Phân tích bài ca dao (10 mẫu)

Phân tích bài ca dao lớp 10 gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 10 hay hơn.

1 6,664 22/05/2022
Tải về


Phân tích bài ca dao - Ngữ văn 10

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Dàn ý số 1

1. Mở bài

- Chế độ phong kiến hà khắc đã vùi dập thân phận người phụ nữ, khiến họ phải chịu nhiều đắng cay tủi nhục.

- Chính vì thế, người phụ nữ chỉ biết gửi gắm những oán trách, hờn giận của mình vào những câu hát, câu ca dao than thân:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

2. Thân bài

- Thân em là phiếm chỉ người phụ nữ khi xưa.

- Tấm lụa đào có hai ý nghĩa:

+ Vẻ đẹp của người phụ nữ, dịu dàng, mềm mại, uyển chuyển.

+ Thân phận của người phụ nữ, mỏng manh, không có tiếng nói, vị trí trong xã hội, bị coi thường, rẻ rúng.

- Phất phơ giữa chợ thể hiện thân phận người phụ nữ khi xưa chẳng khác gì món hàng, để mặc người ta ngã giá, lựa chọn, dù có đẹp đấy nhưng lại chẳng có kẻ biết trân trọng.

- biết vào tay ai thể hiện sự bất lực trước số phận bị định đoạt, không được quyền lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình, cam chịu kiếp làm lẽ, kiếp chồng chung. May phước lấy được người tốt còn không thì hỏng cả cuộc đời.

3. Kết bài

- Câu ca dao tuy nghe phong tình, thi vị với hình ảnh tấm lụa, nhưng đọc kỹ mới thấm được nỗi xót xa chứa đựng trong những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc.

- Là nỗi đau đớn tủi hờn trước thân phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến khi xưa gửi gắm.

Dàn ý số 2

I. Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài

1. Mô típ “thân em”.

- Là mô típ quen thuộc được sử dụng để nói về tiếng khóc than của người phụ nữ không được làm chủ số phận của cuộc đời mình

- “Thân em” thường được so sánh với hai đối tượng:

+ Những vật nhỏ nhoi, tầm thường không đáng được quan tâm: "Thân em như giếng giữa đàng", "thân em như quả cau khô", "thân em như trái bần trôi",...

+ Những thứ tốt đẹp nhưng không được coi trọng: "Thân em như tấm lụa đào", "thân em như cánh hoa hồng", "thân em như đóa hoa rơi",...

=> Cách so sánh gợi lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ.

=> Hai tiếng “thân em” thốt lên gợi cảm giác mềm mỏng, yếu đuối, rụt rè, khiêm nhường. Người phụ nữ tự than cho số phận mình

2. Người phụ nữ tự ý thức về vẻ đẹp của mình

- Hình ảnh so sánh “tấm lụa đào”

+ Nghĩa đen: "Tấm lụa đào" là một mảnh vải đẹp, mềm mại, có giá trị. Tấm lụa đào là món đồ trang sức trang trí cho con người hoặc đồ vật.

+ Nghĩa bóng: "Tấm lụa đào" gợi liên tưởng đến vẻ đẹp của người phụ nữ, mềm mại nuột nà. Trong cuộc sống, người phụ nữ cũng âm thầm, lặng lẽ chịu đựng nhiều bất công.

=> Đây là hình ảnh so sánh rất đẹp, rất thanh cao.

- So sánh với bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương để thấy sự đồng cảm của đời sau “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

=> Người phụ nữ tự ý thức được vẻ đẹp hình thức và nội tâm của mình

- Từ láy “phất phơ”:

+ Miêu tả trạng thái của tấm lụa đào khi đứng trong gió

+ Nói đến sự vô định, nổi trôi, không tự làm chủ được số phận của người phụ nữ.

- Hình ảnh “chợ”

+ Nơi để trao đổi, giao lưu buôn bán, rất phức tạp.

+ Sự hiện diện của một xã hội phức tạp với đủ các loại người.

- Câu hỏi tu từ “biết vào tay ai”: Thể hiện sự chua xót, bất lực, vô vọng của người phụ nữ trước số phận.

=> Người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh không được làm chủ cuộc đời mình, ngay cả giá trị, phẩm hạnh cũng phụ thuộc vào người khác.

3. Nghệ thuật

- Sử dụng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ gợi liên tưởng độc đáo.

- Sử dụng các từ láy, câu hỏi tu từ

- Giọng điệu xót thương, ngợi ca.

4. Ý nghĩa của bài ca dao

- Thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ

- Nói nên niềm cảm thông, chia sẻ với số phận bấp bênh của người phụ nữ.

- Tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của người phụ nữ

III. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Phân tích bài ca dao (mẫu 1)

Chế độ phong kiến hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã từng bước dồn ép người phụ nữ vào con đường không lối thoát, họ phải sống trong sự áp đặt, bị vùi dập bị coi thường, nhưng không thể phản kháng bởi họ không có cái quyền đó. Trong khi người ta đề cao vai trò của người đàn ông bao nhiêu thì người phụ nữ lại càng trở nên rẻ rúng bấy nhiêu. Đã có biết bao người phụ nữ phải đau khổ, ngậm đắng nuốt cay, không khỏi than vãn cho cuộc đời mình, xưa có nàng Kiều bạc mệnh, có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, dù tài sắc vẹn toàn nhưng đời cũng lắm truân chuyên. Để rồi nhiều cay đắng tủi nhục quá, người phụ nữ đã có những câu hát, câu ca dao than thân ví von thật sâu sắc, cũng thật bi ai.

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Từ em là chỉ người phụ nữ thời xưa, họ tự ví mình như tấm lụa đào, ở đây có đến tận hai nghĩa. Thứ nhất là phiếm chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam khi xưa, đã là lụa, lại còn là lụa đào, một màu đỏ hồng phơn phớt tựa như đôi má đào của người con gái còn son trẻ. Vẻ đẹp ấy không chỉ là sự mềm mại, uyển chuyển, kinh diễm mà còn là những nét đẹp từ sâu trong tâm hồn người phụ nữ, là lòng thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả, công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức thời phong kiến ấy phụ nữ nào mà không có đủ. Một nghĩa khác, tấm lụa đào ấy tuy đẹp nhưng lại vô cùng mỏng manh, yếu đuối, dễ bị tổn thương, khiến ta dễ liên tưởng đến số phận long đong, nhẹ tựa lông hồng của người phụ nữ. Đó là một thân phận mà tiếng nói không có giá trị, thân phận không có giá trị, bị người ta xem nhẹ, nhiều lúc những tưởng chẳng khác gì một món đồ đẹp mà nhẹ bẫng, bỏ chút tiền đã có được. Thân phận tấm lụa đào là như vậy.

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai lại càng nói lên nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận của người phụ nữ. Tại sao nhẹ nhàng đẹp đẽ, bay bổng đến thế mà lại chẳng thể quyết định số phận của mình. Phất phơ giữa chợ – người phụ nữ tự ví mình không khác gì món hàng đem đặt giữa chợ cho người đời chọn lựa, nâng lên đặt xuống, kì kèo mặc cả. Chẳng may nếu không bán được thì lại chịu số phận bị bỏ đi hay sao. Mấy chữ biết vào tay ai, càng làm người ta hiểu được cái số lênh đênh của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả người vốn tài sắc và bản lĩnh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng chẳng thoát khỏi kiếp đong đưa. Bà bất hạnh có hai đời chồng, rồi cả hai lần đều chịu kiếp làm lẽ, đêm ngày sống trong cay đắng, thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên rằng chém cha cái kiếp chồng chung, thì hẳn bà đã phải căm giận đến mức độ nào. Không chỉ riêng mình Hồ Xuân Hương mà có lẽ cả vạn kiếp phụ nữ thời ấy đều có chung một nỗi đớn đau, hờn tủi như vậy. Khi mà chế độ phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó, không có quyền phản kháng lựa chọn, biết là gặp được người chung tình, biết làm ăn, yêu thương vợ con hay gặp phải kẻ sở khanh, ăn chơi trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan khi ấy chỉ trông vào mỗi sự may mắn của số phận, tựa hạt mưa sa, trời thương thì vào lầu son gác tía, trời không thương thì chịu lạc ra ruộng cày chẳng biết.

Toàn bộ câu ca dao nghe thì phong tình, phong nhã đấy nhưng đọc thật kỹ, để suy tư nghiền ngẫm thì mới thấy được lời than oán thật tinh tế mà người xưa gửi gắm. Thân phận phụ nữ là tấm lụa mượt mà, quý giá nhưng lại chẳng ai chịu hiểu cho vẻ đẹp tiềm ẩn ấy. Đó là lời than, lời oán trách thật nhẹ nhàng, nhưng rất đỗi ngậm ngùi xót xa, đại biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu ớt và tế nhị của người phụ nữ khi xưa đối với những bất công ngang trái mà họ phải gánh chịu. Làm thân con gái đã thiệt thòi, lại phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục thì sao có thể không xót xa, không hờn giận cho cam.

Phân tích bài ca dao (4 mẫu) (ảnh 1)

Phân tích bài ca dao (mẫu 2)

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lời than thân buồn tủi:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng: Thân em. Từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuối. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng thân em. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên Đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công.

Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đời mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi người con gái.

Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lời từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!

Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giới nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình, lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như vải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu.

Những ước muốn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?

Phân tích bài ca dao (mẫu 3)

Thân phận của người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến thời xưa thường phải chịu nhiều thiệt thòi bất hạnh. Họ thường bị khoác lên mình những thuần phong mỹ tục, những phong tục cổ hủ lạc hậu, gò ép bản thân làm theo ý kiến người khác, phục tùng tuân lệnh mà không hề có cơ hội phản kháng. Ngay đến hạnh phúc của bản thân mình, việc dựng vợ gả chồng quyết định tình cảm cũng không có cơ hội lựa chọn mà phải tuân theo lời cha mẹ sắp xếp.

Trong lịch sử đã chứng minh có nhiều người phụ nữ xưa, có tài, có sắc nhưng cuộc đời lại chịu nhiều bất hạnh, phải làm kỹ nữ mua vui hoặc làm vợ lẽ, làm thê thiếp cho những người có chức quyền có tiền bạc. Cuộc sống cơ cực tủi nhục, bị ghẻ lạnh, bị chèn ép dẫn tới cái chết như nàng Thúy Kiều, nàng Tiểu Thanh, Đạm Tiên… Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, được sinh ra trong gia đình lễ nghĩa có học thức nhưng lại phải trải qua kiếp hồng nhan đa truân, long đong mười hai bến nước, phải năm lần bảy lượt rơi vào chốn lầu xanh ăn chơi, nơi mua vui cho kẻ khác. Cuộc đời nàng bị rất nhiều kẻ lừa dối hãm hại. Thúy Kiều cũng nhiều lần tìm tới cái chết để kết thúc cuộc éo le, nhơ nhuốc của mình nhưng không thành công. Nàng cũng phải làm vợ lẽ, là người hầu kẻ hạ cho người ta. Sống cuộc sống buồn tủi đúng như người xưa đã từng nói rằng:

Thân em như hạt mưa sa

Hạt rơi giếng ngọc, hạt ra ruộng cày

Thân em như giếng giữa làng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân

Số phận của những người phụ nữ tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, vào cha mẹ, vào người mai mối, người chồng tương lai. Họ không được quyền quyết định hạnh phúc lứa đôi. Luôn phải nghe theo những quy tắc nhất định như “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.

Nếu ở nhà thì phải nghe lời cha mẹ, lớn lên lấy chồng phải nghe lời chồng, chẳng may chồng qua đời thì phải nghe theo lời con. Như vậy, cuộc sống của người phụ nữ lúc nào thì được sống cho mình, có lẽ tới lúc chết họ cũng chẳng thể nào sống theo ý mình được. Chính vì vậy những người phụ nữ mới ví von mình rằng:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Những câu ca dao như lời than thở, oán hận chứa chan nước mắt của những người con gái đang tuổi xuân thì, chưa từng một lần biết tới tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Họ phải sống trong một xã hội trọng nam khinh nữ, nên mọi sự dự định cho tương lai hạnh phúc của mình đều phải do người trên quyết định.

Những người con gái này ví von thân mình như một tấm lụa đào, rất nhiều người yêu thích muốn mua về may quần áo. Một tấm lụa đào mong manh yếu đuối, nhưng lại được treo giữa chợ phất phơ trước gió, nơi đông người chẳng biết đâu mà lường trước. Câu ca dao thể hiện sự hoang mang của người con gái trước tương lai của mình, không biết sẽ rơi vào tay ai, vào chốn nhung lụa giàu sang, hay vào địa ngục trần gian, vào vũng trâu đằm cũng phải chịu đắng cay mà sống hết kiếp người.

Ca dao thời xưa chính là một nét văn hóa của người lao động Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Nó chính là những tâm tư tình cảm của người dân gửi gắm vào trong đó. Nó thể hiện ước mơ, nỗi lòng của con người muốn được bộc lộ ý nguyện ước mong của mình. Những người phụ nữ thời xưa luôn chịu mọi sự trói buộc của lễ giáo hà khắc, sống cảnh tam tòng tứ đức, thờ chồng yêu con. Mọi việc trong gia đình dù lớn hay nhỏ cũng phải tuân theo lời người chồng, người cha trong gia đình, người phụ nữ không có quyền lên tiếng.

Hai từ Thân em đã thể hiện sự nhỏ bé yếu đuối của những số phận người con gái, phụ nữ trong hoàn cảnh éo le của chế độ. Người xưa cũng vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật so sánh, độc đáo để ví von người phụ nữ với tấm lụa đào làm tăng vẻ mong manh yếu đuối của thân phận người phụ nữ lên.

Từng câu nói trong bài ca dao đều toát lên vẻ ai oán, cay đắng của người phụ nữ trong cuộc sống. Nó là tiếng lòng thầm kín của người con gái trong chế độ “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” tức là một con trai cũng là có, còn mười con gái cũng như không. Một chế độ hà khắc mà thân phận người con gái chỉ như bọt bèo trôi mà thôi, không thể nào có được hạnh phúc.

Phân tích bài ca dao (mẫu 4)

Những câu ca dao than thân luôn để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc ngổn ngang khác nhau. Có người nghe xong lắc đầu chán ngán, có người lại sụt sùi mà suy ngẫm về những phận đời, phận người nổi trôi. Nổi bật nhất trong dòng ca dao than thân là chủ đề viết cho người phụ nữ, nhất là phụ nữ thời phong kiến. Phải ở trong hoàn cảnh thời ấy, mới thấu hiểu sâu sắc cái khó và cái khổ của họ.

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Thân em như tấm lụa đào

Phải công nhận rằng, tấm lụa đào thời phong kiến rất quý. Ngày xưa, gấm vóc hay tơ lụa là thuộc hàng hóa thượng hạng, không phải ai cũng có thể sở hữu. Chỉ những người có tiền của hay chức sắc trong vùng may ra mới mua nổi. Vậy nên câu ca dao này chứng tỏ người phụ nữ ở đây rất đẹp và cao quý.

Thế nhưng, phụ nữ thời xưa lại có được xem trọng bao nhiêu đâu.Lúc nhỏ ở nhà mới đỡ cơ cực một tí vì có cha mẹ bên cạnh chăm sóc và lo lắng. Khi lớn hơn một chút lại phải bắt đầu học hành nữ công gia chánh, việc đồng án trong ngoài. Lớn thêm chút nữa thì phải theo như thông lệ xuất giá theo chồng. Sinh ra là phụ nữ đã khổ, nếu chọn nhầm người đàn ông của đời mình thì càng khổ hơn.

Có ai biết trước mình sẽ được gả vào một gia đình như thế nào, rồi người mà mình gọi là chồng sẽ đối xử với mình ra sao? Người con gái đẹp như một tấm lụa đào nhưng số phận về sau đâu ai biết trước! Tấm lụa đào được đem ra so sánh với người phụ nữ. Mặc dù đẹp và quý nhưng trước sau gì cũng cũng phải vào tay một người. Mà người ấy chưa biết là người như thế nào? Là người kẻ phàm tục hay người nho nhã? Hệt như phụ nữ lấy chồng tuổi mới lớn vậy. Nếu may mắn sẽ gặp được người yêu thương và đỡ đần cho mình. Còn bằng bất hạnh thì đành phải chấp nhận số phận.

Phụ nữ không chỉ phải công dung ngôn hạnh chu toàn và còn cần học theo tam tòng tứ đức. Lúc sống bên chồng dù có được yêu thương thì vẫn là nhà người ta, đắng cay không dám than còn khổ cực không nỡ để cha mẹ già hay biết. Nhiều người còn khổ hơn, đã không được chồng thương mà mẹ chồng còn khắt khe cộng thêm em chồng cay nghiệt. Nhiều lúc nghĩ không biết phải sống tiếp vì điều gì?

Người xưa bảo “hồng nhan bạc phận”, hễ người đẹp thì thường khổ. Mà ai biết có khi người con gái xấu lại càng khổ hơn. Chung quy, nếu may mắn gặp người trân trọng mình thì còn có chút động lực, bằng ngược lại thật chỉ biết rửa mặt bằng nước mắt cho qua ngày. Tấm lụa đào sẽ vào tay ai?

Ai bảo phụ nữ chỉ nên yếu đuối thì mới nhận được nhiều yêu thương. Thử hỏi cái thời xa xưa ấy, người phụ nữ đã khổ cực trăm bề mà lại còn yếu đuối nữa thì làm thế nào để tồn tại đây? Đời có mấy khi được dễ dàng đâu! Đừng nói tới phụ nữ thời xưa, cả bây giờ vẫn chưa đoán trước được chuyện gì cả.

Phân tích bài ca dao (mẫu 5)

Việt Nam ngày trước với chế độ phong kiến cổ hủ, “trọng nam khinh nữ” trở thành định kiến khó có thể lay chuyển nổi. Chính vì thế mà số phận người phụ nữ trong xã hội ấy rất đau khổ và bi thương. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc trong đó có bài cao dao với bao lời than thân tủi nhục:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Ca dao xưa là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tập thể rất phổ biến, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội phong kiến với nhiều lễ giáo. Chính những phong tục cổ hủ và lễ giáo phong kiến ấy đã đè ép biết bao nhiều số phận người phụ nữ, khiến họ bất hạnh, bị dồn vào đường cùng., Bài ca dao trên mở đầu với mô tuýp “thân em” quen thuộc. Nghe hai từ “thân em” thật đỗi dịu dàng khiến ta liên tưởng đến người con gái nhỏ bé, yếu ớt. “Em” chứ không phải “tôi” , “cô”, xưng “em” ta cảm nhận được sự nhún nhường yếu đuối của người phụ nữ. Lời than thân nghe mà chan chứa nước mắt nhẹ bẫng trong không gian mà nặng trĩu trong lòng người. Với biện pháp so sánh “thân em” với “tấm lụa đào”, câu ca dao đã ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ. Tấm lụa đào là một mảnh vải lụa mỏng manh, mềm mại nhẹ nhàng dùng để may những chiếc áo, như chính người phụ nữ thời xưa . Họ mang vẻ đẹp tâm hồn cao quý nhưng chỉ là cái bóng lặng lẽ, thậm chí là vô hình, cứ vậy mà sống với đầy rẫy những bất công bởi nền tảng phong kiến cố hữu. Tấm lụa đào tuy đẹp đẽ là thế nhưng cuối cùng chúng chỉ là những thứ được bày bán ở chợ đông người:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Không gian ở đây là nơi chợ đông đúc, xô bồ với đủ thể loại người kẻ mua, người bán với các loại mặt hàng khác nhau đa dạng phong phú thì đâu đó “tấm lụa đào” đẹp đẽ mỏng manh đang bay “phất phới”. Một từ láy diễn tả hết thảy hoàn cảnh người phụ nữ đang phải đối mặt. Họ trở thành đồ trang trí được bày bán giữa chợ, làm thứ để người ta tùy ý nâng lên đặt xuống, hay tuy ý bay trong gió sương. Liệu có ai giữa nơi đông kịt ấy nhận ra giá trị của tấm lụa đào, hay nó cứ mãi phất phơ trước gió, mất định hướng mặc cho đẩy đưa giữa giông gió “hoa trôi mang mác biết là về đâu” .Những người phụ nữ yếu mềm ấy làm sao đủ sức, chủ động đối mặt với khó khăn,cũng không định hướng nổi cho cuộc đời mình rồi sẽ ra sao. Câu hỏi tu từ vang lên không chỉ để hỏi mà đó là tiếng kêu , tiếng than da diết đầy bi ai. Chẳng thế đoán định nổi tương lai họ sẽ gặp một càng Kim Trọng thư sinh phong nhã hay gặp kẻ như Mã Giám Sinh lừa lọc gian xảo, một Trương Sinh ích kỉ hẹp hòi. Cứ hoài nghi tương lai khiến người phụ nữ ngày ngày sống trong hy vọng rồi lại lo lắng canh cánh một nỗi sợ trong lòng. Họ hoàn toàn thụ động, trở thành những “kẻ yếu” trong xã hội cũ như Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh vậy. Không còn khả năng chống lại hay phản kháng, phó mặc số phận cho đời rồi chìm mình vào những nỗi khổ đau bất hạnh không lối thoát. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.

Như vậy, bài ca dao là một thời than, một câu hỏi dài vang lên những bi thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Qua đó ta nhận ra giá trị ,vẻ đẹp tâm hồn của họ, đồng cảm và xót thương cho “thân em” đồng thơi ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.

Phân tích bài ca dao (mẫu 6)

Trong kho tàng ca dao của Việt Nam có rất nhiều bài ca dao phản ánh một cách chân thực đời sống tâm hồn của con người. Mỗi một bài ca dao đề cập đến một nội dung riêng của đời sống mà trong đó nội dung than thân khiến người đọc cảm thấy xúc động và xót xa hơn cả. Người phụ nữ sống trong xã hội cũ đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi và họ chỉ có một cách duy nhất để thương cho chính mình đó là gửi tâm tư vào trong những bài ca dao như:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Có rất nhiều bài ca dao bắt đầu bằng hai chữ thân em như vậy chẳng hạn “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như giếng nước giữa đàng”, “Thân em như lá đài bi”,… Tất cả đều nằm trong nhóm ca dao than thân và ta thấy ở mỗi một bài ca dao người phụ nữ lại bị đẩy vào những hoàn cảnh khác nhau. Họ chủ yếu bị phụ thuộc, sống nhưng không có tiếng nói, không được coi trọng. Mặc dù cũng bắt đầu bằng hai chữ thân em nhưng bài ca dao Thân em như tấm lụa đào vẫn mang những nét riêng biệt. Ở đây người phụ nữ đã ví thân mình như tấm lụa đào. Rõ ràng sự so sánh này so với những sự so sánh khác như tôi lấy ví dụ ở trên có sự khác biệt hoàn toàn. Khi ví thân mình như tấm lụa đào, người phụ nữ đã nhận thức được vẻ đẹp của bản thân mình. Đó là vẻ đẹp mềm mại, nổi bật và đầy sức sống. Có thể nói người phụ nữ trong bài ca dao đang ở thời kì thanh xuân đầy rực rỡ. Đây cũng là giai đoạn đẹp nhất của người phụ nữ. Đáng lẽ ở giai đoạn này người phụ nữ phải được hưởng hạnh phúc nhiều nhất nhưng câu ca dao sau lại dập tắt mọi hi vọng.

Tấm lụa đào vừa đẹp đẽ lại vừa giá trị nhưng nó không được nằm ở vị trí trang trọng mà lại phất phơ giữa chợ. Chợ là nơi đông đúc người qua kẻ lại, là nơi mà mọi thứ đều có thể mua được bằng tiền. Như vậy tấm lụa đào cũng chỉ như một món hàng hóa mà bất cứ ai cũng đều có thể sở hữu. Tấm lụa đào không có quyền tự quyết, không biết rồi đây mình sẽ rơi vào tay ai. Rơi vào tay người biết trân trọng thì cuộc sống bớt tủi hờn còn rơi vào tay người không biết trân trọng thì coi như cuộc sống không còn những niềm vui.

Bài ca dao đã bộc lộ rõ sự lo lắng của người phụ nữ về số phận của mình. Dù có đẹp đến mấy, có giá trị đến mấy thì cũng còn phụ thuộc vào tay người sở hữu. Cách ngắt nhịp 2/2/2 khiến cho bài ca dao nghe nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng thấm thía và bộc lộ được tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Thông qua bài ca dao chúng ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ đã nhận thức được giá trị của bản thân mình, chỉ tiếc là xã hội chưa công nhận họ nên họ vẫn chưa có cái quyền mưu cầu hạnh phúc, chưa có quyền tự quyết. Qua đây chúng ta hiểu và càng trân trọng hơn những người phụ nữ ấy.

Phân tích bài ca dao (mẫu 7)

Ca dao dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động. Ca dao đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống, một trong những khía cạnh đó chính là lời than thân ai oán, xót xa của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Một trong những bài ca dao tiêu biểu thể hiện lời than thân ấy chính là bài:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Cuộc đời của người phụ nữ xưa phải chịu vô vàn tủi cực, đắng cay bất hạnh, nó đã được phản ánh trong rất nhiều bài ca dao khác nhau như:

Chàng ơi phụ thiếp làm chi

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng

Hay:

Thân em như lá đài bi,

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương

Ngày ngày hai bữa cơm đèn

Lấy gì mà phấn răng đen hỡi chàng.

Bài ca dao cũng nói về thân phận, số phận bất hạnh của người phụ nữ, song ở bài ca dao này vẫn có những điểm riêng biệt. Đây là một trong số ít bài ca dao mà người phụ nữ ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của bản thân: “Tấm lụa đào”. Tấm lụa mang vẻ đẹp mềm mại, óng ả, nổi bật về màu sắc. Không chỉ vậy tấm lụa đào còn tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân đẹp đẽ, giàu sức sống, đây là giai đoạn đẹp nhất với mỗi người con gái. Và nhân vật trữ tình – người con gái cũng ý thức rất rõ về vẻ đẹp của bản thân.

Nếu trong câu thơ thứ nhất lời thơ vui vẻ, khẳng định bản thân bao nhiêu thì câu thơ thứ hai lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu: “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. “Tấm lụa đào” vừa đẹp về hình thức, vừa giàu giá trị nhưng lại “phất phơ giữa chợ” – nơi kẻ qua người lại buôn bán trao đổi hàng hóa, vật dụng. Ở nơi đó mọi vật đều có thể mua bán bằng tiền. Bởi vậy “tấm lụa đạo” đã trở thành một món hàng hóa, có thể mua bán và trở thành vật sở hữu của bất cứ đối tượng nào. Tấm lụa không được lựa chọn, không được tự quyết định số phận của mình. Hình ảnh ẩn dụ kết hợp với câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, mong manh của người phụ nữ xưa. Đó cũng là lời than, ai oán của biết bao người phụ nữ:

Thân em như giếng giữa đàng

Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân.

Nghệ thuật của bài cũng là một nét đặc sắc không thể không kể đến. Trước hết sử dụng motip quen thuộc “thân em”. Motip này thường kết hợp với các sự vật, hiện tượng giản dị, gần gũi với con người: “tấm lụa” “miếng cau” “hạt mưa sa” “củ ấu gai”,… kết hợp với biện pháp so sánh, cho thấy rõ nét vẻ đẹp, cũng như số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngôn ngữ bài ca dao có sự chọn lọc kĩ lưỡng, giàu giá trị biểu cảm nhưng lại vô cùng giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Bài ca dao ngắn, chỉ có hai câu, sử dụng thể thơ lục bát với nhịp chẵn 2/2/2 dịu dàng, êm ái với cách gieo vần chân đã diễn tả một cách chính xác tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó, kết hợp hài hòa với nhau tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Bằng thứ ngôn ngữ giản dị, giàu giá trị biểu cảm bài ca dao đã cho thấy vẻ đẹp và thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều bất công, không được quyền quyết định cuộc đời, lựa chọn hạnh phúc cho bản thân. Bài ca dao giúp ta thấu hiểu sâu sắc hơn nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, và trân trọng cuộc sống bình đẳng hiện nay.

Phân tích bài ca dao (mẫu 8)

Chế độ phong kiến hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã từng bước dồn ép người phụ nữ vào con đường không lối thoát, họ phải sống trong sự áp đặt, bị vùi dập bị coi thường, nhưng không thể phản kháng bởi họ không có cái quyền đó. Trong khi người ta đề cao vai trò của người đàn ông bao nhiêu thì người phụ nữ lại càng trở nên rẻ rúng bấy nhiêu. Đã có biết bao người phụ nữ phải đau khổ, ngậm đắng nuốt cay, không khỏi than vãn cho cuộc đời mình, xưa có nàng Kiều bạc mệnh, có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, dù tài sắc vẹn toàn nhưng đời cũng lắm truân chuyên. Để rồi nhiều cay đắng tủi nhục quá, người phụ nữ đã có những câu hát, câu ca dao than thân ví von thật sâu sắc, cũng thật bi ai.

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”

Từ “em” là chỉ người phụ nữ thời xưa, họ tự ví mình như “tấm lụa đào”, ở đây có đến tận hai nghĩa. Thứ nhất là phiếm chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam khi xưa, đã là lụa, lại còn là lụa đào, một màu đỏ hồng phơn phớt tựa như đôi má đào của người con gái còn son trẻ. Vẻ đẹp ấy không chỉ là sự mềm mại, uyển chuyển, kinh diễm mà còn là những nét đẹp từ sâu trong tâm hồn người phụ nữ, là lòng thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả, công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức thời phong kiến ấy phụ nữ nào mà không có đủ. Một nghĩa khác, “tấm lụa đào” ấy tuy đẹp nhưng lại vô cùng mỏng manh, yếu đuối, dễ bị tổn thương, khiến ta dễ liên tưởng đến số phận long đong, nhẹ tựa lông hồng của người phụ nữ. Đó là một thân phận mà tiếng nói không có giá trị, thân phận không có giá trị, bị người ta xem nhẹ, nhiều lúc những tưởng chẳng khác gì một món đồ đẹp mà nhẹ bẫng, bỏ chút tiền đã có được. Thân phận “tấm lụa đào” là như vậy.

Câu “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” càng nói lên nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận của người phụ nữ. Tại sao nhẹ nhàng đẹp đẽ, bay bổng đến thế mà lại chẳng thể quyết định số phận của mình. “Phất phơ giữa chợ”, người phụ nữ tự ví mình không khác gì món hàng đem đặt giữa chợ cho người đời chọn lựa, nâng lên đặt xuống, kì kèo mặc cả, chẳng may nếu không “bán” được thì lại chịu số phận bị bỏ đi hay sao. Mấy chữ “biết vào tay ai”, càng làm người ta hiểu được cái số lênh đênh của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả người vốn tài sắc và bản lĩnh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng chẳng thoát khỏi kiếp đong đưa. Bà bất hạnh có hai đời chồng, rồi cả hai lần đều chịu kiếp làm lẽ, đêm ngày sống trong cay đắng, thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên rằng “chém cha cái kiếp chồng chung”, thì hẳn bà đã phải căm giận đến mức độ nào. Không chỉ riêng mình Hồ Xuân Hương mà có lẽ cả vạn kiếp phụ nữ thời ấy đều có chung một nỗi đớn đau, hờn tủi như vậy. Khi mà chế độ phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó, không có quyền phản kháng lựa chọn, biết là gặp được người chung tình, biết làm ăn, yêu thương vợ con hay gặp phải kẻ sở khanh, ăn chơi trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan khi ấy chỉ trông vào mỗi sự may mắn của số phận, tựa hạt mưa sa, trời thương thì vào lầu son gác tía, trời không thương thì chịu lạc ra ruộng cày chẳng biết.

Toàn bộ câu ca dao nghe thì phong tình, phong nhã đấy nhưng đọc thật kỹ, để suy tư nghiền ngẫm thì mới thấy được lời than oán thật tinh tế mà người xưa gửi gắm. Thân phận phụ nữ là tấm lụa mượt mà, quý giá nhưng lại chẳng ai chịu hiểu cho vẻ đẹp tiềm ẩn ấy. Đó là lời than, lời oán trách thật nhẹ nhàng, nhưng rất đỗi ngậm ngùi xót xa, đại biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu ớt và tế nhị của người phụ nữ khi xưa đối với những bất công ngang trái mà họ phải gánh chịu. Làm thân con gái đã thiệt thòi, lại phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục thì sao có thể không xót xa, không hờn giận cho cam.

Phân tích bài ca dao (mẫu 9)

Trong xã hội xưa người phụ nữ luôn là những người bé cổ thấp họng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ không dám cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền đấu tranh. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc :

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ. Bài ca dao mở đầu bằng công thứ quen thuộc “thân em” tựa như những khúc tự hát buồn. Ta còn bắt gặp ở trong rất nhiều bài ca dao khác, trở thành tiếng nói thân phận chung của người phụ nữ xuất hiên trong xã hội xưa. Bài ca dao là sự tự ý thức về thân phận mình giữa cuộc đời người phụ nữ tự ví mình với những vật nhỏ bé “ tấm lụa đào” gợi vẻ dịu dàng, duyên dáng. Lụa là thứ vải quý qua đó cho thấy vẻ đẹp duyên dáng, trẻ trung nữ tính của người phụ nữ. Người phụ nữ rất có ý thức về giá trị của mình, tự khẳng định bản thân. Hai câu ca dao tưởng đây là lời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, tuy nhiên dải lụa đào đẹp. sang trọng, kiêu hãnh như thế lại bị đặt vào giữa chợ, trở thành đối tượng sở hữu của nhiều người có nhu cầu mua bán. Hình ảnh khiến người đọc thấm thía số phận lệ thuộc, bị định đoạt, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: “ Đau đớn thay phận đàn bà” và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng.”

Đặc biệt câu hỏi tu từ “ biết vào tay ai” đã diễn tả nỗi xót xa, lo âu về số phận không thể định đoạt. Người phụ nữ không chỉ khổ về cái nghèo, cơ cực mà còn khổ về những dày vò trong tâm hồn. Chính xã hội phong kiến với hủ tục hà khắc ràng buộc lễ nghi đã đẩy họ chìm vào nỗi khổ không thể thoát ra. Và cùng là nỗi đau xót nhất là nhân vật trữ tình trong lời than thân khi người con gái ở trong lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời thì nỗi lo âu về thân phận lại ập ngay đến với họ. Sự đối lập giữa hai dòng thơ cho ta thấm thía nỗi lo và nỗi đau về thân phận người phụ nữ giữa cuộc đời. Câu hỏi mà cũng là lời than, lời mong trước cuộc đời đầy bất trắc là biểu hiện của trạng thái sống lo âu, bị động xét đến cùng là tiếng than thân. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.

Bài ca dao với việc sử dụng khéo léo những hình ảnh so sánh, ví von ẩn dụ từ nhguwx sự vật quen thuộc hàng ngày đãtruyền tải sâu sắc thấm thía nỗi niềm của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Phân tích bài ca dao (mẫu 10)

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị coi thường, rẻ rúng. Họ luôn phải chịu đựng những bất công trong xã hội, không được làm chủ chính mình. Những người phụ nữ đã cất lên lời than để bày tỏ nỗi niềm của mình, để cho người đời thấu hiểu cảm thông cho thân phận họ. Những lời than ấy được viết thành những câu hát dân ca, những bài ca dao lưu truyền rộng rãi. Một trong số đó chính là câu:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Câu ca dao được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của tộc. Bài ca dao mở đầu bằng từ “thân em”. Đây là một cách mở đầu quen thuộc, thường thấy trong ca dao và nó trở thành mô típ được sử dụng nhiều trong những câu hát than thân. Ví như câu:

Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa”

Hay câu:

“Thân em như giếng giữa đàng

Người thanh rửa mặt người phàm rửa chân”

Mô típ này chính là để bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội cũ. “Thân em” là thân phận cửa người phụ nữ nói chung. Ngay từ từ đầu tiên trong câu thơ thứ nhất đã nhấn mạnh đến đối tượng mà câu ca dao hướng đến. “Thân em” giống như một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng của người con gái đang chuẩn bị giãi bày tâm sự của mình. Bên cạnh đó tác giả dân gian còn sử dụng biện pháp so sánh giữa “thân em” với “tấm lụa đào”. Phép so sánh ngang bằng để thấy được em như tấm lụa đào.

Trước tiên chúng ta phải hiểu được thế nào là tấm lụa đào để có thể hiểu được nghệ thuật so sánh trong bài ca dao này. Tấm lụa đào là một loại vải óng ả, mềm mượt và đẹp. So sánh người phụ nữ với tấm lụa đào để khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ. Họ không chỉ đẹp bởi nhan sắc bên ngoài mà còn ở cả những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ví người phụ nữ giống như chiếc bánh trôi nước:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Đó là vẻ đẹp bên ngoài tròn trịa, đầy đặn và phúc hậu của người phụ nữ. Hơn thế nữa còn có vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn “mà em vẫn giữ tấm lòng son. Thế mới thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ nhẹ nhàng, thanh thoát giống như tấm lụa đào nổi bật hơn hẳn so với các loại vải khác. Đó là một thứ vải mềm, mỏng manh dùng để làm được nhiều vật dụng khác. Ứng với người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ không chỉ đẹp đẽ ở bề ngoài mà còn là người có tấm lòng nhân hậu, là những người chịu thương chịu khó, chăm chút cho gia đình. Họ là những chiếc bóng âm thầm, lặng lẽ hi sinh cho người khác, họ chịu nhiều những đắng cay, tủi nhục nhưng lại không hề được trân trọng:

“Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Éo le thay tấm lụa đào vốn đẹp đẽ lại đặt ở giữa chợ, một nơi đông đúc, xô bồ và có muôn loại người trong xã hội. Có những người có con mắt tinh tường biết được giá trị của tấm lụa đào nhưng cũng đầy kẻ chẳng phân biệt được tốt xấu, ánh mắt phàm tục. Tấm lụa đào vô tri vô giác chỉ biết lẳng lặng đứng trong quầy hàng và chờ đợi, ngóng trông không biết mình sẽ rơi vào tay ai bây giờ. Vốn là một thứ đẹp đẽ, có giá trị nhưng lại không tự quyết định cho số phận mình, họ bị đẩy vào trạng thái thụ động chỉ quanh quẩn trong nhà.

Như chúng ta đã biết, người phụ nữ trong xã hội xưa thường phải sống một cuộc sống khuôn phép, tuân theo nhiều quy tắc trong xã hội. Họ ngoài việc lao động, chăm sóc chồng con còn phải tuân thủ tam tòng, tứ đức. Tam tòng chính là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Có thể thấy người đàn ông mới là trụ cột trong gia đình và người phụ nữ phải lấy người đàn ông làm gốc để thực hiện hoạt động của mình. Rồi tứ đức tức là người phụ nữ phải có đủ công – dung – ngôn – hạnh, không được làm trái với những điều trên.

Câu ca dao đã đem lại cho chúng ta cái nhìn về số phận cam chịu, tủi nhục mà người phụ nữ xưa từng phải trải qua. Với cách so sánh giàu tính biểu tượng, câu ca dao đem lại cho người đọc nhiều tình cảm, cảm xúc. Những nỗi lo âu, bất lực trước số phận. Những con người cam chịu cả một đời nhận lấy đắng cay muôn phần. Ấy vậy mà họ chẳng hề được người ta cảm thông, sẻ chia.

Câu ca dao trên, người xưa không chỉ dùng để than thân trách phận mà còn bộc lộ nỗi niềm khao khát nhận được sự đồng cảm và được hưởng sự công bằng trong xã hội.

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 10 hay, chi tiết khác:

Phân tích bài ca dao số 6

Phân tích bài ca dao hài hước số 1

Cảm nhận bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

1 6,664 22/05/2022
Tải về