Chương III Bộ luật Dân sự 2005: Cá nhân
Số hiệu: | 33/2005/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 14/06/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2006 |
Ngày công báo: | 01/09/2005 | Số công báo: | Từ số 1 đến số 3 |
Lĩnh vực: | Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2017 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11, gồm 36 chương và 777 điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006, thay thế cho Bộ luật Dân sự ban hành năm 1995 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989.
Bộ luật quy định: người từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác...
Bộ luật coi Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản...
Trong trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, nếu không có thoả thuận khác...
Đối với di sản thừa kế, khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật, nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thoả thuận về việc định giá hiện vật và thoả thuận về người nhận hiện vật, nếu không thoả thuận được thì hiện vật được bán để chia...
Về quyền sử dụng đất, khi thời hạn cho thuê quyền sử dụng đất đang còn, bên cho thuê vẫn có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, nhưng phải báo cho bên thuê biết để bên thuê thực hiện nghĩa vụ với bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất...
Một điểm mới của Bộ luật là quy định cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học...
Bộ luật Dân sự 2005 thay thế Bộ luật Dân sự 1995, nhưng hiện đã hết hiệu lực và bị thay thế cho Bộ luật Dân sự 2015.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Cá nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự sau đây:
1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản;
2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản;
3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên.
1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
1. Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại;
đ) Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
e) Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính;
g) Các trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ, tên cũ.
1. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ.
2. Người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:
a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là ai.
3. Trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên yêu cầu xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều này thì phải được sự đồng ý của người chưa thành niên đó.
Cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh.
1. Khi có người chết thì người thân thích, chủ nhà hoặc cơ quan, tổ chức nơi có người chết phải khai tử cho người đó.
2. Trẻ sơ sinh, nếu chết sau khi sinh thì phải được khai sinh và khai tử; nếu chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà chết ngay thì không phải khai sinh và khai tử.
1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
1. Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể.
2. Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm đưa đến cơ sở y tế; cơ sở y tế không được từ chối việc cứu chữa mà phải tận dụng mọi phương tiện, khả năng hiện có để cứu chữa.
3. Việc thực hiện phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể một người, việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận của cơ thể phải được sự đồng ý của người đó; nếu người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của người đó đồng ý; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người trên thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế.
4. Việc mổ tử thi được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Có sự đồng ý của người quá cố trước khi người đó chết;
b) Có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ khi không có ý kiến của người quá cố trước khi người đó chết;
c) Theo quyết định của tổ chức y tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp cần thiết.
Cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.
Việc hiến và sử dụng bộ phận cơ thể được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.
Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình.
Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể của người khác vì mục đích thương mại.
Cá nhân có quyền được xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn.
Việc tự do kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau phù hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Con, cháu chưa thành niên được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà; con, cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà.
Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn.
1. Người không được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ hoặc là con của người đó.
2. Người được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình không phải là cha, mẹ hoặc là con của người đó.
Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ.
Việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Cá nhân có quyền có quốc tịch.
Việc công nhận, thay đổi, nhập quốc tịch, thôi quốc tịch Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về quốc tịch.
Cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Việc vào chỗ ở của một người phải được người đó đồng ý.
Chỉ trong trường hợp được pháp luật quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành khám xét chỗ ở của một người; việc khám xét phải theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1. Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
2. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
1. Cá nhân có quyền tự do đi lại, tự do cư trú.
2. Quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Cá nhân có quyền lao động.
Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.
Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật.
1. Cá nhân có quyền tự do nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo khác.
2. Quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Không ai được cản trở, hạn chế quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo của cá nhân.
1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống.
1. Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống.
2. Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
1. Nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ.
2. Người được giám hộ có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của người giám hộ nếu được người giám hộ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
1. Nơi cư trú của vợ, chồng là nơi vợ, chồng thường xuyên chung sống.
2. Vợ, chồng có thể có nơi cư trú khác nhau nếu có thoả thuận.
1. Nơi cư trú của quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân đó đóng quân.
2. Nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng là nơi đơn vị của những người đó đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật này.
1. Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
2. Người được giám hộ bao gồm:
a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu;
b) Người mất năng lực hành vi dân sự.
3. Người chưa đủ mười lăm tuổi được quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và người được quy định tại điểm b khoản 2 Điều này phải có người giám hộ.
4. Một người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà theo quy định tại khoản 2 Điều 61 hoặc khoản 3 Điều 62 của Bộ luật này.
1. Người thân thích của người được giám hộ có trách nhiệm cử người đại diện làm người giám sát việc giám hộ để theo dõi, đôn đốc, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ, xem xét, giải quyết kịp thời những đề nghị, kiến nghị của người giám hộ liên quan đến việc giám hộ.
Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác, chú, cậu, cô, dì của người được giám hộ.
2. Trong trường hợp không có người thân thích của người được giám hộ hoặc những người thân thích không cử được người giám sát việc giám hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ cử người giám sát việc giám hộ.
3. Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Có tư cách đạo đức tốt; không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác;
3. Có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ.
Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha và mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu, được xác định như sau:
1. Trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thoả thuận khác thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ;
2. Trong trường hợp không có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là người giám hộ.
1. Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
2. Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người giám hộ.
3. Trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật này thì ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ.
1. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.
2. Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ.
Người giám hộ của người chưa đủ mười lăm tuổi có các nghĩa vụ sau đây:
1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Người giám hộ của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có các nghĩa vụ sau đây:
1. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
2. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:
1. Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Người giám hộ có các quyền sau đây:
1. Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ;
2. Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;
3. Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
1. Người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình.
2. Người giám hộ được thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và các giao dịch khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác.
3. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
1. Người giám hộ được thay đổi trong các trường hợp sau đây:
a) Người giám hộ không còn đủ các điều kiện quy định tại Điều 60 của Bộ luật này;
b) Người giám hộ là cá nhân chết hoặc bị Toà án tuyên bố mất tích, tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động;
c) Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ;
d) Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ.
2. Trong trường hợp thay đổi người giám hộ đương nhiên thì những người được quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật này là người giám hộ đương nhiên; nếu không có người giám hộ đương nhiên thì việc cử người giám hộ được thực hiện theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật này.
3. Thủ tục thay đổi người giám hộ được cử được thực hiện theo quy định tại Điều 64 và Điều 71 của Bộ luật này.
1. Khi thay đổi người giám hộ thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có người giám hộ mới, người đã thực hiện việc giám hộ phải chuyển giao giám hộ cho người thay thế mình.
2. Việc chuyển giao giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do chuyển giao và tình trạng tài sản của người được giám hộ tại thời điểm chuyển giao. Người cử người giám hộ, người giám sát việc giám hộ chứng kiến việc chuyển giao giám hộ.
3. Trong trường hợp thay đổi người giám hộ vì lý do người giám hộ là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự, mất tích; tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động thì người cử người giám hộ lập biên bản, ghi rõ tình trạng tài sản của người được giám hộ, quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực hiện việc giám hộ để chuyển giao cho người giám hộ mới với sự chứng kiến của người giám sát việc giám hộ.
4. Việc chuyển giao giám hộ phải được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ mới công nhận.
Việc giám hộ chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Người được giám hộ chết;
3. Cha, mẹ của người được giám hộ đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;
4. Người được giám hộ được nhận làm con nuôi.
1. Khi việc giám hộ chấm dứt thì trong thời hạn ba tháng, kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người được giám hộ hoặc với cha, mẹ của người được giám hộ.
Trong trường hợp người được giám hộ chết thì trong thời hạn ba tháng, kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người thừa kế của người được giám hộ; nếu hết thời hạn đó mà chưa xác định được người thừa kế thì người giám hộ tiếp tục quản lý tài sản của người được giám hộ cho đến khi tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế và thông báo cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được giám hộ cư trú.
Việc thanh toán tài sản được thực hiện với sự giám sát của người giám sát việc giám hộ.
2. Các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ được người giám hộ thực hiện như sau:
a) Chuyển cho người được giám hộ khi người này đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Chuyển cho cha, mẹ của người được giám hộ trong trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 72 của Bộ luật này;
c) Chuyển cho người thừa kế của người được giám hộ khi người được giám hộ chết.
Khi một người biệt tích sáu tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt quy định tại Điều 75 của Bộ luật này.
1. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho những người sau đây quản lý:
a) Đối với tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý;
b) Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
c) Tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
2. Trong trường hợp không có những người được quy định tại khoản 1 Điều này thì Toà án chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Toà án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú có các nghĩa vụ sau đây:
1. Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình;
2. Bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng;
3. Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của Toà án;
4. Giao lại tài sản cho người vắng mặt khi người này trở về và phải thông báo cho Toà án biết; nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú có các quyền sau đây:
1. Quản lý tài sản của người vắng mặt;
2. Trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn của người vắng mặt;
3. Được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản.
1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.
Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Toà án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật này.
Trong trường hợp Toà án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Toà án chỉ định người khác quản lý tài sản.
1. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
2. Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.
3. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp sau đây:
a) Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Bộ luật này.
2. Tuỳ từng trường hợp, Toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
1. Khi quyết định của Toà án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết.
2. Quan hệ tài sản của người bị Toà án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
2. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp sau đây:
a) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Toà án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 78 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
b) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
3. Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trong trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Section 1. CIVIL LEGAL CAPACITY, CIVIL ACT CAPACITY OF INDIVIDUALS
Article 14.- Civil legal capacity of individuals
1. The civil legal capacity of an individual is his/her capability to have civil rights and civil obligations.
2. All individuals shall have the same civil legal capacity.
3. The civil legal capacity of an individual shall exist from the time he/she is born and terminate when he/she dies.
Article 15.- Contents of the civil legal capacity of an individual
An individual shall have the following civil rights and obligations:
1. Personal rights not associated to property, and personal rights associated to property;
2. Ownership rights, inheritance rights and other rights with respect to property;
3. Rights to participate in civil relations and to assume obligations arising out of such relations.
Article 16.- No restrictions on the civil legal capacity of an individual
The civil legal capacity of an individual shall not be restricted, unless otherwise provided for by law.
Article 17.- The civil act capacity of an individual
The civil act capacity of an individual is his/her capability to establish and perform civil rights and obligations through his/her acts.
Article 18.- Adults and minors
Persons who are full eighteen years old or older are adults. Persons who are not yet full eighteen years old are minors.
Article 19.- The civil act capacity of an adult
An adult shall have full civil act capacity, except the cases specified in Article 22 and Article 23 of this Code.
Article 20.- The civil act capacity of minors who are between full six years old and under full eighteen years old
1. Persons who are between full six years old and under full eighteen years old must have the consents of their representatives at law when establishing and performing civil transactions, except those transactions to meet their daily-life needs suitable to their age group or otherwise provided for by law.
2. In cases where a person who is between full fifteen years old and under full eighteen years old has his/her own property to ensure the performance of obligations, such person may establish and perform civil transactions by him/herself without the consent of his/her representative at law, unless otherwise provided for by law.
Article 21.- Persons without civil act capacity
Persons who are under full six years old shall not have civil act capacity. All civil transactions of persons under full six years of age must be established and performed by their representatives at law.
Article 22.- Loss of civil act capacity
1. When a person is incapable of cognizing or controlling his/her acts due to mental disease or other ailments, the Court may, at the request of the person(s) with related rights or interests, issue a decision to declare such a person as having lost his/her civil act capacity, based on the conclusion of a competent medical examination body.
When there is no longer a basis for declaring a person as having lost his/her civil act capacity, the Court shall, at the request of such person him/herself or of a person with related rights or interests, issue a decision to revoke the decision declaring the loss of civil act capacity.
2. Civil transactions of persons who have lost their civil act capacity shall be established and performed by their representatives at law.
Article 23.- Restrictions on civil act capacity
1. Persons whose addiction to narcotics/drugs or to other stimulants leads to the squandering of their families' property may be declared by decision of the Court to be persons with a restricted civil act capacity, at the request of persons with related rights or interests or of relevant agencies or organizations.
2. The at-law representatives of persons with a restricted civil act capacity and the scope of such representation shall be decided by the Court. Civil transactions related to the property of persons with a restricted civil act capacity must have the consents of their representatives at law, except for transactions to meet their daily-life needs.
3. When there is no longer a basis for declaring that a person has a restricted civil act capacity, the Court shall, at the request of such person him/herself or a person with related rights or interests, make a decision to revoke the decision having declared the restriction on his/her civil act capacity.
Personal rights specified in this Code are civil rights inherent to each individual, which cannot be transferred to other persons, unless otherwise provided for by law.
Article 25.- Protection of personal rights
When a personal right of an individual is infringed upon, such person shall have the right to:
1. Make rectification him/herself;
2. Request the infringer or request competent agencies, organizations to order the infringer to terminate the infringement and make a public apology and/or rectification;
3. Request the infringer or request competent agencies or organizations to order the infringer to pay compensation for damage.
Article 26.- The right with respect to family and given names
1. Each individual has the right to have a family name and a given name. The family and given names of a person shall be the family and given names in the birth certificate of such person.
2. An individual shall establish and exercise civil rights and perform civil obligations in his/her family and given names which have been recognized by a competent state agency.
3. The use of pseudonyms and pen names must not cause damage to the rights and interests of other persons.
Article 27.- The right to change family and given names
1. Individuals shall have the right to request competent state agencies to recognize the change of their family and/or given names in the following cases:
a/ Where it is so requested by the person who has a family or given name the use of which causes confusion or affects the feelings of his/her family, the honor, legitimate rights and interests of such person;
b/ Where an adoptive father or mother requests to change the family and/or given name of an adopted child or when an adopted child ceases to be an adopted child and he/she or his/her biological father or mother requests to reclaim the family and/or given name which was given to him/her by the biological father or mother;
c/ Where it is so requested by the biological father or mother or the child when identifying the father and/or mother of the child;
d/ Where there is a change of the family name of a child from that of the father to that of the mother or vice versa;
e/ Where there is a change of the family name and/or given name of a person who was lost from his/her childhood and has discovered the origin of his/her bloodline;
f/ Where there is a change of the family name and/or given name of a person whose gender has been re-determined;
g/ Other cases specified by law on civil status.
2. The change of the family name and/or given name of a person who is full nine years or older must be consented by that person.
3. The change of the family name and/or given name of an individual shall neither change nor terminate the civil rights and obligations which have been established under the former family name and/or given name.
Article 28.- The right to determine ethnicity
1. An individual upon his/her birth may have his/her ethnicity determined in accordance with the ethnicity of his/her biological mother and father. In cases where the biological father and mother belong to two different ethnicities, the ethnicity of the child shall be determined as the ethnicity of the father or the ethnicity of the mother in accordance with practices or in accordance with the agreement of the biological father and mother.
2. A person who has attained adulthood, the biological father and mother or guardian of a minor may request competent state agencies to re-determine his/her ethnicity in the following cases:
a/ To re-determine his/her ethnicity in accordance with the ethnicity of the biological father or mother, if the father and mother belong to two different ethnicities;
b/ To re-determine his/her ethnicity in accordance with the ethnicity of his/her biological father and/or mother in circumstances where he/she is the adopted child of a person belonging to a different ethnicity and has had his/her ethnicity determined in accordance with the ethnicity of his/her adoptive father and/or mother due to the unidentification of his/her biological father and/or mother.
3. Where the biological father or mother or the guardian of a minor requests the re-determination of the ethnicity of a minor who is full fifteen years or older under the provisions of Clause 2 of this Article, the consent of such minor is required.
Article 29.- The right to registration of birth
Individuals, when born, shall have the right to have their births registered.
Article 30.- The right to registration of death
1. When a person dies, his/her next of kin, the house owner or the agency or organization to which the dead person belonged must register the death of such person.
2. If a newborn infant dies after birth, the infant's birth and death must be registered; if the infant dies before or immediately upon birth, the infant's birth and death must not be registered.
Article 31.- The right of an individual with respect to his/her picture
1. An individual shall have the right with respect to his/her picture.
2. The use of a picture of an individual must have his/her consent; where such person has died, lost his/her civil act capacity or is under full fifteen years old, the consent of his/her father, mother, husband, wife, adult children or representative is required, unless it is for State interests, public interests or otherwise provided for by law.
3. It is strictly forbidden to use pictures of other persons to infringe upon their honor, dignity and/or prestige.
Article 32.- The right to safety of life, health and body
1. Individuals shall shave have the right to safety of life, health and body.
2. When a person discovers another person who has got an accident or is sick whereby his/her life is threatened, the person who discovers him/her shall have the responsibility to deliver such person to a medical establishment; the medical establishment must not refuse to provide treatment to the person and shall have to utilize all available means and capabilities to cure him/her.
3. The application of new curative methods on the body of a person and the anesthetization, surgery, amputation, implantation and grafting of body organs must have his/her consent; if the person is a minor, has lost the civil act capacity or is an unconscious patient, the consent of his/her father, mother, guardian or next of kin is required; in cases where there is a threat to the life of a patient which cannot wait for the opinions of the above-said persons, a decision of the head of the medical establishment is required.
4. A post-mortem operation shall be performed in the following cases:
a/ Where it is so consented by the decedent before his/her death;
b/ Where it is so consented by the decedent's father, mother, wife, husband, adult children or guardian when there is no opinion of the decedent before he/she dies;
c/ Where it is so decided by a competent medical organization or a competent state agency in case of necessity.
Article 33.- The right to donation of body organs
Individuals shall have the right to donate their body organs for the purpose of medical treatment of other persons or scientific research.
The donation and use of body organs shall comply with the provisions of law.
Article 34.- The right to donation of corpses, body organs after death
Individuals shall have the right to donate their corpses, body organs after they die for the purpose of medical treatment of other persons or scientific research.
The donation and use of corpses, body organs of dead persons shall comply with the provisions of law.
Article 35.- The right to receive body organs
Individuals shall have the right to receive body organs of other persons for their medical treatment.
It is strictly forbidden to receive and use body organs of other persons for commercial purposes.
Article 36.- The right to re-determination of gender
Individuals shall have the right to the re-determination of their gender.
The re-determination of gender of a person shall be performed in cases where his/her gender is affected with inborn defects or has not been properly shaped, which needs the medical intervention to clearly determine the gender.
The re-determination of gender shall comply with the provisions of law.
Article 37.- The right to protection of honor, dignity and prestige
Individuals' honor, dignity and prestige shall be respected and protected by law.
Article 38.- The right to personal secrets
1. An individual's rights to personal secrets shall be respected and protected by law.
2. The collection and publication of information and materials on the private life of an individual must be consented by that person; in cases where that person has died, lost his civil act capacity or is under full fifteen years, the consent of his/her father, mother, wife, husband, adult children or representative is required, except for cases where the collection and publication of information and materials are made by decision of a competent agency or organization.
3. Letters, telephones, telegrams, other forms of electronic information of individuals shall be safely and confidentially guaranteed.
The inspection of an individual's letters, telephones, telegrams and/or other forms of electronic information may be performed only in cases where it is so provided for by law and decided by competent state agencies.
Article 39.- The right to marriage
Males and females who have fully met the conditions for marriage in accordance with the law on marriage and family shall have the right to marriage at their free will.
The freedom of marriage between persons belonging to different ethnicities and/or religions, between religious and non-religious persons and between Vietnamese citizens and foreigners shall be respected and protected by law.
Article 40.- The right to equality between husband and wife
Husband and wife are equal to each other, shall have the same rights and obligations in all respects in family and in civil relations and shall together build a plentiful, equitable, progressive, happy and lasting family.
Article 41.- The right to enjoy mutual care among family members
The members of a family shall have the right to enjoy mutual care and assistance in accordance with the fine moral traditions of the Vietnamese family.
Children and grandchildren who are minors shall benefit from the care and upbringing of the mother, father and grandparents; children and grand-children shall have the duty to respect, care for and support their parents and grandparents.
Article 42.- The right to divorce
A wife or husband or both the wife and the husband shall have the right to request the Court to solve their divorce.
Article 43.- The right to recognize or not to recognize a father, mother or child
1. A person who is not recognized as a father, mother or child of another person shall have the right to request a competent state agency to determine him/her as father, mother or child of that person.
2. A person who is recognized as a father, mother or child of another person shall have the right to request a competent state agency to determine him/her as not being father, mother or child of that person.
Article 44.- The right to adopt a child and the right to be accepted as an adoptive child
An individual's right to adopt a child and right to be accepted as an adoptive child shall be recognized and protected by law.
The adoption of a child and the process of being accepted as an adoptive child shall comply with the provisions of law.
Article 45.- The right to citizenship
An individual shall have the right to have a citizenship.
The recognition of, change to, the naturalization or relinquishment of the Vietnamese citizenship shall comply with the provisions of law on citizenship.
Article 46.- The inviolable right to place of residence
Individuals shall have the inviolable right to their places of residence.
The entry into the place of residence of a person must be consented by that person.
The search of a place of residence of a person shall be performed only in cases where it is so provided for by law and where there is a warrant from a competent state agency; the search must comply with the order and procedures specified by law.
Article 47.- The right to freedom of belief and religion
1. Individuals shall have the right to freedom of belief and religion, and to adhere to or not to adhere to a religion.
2. No one may infringe upon the freedom of belief and religion, or abuse beliefs or religions to infringe upon State interests, public interests or legitimate rights and interests of other persons.
Article 48.- The right to freedom of movement, freedom of residence
1. Individuals shall have the right to freedom of travel and freedom of residence.
2. An individual's freedom of travel and/or freedom of residence may be restricted only by decision of a competent state agency and in accordance with the order and procedures specified by law.
Article 49.- The right to work
Individuals shall have the right to work.
Every person shall have the right to work, the freedom to choose a job or occupation without being discriminated against on the ground of his/her ethnicity, sex, social status, belief or religion.
Article 50.- The right to freedom of business
Individuals' right to freedom of business shall be respected and protected by law.
Individuals shall have the right to choose the forms, areas and lines of business, to establish enterprises, to freely enter into contracts and hire labor, and other rights in accordance with the provisions of law.
Article 51.- The right to freedom of research, creation
1. Individuals shall have the right to freedom of scientific and technical research, inventions, innovations to improve techniques and rationalize production; the right to literary and art creation and critique, and to participation in other activities of research and/or creation.
2. The right to freedom of research and/or creation shall be respected and protected by law. No one shall have the right to hinder or restrict an individual's right to freedom of research and creation.
Article 52.- Place of residence
1. The place of residence of an individual is the place where such person permanently lives.
2. In cases where it is impossible to identify an individual's place of residence as provided for in Clause 1 of this Article, his/her place of residence shall be the place where such person currently lives.
Article 53.- Place of residence of minors
1. The place of residence of a minor is the place of residence of his/her parents; if the parents have separate places of residence, the place of residence of the minor shall be the place of residence of the father or mother with whom the minor permanently lives.
2. A minor may have a place of residence separate from the place of residence of his/her father and mother, if it is so agreed by his/her parents or so provided for by law.
Article 54.- Place of residence of wards
1. The place of residence of a ward is the place of residence of his/her guardian.
2. A ward may have a place of residence separate from the place of residence of his/her guardian, if it is so agreed by the guardian or so provided for by law.
Article 55.- Place of residence of husband and wife
1. The place of residence of a husband and a wife is the place where the husband and the wife permanently live together.
2. A husband and a wife may have separate places of residence, if they so agree upon.
Article 56.- Place of residence of military personnel
1. The place of residence of military personnel currently performing his/her military obligations is the place where the military personnel's unit is stationed.
2. The place of residence of an army officer, professional military personnel, defense worker or official is the place where his/her unit is stationed, except in cases where he/she has a place of residence as specified in Clause 1, Article 52 of this Code.
Article 57.- Place of residence of persons performing itinerant occupations
The place of residence of a person performing an itinerant occupation on a ship, boat or other means for itinerant work is the place of registration of such ship, boat or means, except for cases where he/she has a place of residence specified in Clause 1, Article 52 of this Code.
1. Guardianship is a task whereby an individual or organization (hereinafter referred collectively to as guardian) is required by law or appointed to take care of and protect legitimate rights and interests of a minor or a person who has lost his/her civil act capacity (hereinafter referred collectively to as ward).
2. Wards include:
a/ Minors who have lost their mothers and fathers, whose parents are unidentifiable, or whose parents have both lost their civil act capacity or have had their capacity for civil acts restricted, whose parents have had their parental rights restricted by the Court, or whose parents are still alive but have no conditions to take care of and to educate such minors, and if their parents so request;
b/ Persons who have lost their civil act capacity.
3. Persons who are under full fifteen years old as provided for at Point a, Clause 2 of this Article and persons defined at Point b, Clause 2 of this Article must have guardians.
4. A person may be a guardian for more than one person, but a person may be a ward of only one guardian, except in cases where the guardian is his/her father, mother or grandfather, grand-mother as specified in Clause 2 of Article 61 or Clause 3 of Article 62 of this Code.
Article 59.- Supervision of guardianship
1. The next of kin of wards shall have the responsibility to appoint their representatives to supervise the guardianship in order to monitor, urge, inspect the guardians in the performance of their guardianship, consider and settle in time the guardians' proposals and/or petitions related to the guardianship.
The wards' next of kin are their spouses, parents, children; if none of these people is available, the wards' next of kin shall be their grandparents, siblings; if none of these persons is available, the wards' next of kin shall be their uncles and ants.
2. In cases where a ward has none of his/her next of kin or his/her next of kin cannot nominate any one to supervise the guardianship as provided for in Clause 1 of this Article, the People's Committee of the commune, ward, or district township where the guardian resides shall appoint a person to supervise the guardianship.
3. The persons who supervise the guardianship must be those who have full civil act capacity.
Article 60.- Requirements for individuals to be guardians
Persons who meet all of the following requirements may act as guardians:
1. Having full civil act capacity;
2. Having good virtues; being not examined for penal liability or having had their criminal records written off after having been sentenced for one of the crimes of intentionally infringing upon the life, health, honor, dignity or property of other persons;
3. Having necessary conditions to ensure the performance of the guardianship.
Article 61.- The natural guardian of a minor
The natural guardian of a minor who has lost both his/her mother and father, whose parents are unidentifiable, or whose parents have both lost their civil act capacity or have had their civil act capacity restricted, whose parents have had their parental rights restricted by the Court, or whose parents do not have conditions to take care of and to educate the minor, and if the parents so request, shall be determined as follows:
1. In cases where it is not otherwise agreed upon by the biological siblings, the eldest brother or sister shall be the guardian for his/her younger siblings who are minors; if the eldest brother or sister does not fully meet the conditions for being a guardian, the next eldest brother or sister shall be the guardian;
2. In cases where there are no biological siblings or where the biological siblings do not fully meet the requirements to be a guardian, the paternal grandfather, grandmother or the maternal grandfather, grandmother shall be the guardian; if none of these persons fully meet the conditions to be a guardian, the uncle or ant of that person shall be the guardian.
Article 62.- The natural guardian of a person who has lost his/her civil act capacity
1. In cases where the wife has lost her civil act capacity, her husband shall be her guardian; if the husband has lost his civil act capacity, his wife shall be his guardian.
2. In cases where the father and mother have both lost their civil act capacity or where either of them has lost the civil act capacity while the other does not fully meet the requirements to be a guardian, the eldest child shall be the guardian; if the eldest child does not fully meet the requirements to be a guardian, the next eldest child shall be the guardian.
3. In cases where an adult who has lost his/her civil act capacity has no wife or husband, no children or his wife or her husband or children do not fully meet the requirements to be a guardian, his/her father and/or mother shall be the guardian.
Article 63.- Appointment of a guardian
In cases where a minor or a person who has lost his/her civil act capacity does not have a natural guardian as provided for in Article 61 and Article 62 of this Code, the People's Committee of the commune, ward or district township where the ward resides shall have the responsibility to appoint a guardian or propose an organization to assume the guardianship.
Article 64.- Procedures for appointing a guardian
1. The appointment of a guardian must be made in writing, clearly stating the reason for appointing the guardian, the specific rights and obligations of the guardian and the status of the ward's property.
2. The appointment of a guardian must be consented by the person who is appointed to be a guardian.
Article 65.- Obligations of guardians towards wards aged under full fifteen years
The guardian of a person aged under full fifteen years shall have the following obligations:
1. To take care of and educate the ward;
2. To represent the ward in civil transactions, except where it is provided for by law that wards aged under full fifteen years can establish and perform civil transactions by themselves;
3. To manage the property of the ward;
4. To protect legitimate rights and interests of the ward.
Article 66.- Obligations of guardians towards wards aged between full fifteen years and under full eighteen years
The guardian of a person aged between full fifteen years and under full eighteen years shall have the following obligations:
1. To represent the ward in civil transactions, except where it is provided for by law that wards who are aged between full fifteen years and under full eighteen years can establish and perform civil transactions by themselves;
2. To manage the property of the ward;
3. To protect legitimate rights and interests of the ward.
Article 67.- Obligations of guardians towards wards who have lost their civil act capacity
The guardian of a person who has lost his/her civil act capacity shall have the following obligations:
1. To take care of and ensure the medical treatment for the ward;
2. To represent the ward in civil transactions;
3. To manage the property of the ward;
4. To protect legitimate rights and interests of the ward.
Article 68.- Rights of guardians
A guardian shall have the following rights:
1. To use the property of the ward in order to take care of and pay for the needs of the ward;
2. To be paid for all expenses necessary for the management of the ward's property;
3. To represent the ward in the establishment and performance of civil transactions in order to protect legitimate rights and interests of the ward.
Article 69.- Management of property of wards
1. Guardians must manage the property of their wards as if it were their own property.
2. Guardians may perform transactions related to the property of their wards in the interests of the wards. The sale, exchange, lease, lending, pledge, mortgage, deposit and other transactions involving the property of wards, which has a large value, must be consented by the guardianship supervisors.
Guardians must not donate the property of their wards to other persons.
3. Civil transactions between guardians and their wards in connection with the latter's property shall be invalid, except for cases where such transactions are performed in the interests of the wards and agreed upon by the guardianship supervisors.
Article 70.- Replacement of guardians
1. A guardian may be replaced in the following cases:
a/ The guardian no longer meets all of the requirements specified in Article 60 of this Code;
b/ The guardian being an individual dies or has been declared missing by the Court or being an organization which has terminated its operation;
c/ The guardian seriously violates a guardian's obligations;
d/ The guardian proposes his/her replacement and another person agrees to assume the guardianship.
2. In case of changing a natural guardian, the persons defined in Article 61 and Article 62 of this Code shall assume the role of a natural guardian; if there is no natural guardian, the appointment of a guardian shall comply with the provisions of Article 63 of this Code.
3. The procedures for changing an appointed guardian shall comply with the provisions of Article 64 and Article 71 of this Code.
Article 71.- Transfer of the guardianship by the appointed guardian
1. Upon the change of an appointed guardian, the person who has performed the guardianship shall have to transfer the guardianship to his/her replacement within fifteen days as from the date a new guardian is found.
2. The transfer of guardianship must be made in writing, clearly stating the reason for the transfer and the status of the ward's property at the time of transfer. The person who appointed the guardian and the person who supervises the guardianship shall witness the transfer of guardianship.
3. In case of change of a guardian for the reason that the guardian being an individual has died, or been declared by the court as having his/her civil act capacity restricted, losing his/her civil act capacity or as missing; or that the guardian being an organization has terminated its operation, the person who appointed the guardian shall make a record thereon, clearly stating the status of the ward's property and the rights and obligations which have arisen in the course of performing the guardianship for transfer to the new guardian to the witness of the guardianship supervisor.
4. The transfer of guardianship must be recognized by the People's Committee of the commune, ward or district township where the new guardian resides.
Article 72.- Termination of guardianship
A guardianship shall be terminated in the following cases:
1. The ward has obtained full civil act capacity;
2. The ward has died;
3. The ward's father and/or mother have/has fully met the conditions to perform their rights and obligations;
4. The ward has been adopted.
Article 73.- Consequences of the termination of guardianship
1. When a guardianship is terminated, the guardian must settle up the property with the ward or with the mother and/or father of the ward within three months from the time the guardianship terminates.
In cases where the ward dies, the guardian must settle up the property with the ward's heirs within three months as from the time the guardianship terminates; if the ward's heirs are unidentifiable upon the expiry of such time limit, the guardian shall continue to manage the property of the ward until the property has been settled in accordance with the provisions of law on inheritance and shall notify such to the People's Committee of the commune, ward or district township where the ward resides.
The settlement of property shall be carried out under the supervision of the guardianship supervisors.
2. The rights and obligations arising from civil transactions in the interest of a ward shall be performed by the guardian as follows:
a/ To transfer them to the ward when the ward has obtained full civil act capacity;
b/ To transfer them to the ward's father and/or mother in cases specified in Clause 3 and Clause 4, Article 72 of this Code;
c/ To transfer them to the ward's heir(s) when the ward dies.
Section 5. NOTICE OF SEARCH FOR PERSONS WHO ARE ABSENT FROM THEIR PLACES OF RESIDENCE, DECLARATION OF MISSING PERSONS AND DECLARATION OF DEATH
Article 74.- Request for notice of search for persons who are absent from their places of residence and the management of their property
When a person has disappeared for six consecutive months or more, the person with related rights or interests shall have the right to request the Court to issue a notice of search for the person absent from his/her place of residence under the provisions of civil procedure law and may request the Court to apply measures for management of the property of the absent person in accordance with the provisions of Article 75 of this Code.
Article 75.- Management of the property of a person who is absent from his/her place of residence
1. At the request of the person with related rights or interests, the Court shall hand over the property of a person absent from his/her place of residence to one of the following persons for management:
a/ The person who has been authorized by the absent person to manage the latter's property shall continue to manage such property;
b/ For a common property, the remaining co-owner(s) shall manage such property;
c/ The property being currently managed by the wife or the husband shall continue to be managed by the wife or the husband; if the wife or the husband dies or loses her/his civil act capacity or has her/his civil act capacity restricted, a child who has attained adulthood or the father and/or mother of the absent person shall manage the latter's property.
2. In cases where there are none of the persons defined in Clause 1 of this Article, the Court shall appoint a person among the next of kin of the absent person to manage his/her property; if the absent person does not have any next of kin, the Court shall appoint another person to manage the property.
Article 76.- Duties of the persons managing the property of persons absent from their places of residence
The persons managing the property of persons absent from their places of residence shall have the following duties:
1. To keep and preserve the property of the absent persons as if it were their own property;
2. To immediately sell the property being subsidiary food crops or other products being in danger of decay;
3. To perform the absent persons' obligations to support their dependents and/or to pay due debts with such persons' property under the Court's decisions;
4. To hand back the property to the absent persons upon their return and to notify the Court thereof; if they are at fault in the management of property thereby causing damage, they must pay compensations therefor.
Article 77.- Rights of the persons managing the property of persons absent from their places of residence
The persons managing the property of persons absent from their places of residence shall have the following rights:
1. To manage the property of the absent persons;
2. To deduct a portion from the property of the absent persons in order to perform the latter's obligations to support their dependents and/or obligations to pay due debts;
3. To be paid for all expenses necessary for the management of the property.
Article 78.- Dclaration of a person to be missing
1. When a person has disappeared for two consecutive years or more and there is no reliable information on whether such person is still alive or dead even though notification and search measures have been fully applied in accordance with the civil procedure law, the Court may, at the request of a person with related rights or interests, declare such person missing. The two-year time limit shall be counted from the date the last information on such person is obtained; if the date of the last information cannot be determined, this time limit shall be counted from the first day of the month following the month when the last information is received; if the date and month of the last information cannot be determined, this time limit shall be counted from the first day of the year following the year when the last information is received.
2. In cases where the wife or the husband of a person who has been declared missing files for a divorce, the Court shall grant the divorce.
Article 79.- Management of the property of persons who have been declared missing
The persons currently managing the property of the persons who are absent from their places of residence as provided for in Clause 1, Article 75 of this Code shall continue to manage the property of such persons when they are declared missing by the Court and have the rights and duties specified in Article 76 and Article 77 of this Code.
In cases where a Court has resolved to permit the wife or the husband of the person who has been declared missing to divorce, the property of the missing person shall be handed over to the child(ren) who has/have attained adulthood or to the mother and/or father of the missing person for management; if there is no such person, the property shall be handed over to the next of kin of the missing person for management; if there is no next of kin, the Court shall appoint another person to manage the property.
Article 80.- Annulment of the decision declaring a person missing
1. When a person who has been declared missing returns or when there is reliable information that such person is still alive, the Court shall, at the request of such person or a person with related rights or interests, issue a decision to annul the decision declaring a person missing.
2. A person who has been declared missing shall, upon his/her return, be permitted to take back his/her property handed to him/her by the property manager after paying the management expenses.
3. In cases where the wife or the husband of a person who has been declared missing has been granted a divorce, the decision permitting the divorce shall still be legally effective, despite the return of the person who has been declared missing or the reliable information that such person is still alive.
Article 81.- Declaration of a person to be dead
1. A person with related rights or interests may request the Court to issue a decision declaring that a person is dead in the following cases:
a/ After three years as from the date the Court's decision declaring a person missing takes legal effect there is still no reliable information that such person is alive;
b/ The person has disappeared during a war and five years from the end of the war, there is still no reliable information that such person is alive;
c/ The person was hit by an accident, catastrophe or a natural disaster and one year from the end of such accident, catastrophe or natural disaster, there is still no reliable information that such person is alive, unless otherwise provided for by law;
d/ The person has disappeared for five consecutive years or more and there is no reliable information that such person is still alive; this time limit shall be counted in accordance with the provisions of Clause 1, Article 78 of this Code.
2. The Court shall, on a case-by-case basis, determine the date of death of a person who has been declared dead, based on the cases specified in Clause 1 of this Article.
Article 82.- Personal relations and property relations of persons who have been declared dead by the Court
1. When a decision of the Court declaring that a person is dead becomes legally effective, all marriage and family relations and other personal relations of such person shall be resolved as if a person had died.
2. The property relations of a person whom the Court has declared dead shall be resolved as if such person had died; the property of such person shall be settled in accordance with the law on inheritance.
Article 83.- Annulment of the decision declaring that a person is dead
1. When a person who has been declared dead returns or when there is reliable information that such person is still alive, the Court shall, at the request of such person or of a person with related rights or interests, issue a decision to annul the decision which declared that such person was dead.
2. The personal relations of the person who has been declared dead shall be restored when the Court issues a decision to annul the decision which declared that such person was dead, except for the following cases:
a/ Where the wife or the husband of the person who has been declared dead was permitted by the Court for her or his divorce in accordance with the provisions of Clause 2, Article 78 of this Code, the decision permitting the divorce shall remain legally effective;
b/ Where the wife or the husband of the person who has been declared dead has married another person, such marriage shall remain legally effective.
3. A person who has been declared dead but is still alive shall have the right to demand that the persons who received his/her inheritance to return the property that still remains.
In cases where the heir of a person whom the Court has declared dead is aware that such person is still alive, but deliberately conceals such for the purpose of enjoying the inheritance, he/she must return the entire property which he/she has received, including yields and profits; if causing damage, he/she must pay compensation therefor.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực