Thúy Kiều báo ân báo oán - Tác giả tác phẩm- Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo
Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Thúy Kiều báo ân báo oán Ngữ văn lớp 9 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 9. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Thúy Kiều báo ân báo oán- Ngữ văn 9
I. Tác giả văn bản Thúy Kiều báo ân báo oán
- Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.
- Cuộc đời:
+ Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX.
+ Từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều → vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
- Sự nghiệp văn học
+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.
+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.
II. Tìm hiểu văn bản Thúy Kiều báo ân báo oán
1. Thể loại
- Đoạn trích Thúy Kiều báo ân, báo oán thuộc thể loại lục bát.
2. Xuất xứ
- In trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 16, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2000.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.
4. Bố cục đoạn trích
- Phần 1 (12 câu thơ đầu): Thúy Kiều trả ân, đền nghĩa ân tình Thúc Sinh
- Phần 2 (22 câu thơ còn lại): Thúy Kiều báo oán, trừng trị Hoạn Thư
5. Giá trị nội dung
- Đoạn trích miêu tả cảnh báo ân báo oán đối với hai nhân vật là Thúc Sinh và Hoạn Thư, qua đó làm nổi bật tấm lòng nhân nghĩa, cao thượng của Thúy Kiều.
- Thể hiện ước mơ công lí, chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức sẽ đứng lên cầm cán cân công lí.
6. Giá trị nghệ thuật
- Đoạn trích bộc lộ tài năng của Nguyễn Du về nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại.
- Qua những đối đáp của Thúy Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư, có thể thấy Thúy Kiều đã tự bộc lộ tính cách và tâm trạng của mình một cách hết sức tự nhiên (tấm lòng trân trọng, biết ơn với Thúc Sinh qua cách nói trang trọng, giàu ước lệ; nỗi đau đớn tủi nhục không nguôi trước sự hành hạ của Hoạn Thư khiến Kiều cũng có những lời lẽ sắc sảo, chua chát, có phần nghiệt ngã).
- Những lí lẽ gỡ tội của Hoạn Thư cũng bộc lộ rõ tính cách của con người “nói lời ràng buộc thì tay cũng già”.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Thúy Kiều báo ân báo oán
1. Thúy Kiều báo ân
– Cảnh báo ân, diễn ra long trọng, Thúy Kiều cho người “mời” Thúc Sinh tới, hai người tâm sự và có gợi lại chuyện cũ.
- Thúy Kiều tuy có đôi chút tủi hờn, về những ngày tháng phải làm tôi tớ ở nhà Hoạn Thư nhưng nàng cũng hiểu được rằng Thúc Sinh rất nặng tình với nàng.
- Những từ “Nghĩa nặng tình non”, “Cố nhân”,” Người cũ” thể hiện Thúy Kiều là người trọng tình, trọng nghĩa, dù sao cũng một thời nàng làm “Vợ người ta” nên cũng có những kỷ niệm gắn bó, quên làm sao ngay được.
– Thúy Kiều ban tặng cho Thúc Sinh rất nhiều gấm lụa và tiền bạc, điều này thể hiện rằng Thúy Kiều là người chung thủy trước sau như một. Giàu sang, phú quý cũng không vì thế mà quên tình nghĩa xưa kia.
Thúy Kiều báo ân báo oán - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo
2. Thúy Kiều báo oán
– Thúy Kiều vẫn còn khá giận về Hoạn Thư nàng dùng những lời lẽ sâu cay, bình dân để nói về người phụ nữ nham hiểm này.
- Từ sau lần đánh ghen Thúy Kiều thành công đẩy được nàng tránh xa cuộc đời chồng mình là Thúc Sinh, Hoạn Thư hoan hỉ lắm, vì mang trong lòng sự chiến thắng, hả hê vì chồng phải ngoan ngoãn nghe lời mình.
- Thúy Kiều đã kiên nhẫn khuyên Hoạn Thư nên giữ chừng mực trong cách ăn nói của mình, đừng làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng.
- Hoạn Thư là người đàn bà xảo ngôn, nhưng giờ đang là thủ phạm bị báo oán, đứng trước nhiều binh linh gươm đao quanh mình, Hoạn Thư có chút run sợ. Hoạn Thư tự biết mình đã hành xử quá đáng với Thúy Kiều nên xuống nước cầu xin, dùng những lời lẽ khôn ngoan để biện hộ cho tội lỗi của mình.
- Những lời xin tội của Hoạn Thư ngẫm ra thì cũng có lý, có tình, chỉ vì khen quá nên Hoạn Thư mù quáng. Trong cuộc đời này cảnh chồng chung không ai thích và chẳng ai muốn chia sẻ chồng mình với người phụ nữ khác nên hành động của Hoạn Thư cũng có thể tha thứ được.
3. Kết thúc màn báo ân báo oán
- Diễn biến của cảnh báo ân, báo oán hết sức bất ngờ với người đọc. Lúc đầu ai cũng nghĩ Thúy Kiều sẽ phải hành hạ lại Hoạn Thư cho hả dạ những ngày nàng tủi nhục, cay đắng. Nhưng trước những lời cầu xin có tình, chí lý của Hoạn Thư, Thúy Kiều cảm thấy siêu lòng và nàng quyết định tha bổng cho Hoạn Thư trước sự ngỡ ngàng của người đọc.
- Qua đoạn trích này ta thấy Thúy Kiều là người có tấm lòng độ lượng, biết phân biệt đúng sai và không phải là người nhỏ nhen, chấp nhất. Nàng thật sự là một phụ nữ không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có trái tim nhân hậu, lương thiện, bao dung với lỗi lầm của người khác.
IV. Đọc bài thơ Thuý Kiều báo ân báo oán
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non”,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương[2] chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tại lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
[…] Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khâu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chông chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phai lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên”.
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
V. Dàn ý phân tích Thuý Kiều báo ân báo oán
1. Mở bài: Giới thiệu sơ lược về tác giả, đoạn trích:
- Nguyễn Du (1765 – 1820) là một người có hiểu biết sâu rộng, vốn sống phong phú.
- Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán là đoạn trích rất đặc sắc tả lại cảnh Thuý Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư.
2. Thân bài
* Khái quát về đoạn trích:
- Vị trí đoạn trích: Thúy Kiều báo ân báo oán được trích từ phần sau đoạn “Kiều gặp Từ Hải” (từ câu 2289 đến câu 2450 của Truyện Kiều)
- Nội dung chính: Miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn (Thúc Sinh), đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác (Hoạn Thư).
* Thúy Kiều báo ân Thúc Sinh
– Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án: “Cho gươm mời đến Thúc Lang”
– Kiều biết ơn Thúc Sinh
- Đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh.
- Cho nàng về làm vợ lẽ (dù phải chịu nhiều đau đớn hơn phận tôi đòi).
- Trân trọng Thúc Sinh
– Kiều đền ơn Thúc Sinh: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”.
– Nhắc đến những việc mà Hoạn Thư đã gây ra cho mình.
– Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ Hán Việt (chữ tòng, cố nhân, sâm thương), những điển cố, cách nói sang trọng, phù hợp với việc thể hiện lòng biết ơn.
– Cách cư xử tế nhị, khôn khéo của Thúy Kiều khi báo ân Thúc Sinh.
– Kiều là người có bản chất vị tha, thông minh, sáng suốt và sống có tình nghĩa.
* Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư
– Kiều và Hoạn Thư gặp nhau lần này trong vị thế đã thay đổi:
+ Vị thế của Thúy Kiều:
- Lúc ở nhà Hoạn Thư là nô tì, vợ lẽ.
- Giờ là phu nhân quan tòa (người xét xử)
+ Vị thế của Hoạn Thư:
- Lúc trước là chủ nhà.
- Giờ là bị cáo (người bị xét xử)
– Cử chỉ “chào thưa”, cách xưng hô “tiểu thư” : thể hiện thái độ mỉa mai, đay nghiến, đe dọa với những hình phạt khủng khiếp đối với Hoạn Thư và danh gia nhà họ Hoạn.
– Thái độ của Hoạn Thư: tuy sợ nhưng vẫn tỏ ra là người khôn ngoan, gian xảo.
- Đầu tiên, dựa vào cớ mình là phụ nữ hay ghen để gỡ tội.
- Khôn khéo gợi lại những việc làm nhân nghĩa đối với Kiều: cho chép kinh ở Quan Âm Các, không bắt giữ khi Kiều bỏ trốn.
- Tự nhận lỗi về mình.
– Hoạn Thư là một người khôn ngoan, quỷ quyệt, biết biến nguy thành an.
– Trước lí lẽ sắc bén của Hoạn Thư, Kiều đã:
- Khâm phục tài trí, miệng lưỡi của Hoạn Thư.
- Phân vân, khó xử.
- Răn đe và tha bổng cho Hoạn Thư.
– Kiều là người độ lượng, khoan dung, vị tha và nhân hậu.
– Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ mang tính ước lệ và ngôn ngữ nôm na, bình dân, thành ngữ dân gian. Sự trừng phạt cái ác theo quan điểm nhân dân phải được diễn tả bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
* Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích
- Xây dựng những đoạn đối thoại đặc sắc
- Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ
- Khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại
- Từ ngữ mang tính ngôn ngữ nôm na, bình dân
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc
3. Kết bài
- Tổng kết nghệ thuật
- Nêu cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Khoa học tự nhiên 9 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Khoa học tự nhiên 9 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Lịch sử 9 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Lịch sử 9 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Địa lí 9 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Địa lí 9 – Chân trời sáng tạo