TOP 12 mẫu Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (2024) SIÊU HAY

Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình lớp 9 Cánh diều gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.

1 45 lượt xem


Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình

10+ Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (hay nhất)

Đề bài: Nghe và nhận biết tính thuyết phục của ý kiến người nói về một trong hai vấn đề sau:

(1) Từ đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (mẫu 1)

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Hoa, học sinh lớp 9A, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật mà còn là người có biệt tài miêu tả thiên nhiên, ngụ tâm tình, tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới đôi bàn tay Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã cho thấy rõ biệt tài này của ông.

Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính là con người trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.

Trong nỗi cô đơn, dường như ai cũng một lòng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc ngày tàn vẫn tha thiết nhớ về quê mẹ:

Chiều về ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Huống chi là nàng Kiều, thân phận nổi trôi, bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ gia đình lại càng da diết hơn bao giờ hết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Đồng thời ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là "chiều hôm". Trong văn học không gian buổi chiều thường gợi ra nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.

Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà lại càng đau lòng hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu? Hình ảnh ẩn dụ "hoa trôi" là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ "biết là về đâu" như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.

Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy "ầm ầm" vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.

Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lý: từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.

Tám câu thơ cuối, là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (mẫu 2)

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Hoa, học sinh lớp 9A, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Có lẽ, thiên nhiên chính là người bạn tri âm, tri kỷ của bất kỳ vị thi sĩ nào. Chính vì vậy mà thiên nhiên cũng có tác động vô cùng to lớn đối với tâm trạng của mỗi nhân vật trữ tình. Thiên nhiên trở nên có hồn có sắc hơn khi được các nhà văn, nhà thơ sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để diễn tả. Có thể nói, Nguyễn Du chính là một bậc thầy đại tài trong việc sử dụng bút pháp này và điều đó được thể hiện vô cùng rõ ràng trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

Nguyễn Du (1765 - 1820) là một đại thi hào dân tộc, một cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam với những sáng tác thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Những sáng tác của ông thường lên án, tố cáo xã hội đen tối đã chà đạp con người. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" của "Truyện Kiều". Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng đã lưu lạc đến chốn hồng trần. Quá đau khổ trước số phận trớ trêu, nàng định tự vẫn nhưng bị Tú Bà ngăn cản. Tú Bà sợ mất đi một món "hời" lớn nên giả vờ chăm sóc, lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều và cho Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất chỉ là giam lỏng nàng.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thường được các nhà văn, nhà thơ sử dụng rộng rãi và triệt để trong sự nghiệp văn chương của mình. Ta bắt gặp một Bà huyện Thanh Quan tả cảnh "Qua đèo Ngang" chỉ toàn tả cảnh nhưng ẩn sâu trong bức trăng yên ắng ấy lại là một tâm trạng buồn, cô đơn đến khó tả. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là việc tác giả miêu tả thiên nhiên, cảnh vật để gửi gắm, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm. Nghệ thuật tả cảnh ngụ vừa giúp cho cảnh vật trở nên sinh động, có màu sắc hơn lại vừa giúp nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc dễ dàng nhưng vẫn giữ được nét hay của nó.

Đọc 6 câu thơ đầu tiên của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích ta đã thấy được một khung cảnh thiên nhiên thấm đượm nỗi buồn:

"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Nhà thơ dùng từ "khóa xuân" ý nói việc cấm cung của người con gái nhà quyền quý thời xưa để muốn thông báo rằng Kiều đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nỗi buồn phảng phất từ cảnh vật rồi từ từ ăn sâu vào trong tâm trí của nhân vật trữ tình. Không gian mênh mông, rộng lớn "Bốn bề bát ngát xa trông" khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn, trống trải ở nơi "đất khách quê người" nàng lại chẳng hề quen biết ai. Nàng trông ra xa thì chỉ thấy mờ mờ ngọn núi "non xa", cồn "cát vàng" thì bụi bay mờ mịt còn ở gần thì chỉ có duy nhất "tấm trăng" để bầu bạn, để bộc bạch tâm sự đã cho ta thấy rằng Kiều đang ở một nơi rất đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông đất trời. Thời gian vô tình cứ trôi vì nó là một vòng tuần hoàn, khép kín "mây sớm đèn khuya" như giam hãm tâm hồn nàng không thể thoát ra khỏi vòng tròn của những nỗi buồn cứ thế nối tiếp nhau khiến Kiều chán ngán đến "bẽ bàng". Những nỗi niềm xót thương cứ thế được nhân lên khiến cho tấm lòng Kiều như bị xẻ ngang , xẻ dọc "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng" nên dù cảnh có đẹp đến đâu thì Kiều cũng vẫn buồn mà thôi.

Khép lại bức tranh thiên nhiên ở 6 câu thơ đầu của đoạn trích, ta hãy cùng hòa mình vào thiên thiên, cảnh vật ở 8 câu thơ tiếp theo của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích":

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm."

Với các nhà hủ nho xưa thì việc Thúy Kiều nhớ người yêu Kim Trọng trước, nhớ về bố mẹ sau thì thật là bất hiếu nhưng chúng ta nên nhìn nhận sự việc một cách khách quan để đánh giá nhân vật. Ở đây, vì Thúy Kiều phải cứu cha và em nên đã chấp nhận bán mình để một phần đền đáp công ơn cha mẹ nên việc Kiều nhớ về Kim Trọng trước cũng có thể coi là hợp lý. Khung cảnh thiên nhiên dưới lầu Ngưng Bích chỉ có tấm "trăng gần" làm bạn khiến cho Kiều nhớ về Kim Trọng, nhớ về vầng trăng thề nguyện khi hai người cùng uống rượu hứa hẹn một lòng sắt son trọn đời. Nàng cứ ngỡ mọi chuyện như là mới hôm qua, nàng đau đớn khi Kim Trọng vẫn chưa biết tin nàng đã chấp nhận bán mình mà vẫn chờ đợi nàng chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng một lòng sắt son nhưng tấm lòng sắt son ấy lại khiến nàng tủi hổ, vò xé tâm can trước nỗi nhớ Kim Trọng vì không biết "gột rửa bao giờ cho phai" vết hoen ố đó. Sau khi nhớ về Kim Trọng, nàng lại buồn da diết nhớ về gia đình, nhớ về những ngày còn được đoàn tụ sống hạnh phúc bên nhau. Nàng vẫn tự trách mình "Xót người tựa cửa hôm mai" vì chưa làm tròn đạo con, nàng không biết ai sẽ phụng dưỡng bố mẹ khi "gốc tử" ngày càng to ra cũng đồng nghĩa với việc cha mẹ nàng càng giá yếu đi mỗi ngày.

Có thể nói, 8 câu thơ cuối của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình trong toàn bộ đoạn trích:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Mỗi một cảnh thiên nhiên lại khơi gợi Kiều ở những nỗi buồn khác nhau. Thời gian buổi chiều vốn đã gợi nỗi buồn nay nỗi buồn ấy lại trông ra "cửa bể" rộng lớn khiến cho nỗi buồn lan ra, tỏa vào vạn vật xung quanh. "Buồn trông cửa bể chiều hôm" gợi không gian bao la, mênh mông khiến Kiều nhớ về quê nhà mà không biết bao giờ mới được trở về. Giữa mênh mông sông nước lại thấp thoáng một cánh buồm nhỏ bé tượng trưng cho Kiều đang bơ vơ, lạc lõng giữa chốn xa lạ. Mỗi lúc nỗi buồn của Kiều càng trở nên nặng nề hơn, Kiều "trông ngọn nước mới sa" với cánh hoa trôi trên mặt nước gợi cho Kiều nỗi buồn về thân phận mình, nàng thấy mình giống như những cánh hoa vô định cứ trôi, cứ trôi dù bị sóng nước vùi dập nên chẳng biết về đâu. Thiên nhiên nơi đây như nhuốm màu tâm trạng của nhân vật, nàng trông thấy "nội cỏ rầu rầu" gợi màu héo úa của cảnh vật cũng chính là ẩn dụ về tương lai mờ mịt, mất phương hướng của Thúy Kiều. Thiên nhiên dữ dội "sóng cuốn mặt duềnh" bủa vây xung quanh nàng là tiếng sóng kêu "ầm ầm" khiến cho Kiều có những sự cảm chẳng mấy tốt lành vê tương lai, phải chăng tai họa sắp ập xuống với nàng. Điệp ngữ "buồn trông" được kết hợp cũng những hình ảnh thiên nhiên theo sau đã diễn tả thành công nỗi buồn ngày càng tăng tiến, nâng lên theo cấp độ đã trở thành điệp khúc của tâm trạng nàng Kiều.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, éo le, buồn tủi đáng thương và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Ngòi bút Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc, sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật tâm trạng nhân vật.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du là thực cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Tác giả đã thực sự thành công và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy đặc sắc và thú vị.

Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (mẫu 3)

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Hoa, học sinh lớp 9A, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Qua ngòi bút tài hoa, cảnh vật thiên nhiên không chỉ được miêu tả một cách sinh động, mà còn trở thành bức tranh tâm trạng đầy tinh tế, thể hiện nội tâm phức tạp của nhân vật Thúy Kiều.

Bức tranh thiên nhiên hiện ra rộng lớn, hoang sơ, u buồn:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.

Tả cảnh là để ngụ tình. Bức tranh thiên nhiên thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn, lẻ loi của Thúy Kiều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào.

Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối.

Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”.

Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao, giúp “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trở thành một trong những đoạn trích hay nhất trong Truyện Kiều, đồng thời góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tả cảnh và miêu tả tâm lý: Cảnh vật không chỉ được miêu tả một cách khách quan, mà còn được thể hiện qua lăng kính tâm hồn của nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, giàu sức gợi: Ngôn ngữ góp phần thể hiện nội tâm phức tạp của Kiều, đồng thời tạo nên âm hưởng bi tráng cho tác phẩm.

Làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (mẫu 4)

đang cập nhật

1 45 lượt xem