Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (10 mẫu)

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng lớp 10 gồm dàn ý và 3 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 10 hay hơn.

1 1186 lượt xem
Tải về


Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng - Ngữ văn 10

Dàn ý số 1

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều: Nguyễn Du là cây đại thụ của nền văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một kiệt tác của nền văn học.

- Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng: Vị trí và nội dung.

II. Thân bài

a. Hoàn cảnh chia tay:

- Thời gian

   + “Nửa năm”: Khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống.

   + “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say đắm của Thúy Kiều – Từ Hải.

→ Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc

→ Ý chí quyết tâm, khí chất anh hùng.

b. Hình ảnh từ Hải

* Lí do ra đi:

- “Trượng phu”: Là từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm nghĩa khâm phục, ngợi ca.

→ Cách nói này thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng, dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.

- “Thoắt”: là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ.

→ Nó cho thấy cách nghĩ, cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải. Đó chính là tính cách của người anh hùng.

- “Động lòng bốn phương”: Chỉ Chí khí anh hùng, khát khao tung hoành.

→ Đó cũng là lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà để ở bốn phương trời, ở không gian rộng lớn, quyết mưu sự nghiệp phi thường.

* Tư thế ra đi

- “Trông vời trời bể mênh mang”: cụm từ mang cảm hứng vũ trụ.

→ Tầm nhìn xa trông rộng và suy nghĩ phi thường.

- “Thanh gươm yên ngựa”: một mình, một gươm, một ngựa

→ Tư thế hiên ngang, dũng mãnh, phóng khoáng

- “Lên đường thẳng rong”: đi liền một mạch, không lưu luyến, bịn rịn.

→ Tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất.

⇒ Từ Hải là con người của khát vọng, công danh phi thường.

III. Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

- Ý nghĩa của đoạn trích: Thể hiện ước mơ về người anh hùng lý tưởng và ca ngợi tấm chân tình của Từ Hải và Thúy Kiều.

Dàn ý số 2

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều

- Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng

II. Thân bài

1. Khát vọng lên đường của Từ Hải (4 câu thơ đầu)

a. Hoàn cảnh chia tay:

- Thời gian

+ “Nửa năm”: Khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống.

+ “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say đắm của Thúy Kiều – Từ Hải.

=> Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc

=> Ý chí quyết tâm, khí chất anh hùng.

b. Hình ảnh Từ Hải

* Lí do ra đi:

- “Trượng phu”: Là từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm nghĩa khâm phục, ngợi ca.

=> Cách nói này thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng, dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.

- “Thoắt”: là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ.

=> Nó cho thấy cách nghĩ, cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải. Đó chính là tính cách của người anh hùng.

- “Động lòng bốn phương”: Chỉ chí khí anh hùng, khát khao tung hoành.

=> Đó cũng là lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà để ở bốn phương trời, ở không gian rộng lớn, quyết mưu sự nghiệp phi thường.

* Tư thế ra đi

- “Trông vời trời bể mênh mang”: cụm từ mang cảm hứng vũ trụ.

=> Tầm nhìn xa trông rộng và suy nghĩ phi thường.

- “Thanh gươm yên ngựa”: một mình, một gươm, một ngựa

=> Tư thế hiên ngang, dũng mãnh, phóng khoáng

- “Lên đường thẳng rong”: đi liền một mạch, không lưu luyến, bịn rịn.

=> Tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất.

=> Từ Hải là con người của khát vọng, công danh phi thường.

2. Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải (12 câu thơ tiếp)

a. Lời của Kiều

- Xưng hô: “chàng- thiếp” → dịu dàng, ân cần.

- “Phận gái chữ tòng”: Ý thức bổn phận

- “Một lòng xin đi”: quyết tâm theo Từ Hải

=> Thúy Kiều kính trọng và hết mực yêu thương chồng. Xứng danh là tri kỷ của Từ Hải.

b. Lời của Từ Hải

* Lời đáp

- “Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết.

- “Nữ nhi thường tình”: Người phụ nữ ủy mị, yếu đuối

=> Khuyên Kiều vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ một anh hùng.

* Lời hứa

- Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”: tương lai thành công.

- “Rõ mặt phi thường”: chứng tỏ được tài năng xuất chúng

=> Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp

- “Rước nàng nghi gia”: cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn

=> Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

* Lời khuyên

- “Bốn bể không nhà”: thực tế khó khăn, gian nan.

- “Theo càng thêm bận”: việc lớn sẽ bị ảnh hưởng, không quan tâm, lo cho Kiều được

- “Đành lòng chờ đó ít lâu”: an ủi, mong Kiều bằng lòng chờ đợi.

- “Một năm sau”: thời gian cụ thể. Hứa hẹn sẽ thành công

=> Từ Hải là người chồng tâm lí - người anh hùng nhưng rất vẫn đời thường, gần gũi, chân thực.

=> Từ Hải là người anh hùng có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai lại là người tâm lí, rất đời thường.

3. Quyết tâm ra đi của Từ Hải (2 câu thơ cuối)

- Hành động: Quyết lời, dứt áo ra đi

=> Thái độ, hành động dứt khoát, không hề do dự, bịn rịn.

- Hình ảnh ẩn dụ: “chim bằng”: Là loài chim quý tượng trưng cho người anh hùng.

=> Khẳng định Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với đất trời, vũ trụ

=> Từ Hải là người anh hùng có tài năng, bản lĩnh, chí khí, ước mơ công lí.

4. Nghệ thuật

- Sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng

- Lời đối thoại bộc lộ tính cách.

- Nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng qua dáng vè, hành động.

III. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 1)

Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:

Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ Chí khí anh hùng chính là tiêu biểu nhất cho điều này.

Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong Kim Vân Kiều truyện chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.

Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại – sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn. Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong Truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao

Hay như:

                                                    Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

                                                    Xếp bút nghiên theo việc binh đao

                                                    Dã nhà đeo bức chiến hào

                                                    Thét roi cầu vị ào ào gió thu

(Chinh phụ ngâm, Đoàn Thị Điểm)

Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của Chinh phụ ngâm là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (3 mẫu) (ảnh 1)

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 2)

Truyện Kiều là truyện thơ kinh điển trong nền văn học Việt Nam. Nó xuất sắc không chỉ bởi ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn nhờ ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Qua đó, Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời – xã hội phong kiến cổ hủ, thối nát đã vùi dập ông – hay nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác. Chính vì vậy Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Việc đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, để Nguyễn Du đã làm sáng lên hình ảnh của những bậc anh hùng thời bấy giờ – con người tài năng và ý chí san phẳng mọi bất bình, vươn lên bởi nghĩa khí và tài năng cá nhân. Hình ảnh nhân vật Từ Hải được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Chí khí anh hùng.

Rơi vào lầu xanh lần thứ 2, Kiều gặp Từ Hải và được cứu vớt ra khỏi cuộc sống tủi nhục. Hai người đến với nhau bởi sự hòa hợp về tâm hồn, để rồi :

Trai anh hùng gái thuyền quyên

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng

Từ Hải có tâm hồn cao thượng và đậm chất thơ, nhưng chàng mang cốt cách của một kẻ ngang tàng hào phóng, tình cảm và lí tưởng thống nhất chứ không đồng nhất, bởi vậy mà:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu: “Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nênnét riêng của chàng.

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao rộng.Tác giả dùng từ “trượng phu” để chỉ Từ Hải (đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này). ”Trượng phu” nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ. Đó là cách xử sự bất thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình. Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường.

Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, “nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ”. Chí khí ấy, thật đáng nể phục biết bao… Nhưng chính vì nó mà Kiều và Từ Hải phải xa nhau khi tình yêu đang nồng thắm , cũng có nghĩa là chính xã hội phong kiến và những tư tưởng cũ đã lấy đi hạnh phúc lứa đôi của nàng. Qua phân tích 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Chí khí anh hùng đã làm sáng tỏ lên điều đó.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 3)

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy Chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 4)

  Truyện Kiều là truyện thơ kinh điển trong nền văn học Việt Nam. Nó xuất sắc không chỉ bởi ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn nhờ ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Qua đó, Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời – xã hội phong kiến cổ hủ, thối nát đã vùi dập ông – hay nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác. Chính vì vậy Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Việc đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, để Nguyễn Du đã làm sáng lên hình ảnh của những bậc anh hùng thời bấy giờ - con người tài năng và ý chí san phẳng mọi bất bình, vươn lên bởi nghĩa khí và tài năng cá nhân. Hình ảnh nhân vật Từ Hải được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Chí khí anh hùng.

       Rơi vào lầu xanh lần thứ 2, Kiều gặp Từ Hải và được cứu vớt ra khỏi cuộc sống tủi nhục. Hai người đến với nhau bởi sự hòa hợp về tâm hồn, để rồi :

“ Trai anh hùng gài thuyền quyên

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng“

       Từ Hải có tâm hồn cao thượng và đậm chất thơ, nhưng chàng mang cốt cách của một kẻ ngang tàng hào phóng, tình cảm và lí tưởng thông nhât chứ không đồng nhất, bởi vậy mà:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

       Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu ‘Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể’.

       Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nên nét riêng của chàng.

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

       Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao rộng. Tác giả dùng từ “trượng phu” để chỉ Từ Hải (đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này). ”Trượng phu” nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảng khắc bất ngờ. Đó là cách xử sự bất thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác.  Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình . Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình. Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường.

       Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, ‘nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ’. Chí khí ấy, thật đáng nể phục biết bao… Nhưng chính vì nó mà Kiều và Từ Hải phải xa nhau khi tình yêu đang  nồng thắm , cũng có nghĩa là chính xã hội phong kiến và những tư tưởng cũ đã lấy đi hạnh phúc lứa đôi của nàng. Qua phân tích 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Chí khí anh hùng đã làm sáng tỏ lên điều đó.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 5)

       Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:

“ Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

       Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.

       Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi, cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.
Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

       Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

       Hay như:

“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

Xếp bút nghiêng theo việc binh đao

Dã nhà đeo bức chiến hào

Thét roi cầm vị ào ào gió thu”

(Chinh phụ ngâm_ Đoàn Thị Điểm)

       Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 6)

       Truyện Kiều là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều nhưng phải đến khi Từ Hải xuất hiện người đọc mới thấy đây là hình tượng nhân vật lí tưởng gửi gắm ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” cho ta cái nhìn chân thực nhất về vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải

       Từ Hải xuất hiện vào lúc Thúy Kiều chán chường, tuyệt vọng, đau khổ tột cùng khi lần thứ hai bước chân vào lầu xanh. Chàng giống như một vị cứu tinh, cứu vớt cuộc đời Kiều, hơn hết đó là tri kỉ gặp tri kỉ để được tri âm. Từ Hải đã nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy chân dung Từ Hải sắc nét và chân thực nhất với chí khí của một anh hùng trong thiên hạ.

 

       Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Cuộc hôn nhân hạnh phúc với Thúy Kiều không làm chàng mải mê mà quên đi nghiệp lớn. Dù thời gian không quá dài, sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

       Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

       Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Chữ “trượng phu” trong

       Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du dựng lên chân dung người anh hùng lí tưởng là Từ Hải. Chữ “thoắt” thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ “động lòng bốn phương” nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh). Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng lên đường hoàn thành sự nghiệp và cũng chính là hoài bão lớn nhất của cuộc đời. sự kiên định, vững vàng trong tư thế ra đi ngạo nghễ, hiên ngang ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong tâm trí của người anh hùng.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 7)

Trong Truyện Kiều, bên cạnh việc bày tỏ tấm lòng đồng cảm, trân trọng với con người tài hoa nhưng phải chịu kiếp bạc mệnh như Thúy Kiều, đại thi hào Nguyễn Du còn bộc lộ ước mơ về một hình tượng người anh hùng lý tưởng thắp lên ánh sáng hy vọng được giải phóng giữa thực tế xã hội toàn thối nát. Điều này được thể hiện rất rõ đoạn trích Chí khí anh hùng.

Sau nhiều năm lưu lạc, chịu đủ mọi khổ ải, tủi nhục chốn phong trần, Thúy Kiều đã gặp Từ Hải. Người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ấy là ánh sáng chói lọi giữa cuộc đời tăm tối của một kiếp hồng nhan. Từ Hải không chỉ cứu Thúy Kiều ra khỏi chốn lầu xanh, giúp nàng báo ân, báo oán mà còn trân trọng, coi nàng như một người tri kỉ. Vẻ đẹp về tầm vóc và lí tưởng của người anh hùng Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tập trung khắc họa rõ nét nhất thông qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

Từ Hải trong Truyện Kiều là người được miêu tả với vẻ đẹp mạnh mẽ “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”, tráng kiện, lực lưỡng, là dáng vóc của người anh hùng, tay quen với chuyện binh đao, võ lược. Đặc biệt Nguyễn Du còn nhắc tới hai nét đẹp ấn tượng hơn người của Từ Hải rằng “côn quyền hơn sức”, “thao lược gồm tài”. Chính vì thế, Từ Hải ắt không phải là con người chịu cảnh an phận thủ thường, sống cuộc đời cẩm y ngọc thực như Thúc Sinh, cũng không thể nhiều kiên nhẫn để trông đợi vào công danh thi cử giống như Kim Trọng.

Với nhân vật này chuyện chinh chiến, thao lược tìm công danh, khẳng định bản thân trong xã hội là chuyên ắt phải làm, đặc biệt là trong hoạt cảnh xã hội nhiều biến động lúc bấy giờ. Vậy nên chỉ sau “nửa năm hương lửa đương nồng” với Thúy Kiều, Từ Hải đã không tiếc rời xa cuộc sống êm đềm với người vợ tài sắc, để lên đường tìm công danh, thỏa chí làm trai ở bốn phương:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Câu thơ thể hiện được ý chí mạnh mẽ, tấm lòng quyết tâm phải làm nên nghiệp lớn của người anh hùng. Từ “thoắt” thể hiện thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm mạnh mẽ, sự chuyển đổi nhanh chóng trong tâm lý của Từ Hải từ việc rời bỏ cảnh sống êm đềm, chuyển sang những ngày tháng bôn ba vất vả trong tương lai vì sự nghiệp.

Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi diễn tả tráng chí của Từ hải bằng cụm “động lòng bốn phương” thể hiện tầm vóc lớn lao trong ý chí của nhân vật, cũng như ước mơ khao khát làm nên nghiệp lớn, làm chủ một phương của Từ Hải.

Hai từ “trượng phu” càng thể hiện tấm lòng trân trọng, yêu thương, bộc lộ lí tưởng của Nguyễn Du về dáng vóc của một người anh hùng thời đại quy tụ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tráng chí ở bốn phương, tâm sự nghiệp mạnh mẽ, có tấm lòng bao dung, thấu hiểu nhân tình thế thái, sống ngay thẳng là người nâng lên cán cân công lý trong xã hội,…

“Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Tráng chí và tầm suy nghĩ rộng lớn, đầy hoài bão của Từ Hải còn được thể hiện qua câu thơ “trông vời trời bể mênh mang”, khi chàng dõi mắt nhìn về chân trời xa, bộc lộ ý muốn vươn ra bể lớn, thoát khỏi cái bóng nam nhi tầm thường quanh quẩn bên vợ con, để làm nên nghiệp lớn.

Khát vọng mạnh mẽ về việc trả nợ công danh đã thôi thúc Từ Hải từ biệt Thúy Kiều, dứt áo ra đi một cách quyết đoán “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Hình ảnh một gươm, một ngựa đơn độc lại càng làm sáng rõ phẩm chất và vẻ đẹp của người anh hùng thời đại, tay không quyết tâm lập nghiệp, khẳng định ý chí, sự tự tin trong tâm hồn người trượng phu.

4 câu thơ đầu trong Chí khí anh hùng là một đoạn trích đặc sắc khi nhân vật trung tâm không còn là Thúy Kiều mà Nguyễn Du tập trung thể hiện hình tượng người anh hùng Từ Hải với vẻ đẹp lý tưởng, tráng chí nam nhi rộng lớn, phi thường, dứt khoát trong tình cảm nữ nhi thường tình, sự tinh tế, thấu hiểu trong cách đối đáp với Thúy Kiều.

Từ đó khắc họa được mối tình Từ Hải – Thúy Kiều càng thêm đẹp đẽ, xứng đáng với mấy chữ “trai tài gái sắc”, thể hiện tấm lòng nhân đạo của tác giả khi để cho cuộc đời lắm gian truân của Thúy Kiều cũng có lúc được hưởng tấm chân tình, có lúc được hạnh phúc, dù rằng khoảnh khắc ấy cũng chỉ là ngắn ngủi nhất thời trong chuỗi bi kịch tiếp diễn 15 năm lưu lạc của nàng.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 8)

Truyện Kiều là truyện thơ kinh điển trong nền văn học Việt Nam. Nó xuất sắc không chỉ bởi ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn nhờ ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Qua đó, Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời – xã hội phong kiến cổ hủ, thối nát đã vùi dập ông – hay nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác.

Chính vì vậy Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Việc đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, để Nguyễn Du đã làm sáng lên hình ảnh của những bậc anh hùng thời bấy giờ – con người tài năng và ý chí san phẳng mọi bất bình, vươn lên bởi nghĩa khí và tài năng cá nhân. Hình ảnh nhân vật Từ Hải được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Chí khí anh hùng.

Rơi vào lầu xanh lần thứ 2, Kiều gặp Từ Hải và được cứu vớt ra khỏi cuộc sống tủi nhục. Hai người đến với nhau bởi sự hòa hợp về tâm hồn, để rồi:

“Trai anh hùng gài thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng“

Từ Hải có tâm hồn cao thượng và đậm chất thơ, nhưng chàng mang cốt cách của một kẻ ngang tàng hào phóng, tình cảm và lí tưởng thông nhât chứ không đồng nhất, bởi vậy mà:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu ‘Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể’. Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nên nét riêng của chàng.

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao rộng. Tác giả dùng từ “trượng phu” để chỉ Từ Hải (đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này). ”Trượng phu” nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảng khắc bất ngờ. Đó là cách xử sự bất thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác.

Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình . Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình.

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường.

Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, ‘nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ’. Chí khí ấy, thật đáng nể phục biết bao… Nhưng chính vì nó mà Kiều và Từ Hải phải xa nhau khi tình yêu đang nồng thắm, cũng có nghĩa là chính xã hội phong kiến và những tư tưởng cũ đã lấy đi hạnh phúc lứa đôi của nàng

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 9)

Những Mẫu Văn Phân Tích 4 Câu Đầu Bài Chí Khí Anh Hùng Ngắn gọn được nhiều bạn đọc quan tâm

Từ xưa, chí nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” đã được đề cao, trong văn học cũng rất nhiều tác giả viết về chí khí đó. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông đã xây dựng hình tượng người anh hùng Từ Hải với khí phách kiên cường, hiên ngang luôn làm nên việc lớn.

Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” đã thể hiện vẻ đẹp chí khí phi thường, mưu cầu nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải quyết tâm dứt áo ra đi. Đọc “Truyện Kiều”, ta biết được Kiều hai lần bị vào lầu xanh, số phận đã đưa đẩy Kiều hết lần này đến lần khác khiến nàng rơi vào tuyệt vọng.

Nhưng lần thứ hai Kiều bị đẩy vào lầu xanh thì may mắn thay Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa nàng ra ngoài thoát khỏi cảnh ô nhục này. Từ Hải đã giúp nàng ” Báo ân báo oán” với những kẻ trước đây đã hãm hại nàng cũng như với người đã giúp nàng.

Hai người đã có cuộc sống hạnh phúc cùng nhau. Nhưng với người đàn ông có bản lĩnh lớn, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm vậy, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên đã từ biệt Kiều ra đi.

Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” được trích từ câu 2213 đến câu 2230 trong tác phẩm.

Trước tiên, bốn câu thơ đầu nêu lên bối cảnh và lí do dẫn đến cuộc chia ly giữa Kiều và Từ Hải:

“Nửa năm đương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Câu thơ đầu tiên cho ta thấy được Kiều và Từ Hải mới sống với nhau nửa năm với cuộc sống vô cùng êm đềm, tình yêu giữa hai người nồng nàn, say đắm. Nửa năm là khoảng thời gian ngắn hai người sống bên nhau, đây có lẽ là thời gian Kiều được sống bình yên và hạnh phúc nhất trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Bởi trước đó, dù Kiều cũng từng sống với Thúc Sinh nhưng nàng chỉ làm vợ lẽ. Sự yêu thương của Thúc Sinh không mang lại cho nàng sự an toàn trọn vẹn bởi Kiều vẫn bị Hoạn Thư – vợ cả hành hạ. Nhưng sau nửa năm đó Từ Hải lại có ý định muốn ra đi thực hiện lí tưởng. “Trượng phu” là chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng, tác giả cũng muốn tỏ lòng khâm phục và ca ngợi Từ Hải. “động lòng bốn phương” chính là chí hướng mà Từ Hải đang muốn tung hoành thiên hạ.

Đó cũng chính là chí lớn của người đàn ông sống trong thời trung đại, mong muốn phương trời tự do, vùng vẫy khắp nơi, quyết lập sự nghiệp phi thường. Từ Hải đã vô cùng dứt khoát và cuộc sống vợ chồng không thể giữ chân được chàng. Tư thế của chàng khi ra đi chính là “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” chàng một mình, một gươm, một ngựa đi liền một mạch, dứt khoát.

Tác giả đã đặt nhân vật trong sự tương phản với không gian rộng lớn “trời bể mênh mang” với hình ảnh “thanh gươm yên ngựa” chỉ một mình. Hình ảnh con người hiện lên không hề nhỏ bé mà sánh ngang cùng vũ trụ rộng lớn. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cuộc sống hạnh phúc của Kiều và Từ cùng với đó là chí lập công danh của người anh hùng.

Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng (mẫu 10)

Sập bẫy của Tú Bà, Thúy Kiều phải vào lầu xanh với tâm trạng:

“Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Tại đây, Kiều gặp Thúc Sinh, người được xem là “tri âm” đối với Kiều. Nhưng vì nhu nhược, Thúc Sinh không giữ được Kiều khiến nàng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải làm gái lầu xanh lần nữa. Cuộc đời Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”.

Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích (từ câu 2213 đến câu 22300 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khí của Từ Hải.

Trong “Truyện Kiều”, nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ.

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là “trượng phu” – người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là “nửa năm hương lửa đương nồng”, sự nghiệp ấy là “động lòng bốn phương”.

Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bôn câu thơ trên mà xét thì “động lòng bốn phương”, muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn “hương lửa đương nồng”.

Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ “râu hùm, hàm én, mày ngài” đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:

“Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.

Qua cảm nhận 4 câu thơ đầu trong Chí khí anh hùng ta thấy được những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng. Chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh…

Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 10 hay, chi tiết khác:

Phân tích nhân vật Từ Hải

Thuyết minh về tác hại của thuốc lá

Thuyết minh danh lam thắng cảnh

Thuyết minh về tác giả văn học

Thuyết minh về Nguyễn Trãi

1 1186 lượt xem
Tải về