh gọn, dứt khoát, không một chút vấn vương. Tư thế đó oai phong, lẫm liệt, hào hùng, sánh ngang với vũ trụ và trời đất.

Bốn câu thơ là cuộc chia tay của Từ Hải và Thuý Kiều. Nhưng ở trong đó, người ta còn thấy được chí khí của người anh hùng Từ Hải với tư thế ra đi hiên ngang, lòng quyết tâm mãnh liệt, ra đi không chút vấn vương. Còn với Kiều, nàng mới chỉ có “nửa năm” sống yên vui và hạnh phúc. Nàng không muốn mất đi cuộc sống an yên như vậy và cùng là bởi vì, Kiều muốn cùng chồng gánh vác mọi việc. Vậy nên khi Từ Hải ra đi, nàng đã xin theo cùng chàng.

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nàng đã viện tới lý do “xuất giá tòng phu”, chàng đi đâu thì nàng cũng xin theo cùng. Lý do Kiều đưa ra rất hợp tình hợp lý, rất thoả đáng. Thế nhưng, Từ Hải đã khéo léo từ chối nàng, chàng đánh thức sự lý trí trong nàng:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Từ Hải cho rằng hai người đã trở thành “tương tri”, tức là có thể hiểu rõ đối phương, chắc hẳn, Kiều cũng phải hiểu được khát vọng của mình. Vậy nên, chàng khuyên Kiều hãy “thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đừng để tình cảm lấn át lý trí, cản trở con đường thực hiện lý tưởng của chàng. Đồng thời, chàng cũng khuyên nàng hãy nghĩ thông suốt để xứng đáng trở thành tri kỉ của người anh hùng.

Những câu tiếp theo, Từ Hải bộc lộ chí lớn của mình thông qua lời hẹn trở về, rằng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Như vậy có thể thấy rằng, lần này Từ Hải ra đi, chàng quyết tâm làm nên công danh sự nghiệp, làm nên nghiệp lớn thì mới trở về. Những hình ảnh “mười vạn tinh binh, tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” là những hình ảnh thể hiện ước mơ, khát vọng lớn lao của chàng. Ước mơ của chàng là lập nên nghiệp lớn lừng lẫy thiên hạ, hiển hách. Khát vọng ấy, ước mơ ấy mang tầm vóc vũ trụ bao la và rộng lớn. Chàng muốn cho thiên hạ thất được tầm vóc của chàng, khẳng định tài năng xuất chúng của mình trong thiên hạ:

Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Và chính lúc ấy, khi công đã thành, danh đã toại, chàng sẽ rước Kiều về nhà, cho nàng một danh phận lớn và cùng chung sống hạnh phúc với nàng suốt đời. Từ Hải ra đi lần này, chàng không chỉ đi để thực hiện khát vọng ấp ủ trong lòng mà còn vì Kiều, hướng về Kiều, muốn cho nàng có được một cuộc sống an yên, hạnh phúc hơn người.

Không chỉ là một người có chí lớn bốn phương, Từ Hải còn là người biết nhìn ra trông rộng, chàng nói với Kiều rằng:

Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Từ Hải ý thức được tài năng của mình, chàng tự tin vào tài năng đó, chàng tin rằng nhất định mình sẽ làm nên sự nghiệp, thế nhưng, hiện tại, chàng không có gì trong tay, lại thêm vướng bận nữ nhi làm chàng phân tâm, liệu chàng có làm nên sự nghiệp? Hơn thế, Kiều là phận nữ nhi, liễu yếu đào tơ, theo chàng chinh chiến, lang thang thì sao chịu nổi, vậy nên chàng muốn nàng ở nhà, trở thành hậu phương vững chắc cho chàng.

Đáp lại sự chờ đợi của Kiều, Từ Hải nhất định sẽ chẳng phụ lòng giai nhân. Chàng hứa với Kiều chắc nịch rằng:

“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì?”

Đây là lời hứa, lời khẳng định chắc chắn của Từ Hải rằng một năm sau, chàng sẽ quay về. Đó là lời ước hẹn của hai người cũng là lời khẳng định đầy tự tin của chàng vào tài năng của mình. Đoạn đối thoại giữa Kiều và Từ Hải càng làm nổi bật ý chí, khát vọng và quyết tâm ra đi của người anh hùng Tù Hải. Khát vọng và quyết tâm ấy lớn đến nỗi không gì có thể cản nổi!

Cuối cùng, sau bao lời bộc bạch, khuyên nhủ, Từ Hải từ biệt Kiều rồi dứt áo ra đi:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Thái độ của chàng ra đi đầy dứt khoát, không hề do dự. Chàng ra đi như cánh chim “bằng” tung cánh vút bay vào mây gió. Câu thơ cuối cùng với hình ảnh “cánh chim bằng” là hình ảnh ẩn dụ cho người anh hùng với bản lĩnh phi phàm, khát khao lập lên nghiệp lớn. Lấy hình ảnh chim “bằng” so sánh với Từ Hải nhằm diễn tả dự oai dũng, phi thường, tráng trí mạnh mẽ, mang tầm vóc vũ trụ của người anh hùng. Cánh chim vút bay cùng mây gió cũng là khi người anh hùng ra đi tạo nên sự nghiệp hiển hách, vang danh khắp thiên hạ.

Bằng bút pháp ước lệ cổ điển, Nguyễn Du đã mang tới hình tượng người anh hùng chí lớn, mạnh mẽ, dứt khoát, đầy lý tưởng. Từ Hải là người anh hùng toàn vẹn, thấu tình đạt lý, đúng như ước mơ trong trí tưởng tượng của Nguyễn Du về người anh hùng dũng cảm dám đứng lên chống lại cường quyền, mang lại bình yên, công lý, công bằng cho xã hội.

1 326 23/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: