Chương IV Nghị định 181/2004/NĐ-CP: Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, trưng dụng đất
Số hiệu: | 181/2004/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 29/10/2004 | Ngày hiệu lực: | 16/11/2004 |
Ngày công báo: | 01/11/2004 | Số công báo: | Từ số 1 đến số 2 |
Lĩnh vực: | Bất động sản, Tài nguyên - Môi trường | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2014 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Căn cứ để quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất bao gồm:
1. Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong các văn bản sau:
a) Dự án đầu tư của tổ chức có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư.
b) Văn bản thẩm định về nhu cầu sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư của tổ chức kinh tế không sử dụng vốn ngân sách nhà nước hoặc không phải là dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các Sở, ban, ngành có liên quan thẩm định về nhu cầu sử dụng đất trên cơ sở xem xét hồ sơ dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
c) Dự án xây dựng cơ sở tôn giáo đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét duyệt.
d) Đơn xin giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất về nhu cầu sử dụng đất đối với trường hợp xin giao đất nông nghiệp trong hạn mức giao đất hoặc giao đất làm nhà ở .
đ) Đơn xin giao đất của cộng đồng dân cư có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất về nhu cầu sử dụng đất.
2. Việc chấp hành tốt pháp luật về đất đai của người xin giao đất, thuê đất đối với trường hợp người xin giao đất, thuê đất đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trước đó để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trên cơ sở bản tự kê khai của người xin giao đất, thuê đất về tất cả diện tích đất, tình trạng sử dụng đất đã được Nhà nước giao, cho thuê trước đó và tự nhận xét về chấp hành pháp luật về đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất đang làm thủ tục giao đất, cho thuê đất có trách nhiệm liên hệ với Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất đã giao, đã cho thuê để xác minh mức độ chấp hành pháp luật về đất đai của người sử dụng đất trong quá trình thực hiện các dự án đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
3. Quy hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc kế hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc quy hoạch xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Trường hợp chưa có quy hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc kế hoạch sử dụng đất chi tiết thì căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
1. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Điều 37 của Luật Đất đai.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giao đất cho Tổ chức phát triển quỹ đất để quản lý.
2. Thẩm quyền thu hồi đất thực hiện theo quy định tại Điều 44 của Luật Đất đai.
Trường hợp thu hồi đất để giao, cho thuê đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài mà trên khu đất bị thu hồi có hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng hoặc có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thu hồi toàn bộ diện tích đất. Căn cứ vào quyết định thu hồi toàn bộ diện tích đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi diện tích đất cụ thể đối với từng hộ gia đình, cá nhân.
3. Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư mà phải chuyển mục đích sử dụng đất do điều chỉnh dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
1. Đất do Nhà nước giao, cho thuê thì thời hạn sử dụng đất tính từ ngày có quyết định giao, cho thuê của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trường hợp đất đã được giao, cho thuê trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 mà trong quyết định giao đất hoặc trong hợp đồng thuê đất không ghi rõ thời hạn giao, cho thuê thì thời hạn giao đất, cho thuê đất được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68, Điều 71, Điều 78, khoản 5 Điều 84, khoản 3 Điều 86, khoản 1 Điều 87 của Nghị định này và được tính từ ngày 15 tháng 10 năm 1993.
2. Người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng trong thời hạn còn lại của thời hạn ghi trong quyết định giao đất hoặc trong hợp đồng thuê đất.
1. Khi hết thời hạn sử dụng đất, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng, nhận chuyển quyền sử dụng được tiếp tục sử dụng đất với thời hạn sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 67 của Luật Đất đai, trừ trường hợp Nhà nước có quyết định thu hồi đất quy định tại các khoản 1, 4, 7, 8 và 11 Điều 38 của Luật Đất đai.
2. Việc gia hạn thời hạn sử dụng đối với các loại đất sử dụng có thời hạn không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định sau:
a) Trước thời điểm kết thúc thời hạn sử dụng đất sáu (06) tháng, nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì người sử dụng đất làm đơn gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất để xem xét, giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 3 và 4 Điều 67 của Luật Đất đai;
b) Thời hạn gia hạn sử dụng đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân thuê đất nông nghiệp được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 67 của Luật Đất đai;
c) Thời hạn gia hạn sử dụng đất đối với trường hợp tổ chức kinh tế sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối; tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; tổ chức kinh tế sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam được xác định theo dự án bổ sung đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt nhưng không vượt quá thời hạn đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
3. Trường hợp người sử dụng đất không có nhu cầu tiếp tục hoặc xin gia hạn sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép gia hạn sử dụng đất thì Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại khoản 10 Điều 38 của Luật Đất đai.
4. Hàng năm, Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất chỉ đạo cơ quan tài nguyên và môi trường rà soát về thời hạn sử dụng đất để quyết định thu hồi đất đối với những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
1. Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất thành lập Hội đồng định giá để xác định phần giá trị còn lại của tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất đối với trường hợp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền đầu tư trên đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; phần giá trị còn lại đó thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất.
Trường hợp đất do Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, do Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm, do Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất hoặc do Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc do Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì chỉ có phần giá trị còn lại đã đầu tư trên đất mà không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất.
2. Phần giá trị còn lại của tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất được giải quyết theo quy định sau:
a) Trường hợp đất bị thu hồi thuộc khu vực đô thị hoặc khu vực quy hoạch phát triển đô thị mà giao cho tổ chức phát triển quỹ đất thì tổ chức phát triển quỹ đất có trách nhiệm trả cho người bị thu hồi đất; ở những nơi chưa có tổ chức phát triển quỹ đất thì do ngân sách của cấp quản lý đất sau khi thu hồi trả cho người bị thu hồi đất;
b) Trường hợp đất bị thu hồi thuộc khu vực nông thôn mà giao cho Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn để quản lý hoặc để bổ sung vào quỹ đất công ích thì Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm trả cho người bị thu hồi đất;
c) Trường hợp đất bị thu hồi được Nhà nước giao cho người khác hoặc cho người khác thuê thì người được giao đất, thuê đất có trách nhiệm trả cho người bị thu hồi đất.
3. Trường hợp đất bị thu hồi thuộc nhóm đất phi nông nghiệp được tham gia thị trường bất động sản thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất được áp dụng hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản đã đầu tư trên đất và giải quyết phần giá trị còn lại của tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất theo quy định sau:
a) Nếu số tiền thu được do đấu giá sau khi trừ chi phí tổ chức việc đấu giá mà thấp hơn phần giá trị còn lại thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất thì người bị thu hồi đất được nhận lại toàn bộ số tiền đó;
b) Nếu số tiền thu được do đấu giá sau khi trừ chi phí tổ chức việc đấu giá mà cao hơn hoặc bằng phần giá trị còn lại thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất thì người bị thu hồi đất được nhận phần giá trị còn lại thuộc sở hữu của mình; phần chênh lệch được nộp vào ngân sách nhà nước.
4. Trường hợp thu hồi đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì tiền nhận chuyển nhượng, giá trị còn lại của tài sản đã đầu tư trên đất được giải quyết như đối với trường hợp thu hồi đất do được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
5. Trường hợp thu hồi đất mà người bị thu hồi đất đã cho thuê đất, thế chấp, bảo lãnh hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì quyền lợi của người thuê đất, nhận thế chấp, nhận bảo lãnh hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất được giải quyết theo quy định tại Điều 65 của Nghị định này.
1. Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong những trường hợp sau:
a) Sử dụng đất cho mục đích quốc phòng, an ninh;
b) Sử dụng đất để xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất;
c) Sử dụng đất để xây dựng trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao;
d) Sử dụng đất để xây dựng các công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh;
đ) Sử dụng đất để chỉnh trang, phát triển khu đô thị và khu dân cư nông thôn;
e) Sử dụng đất để phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng;
g) Sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo;
h) Sử dụng đất làm nghĩa trang, nghĩa địa.
2. Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong các trường hợp sau:
a) Sử dụng đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp quy định tại Điều 90 của Luật Đất đai, khu công nghệ cao quy định tại Điều 91 của Luật Đất đai, khu kinh tế quy định tại Điều 92 của Luật Đất đai;
b) Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
c) Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA);
d) Sử dụng đất để thực hiện dự án có một trăm phần trăm (100%) vốn đầu tư nước ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
3. Tất cả các trường hợp thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này đều phải nằm trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết; quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
4. Diện tích đất đã thu hồi quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 và tại khoản 2 Điều này được giao cho tổ chức phát triển quỹ đất để quản lý đối với trường hợp sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có dự án đầu tư; giao đất hoặc cho nhà đầu tư thuê đất đối với trường hợp đã có dự án đầu tư, chủ đầu tư phải sử dụng đất đúng mục đích được giao hoặc thuê.
5. Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 của Luật Đất đai và giao cho Uỷ ban nhân dân xã quản lý nếu đất đã thu hồi thuộc khu vực nông thôn, giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý nếu đất đã thu hồi thuộc khu vực đô thị và khu vực có quy hoạch phát triển đô thị.
6. Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế đối với các dự án không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này hoặc trong trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người đang sử dụng đất.
Trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh mà làm thay đổi mục đích sử dụng đất thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất phải được phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật Đất đai hoặc đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật Đất đai.
Trường hợp thuê đất của người đang sử dụng đất thì người thuê đất không được chuyển mục đích sử dụng đất.
7. Không được chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất đã giao để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, xây dựng khu công nghiệp, làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp sang mục đích xây dựng kinh doanh nhà ở .
8. Việc giải quyết khiếu nại về thu hồi đất trong trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được giải quyết theo quy định tại các Điều 162, 163 và 164 của Nghị định này.
Việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trong các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự.
1. Trường hợp Nhà nước ban bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, trường hợp khẩn cấp của chiến tranh, thiên tai, hoả hoạn hoặc các trường hợp khẩn cấp khác đe dọa nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của tổ chức, tài sản, tính mạng của nhân dân mà cần sử dụng đất thì Chính phủ; Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền trưng dụng đất.
Quyết định trưng dụng đất phải ghi rõ mục đích trưng dụng đất và thời hạn trưng dụng đất.
2. Hết thời hạn trưng dụng đất mà chưa thực hiện xong mục đích trưng dụng đất thì cơ quan nhà nước đã trưng dụng đất ra quyết định kéo dài thời hạn trưng dụng đất; thời hạn kéo dài trưng dụng đất không vượt quá thời hạn đã trưng dụng đất.
3. Cơ quan nhà nước đã trưng dụng đất có trách nhiệm trả lại đất và bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra cho người có đất bị trưng dụng khi đã thực hiện xong mục đích trưng dụng đất hoặc đã hết thời hạn trưng dụng đất; việc bồi thường thiệt hại được thực hiện trong thời hạn không quá sáu (06) tháng kể từ ngày hết thời hạn trưng dụng đất.
Trường hợp việc trưng dụng đất ảnh hưởng đến thu nhập bảo đảm đời sống của người bị trưng dụng đất thì việc bồi thường phải được thực hiện không quá ba (03) tháng một lần đối với thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra.
LAND ASSIGNMENT, LAND LEASE, LAND USE PURPOSE CHANGE, LAND RECOVERY, LAND REQUISITION
Article 30.- Grounds for land assignment, land lease, land use purpose change
Grounds for deciding on land assignment, land lease, permission for land use purpose change shall include:
1. The land use demands reflected in the following documents:
a) Investment projects of organizations using investment capital sources from the State budget, which have been approved by competent State agencies, or foreign-invested projects already granted investment licenses by competent State agencies;
b) Documents appraising the demands for land use for execution of investment projects of economic organizations which do not use State budget capital sources or which are not foreign-invested projects. The provincial/municipal Services of Natural Resources and Environment shall assume the prime responsibility for, and coordinate with the concerned Services, departments and branches in, appraising the land use demands on the basis of examining the investment project dossiers according to law provisions on investment;
c) The projects on construction of religious establishments, already approved by the provincial/municipal People's Committees;
d) The applications of households or individuals for land assignment, land use purpose change with certifications by the People's Committees of the communes, wards or townships where exists the land demanded for use, for case of applying for assignment of agricultural land within the land assignment limits or assignment of land for construction of dwelling houses;
e) The population communities' applications for land assignment with certifications by the People's Committees of the communes, wards or townships where exists the land demanded for use.
2. The good observance of the land legislation by applicants for land assignment or land lease for cases where the land assignment or land lease applicants have been previously assigned or leased land by the State for execution of production, business or service investment projects. On the basis of the self-declarations by the land assignment or land lease applicants about the entire acreages, the use of land previously assigned or leased by the State and their self-remarks on their observance of the land legislation, the provincial/ municipal Services of Natural Resources and Environment of the localities where exists the land, for which the land assignment or land lease procedures are being carried out, shall have to contact the provincial/municipal Services
of Natural Resources and Environment of the localities where exists the land which was previously assigned or leased in order to verify the land users' observance of the land legislation in the course of execution of projects to which the State assigned or leased land.
3. The detailed land use plannings or detailed land use plans, the urban construction plannings or rural population quarter construction plannings, which have been already approved by competent State agencies.
In cases where the detailed land use plannings or the detailed land use plans are not yet available, the land use plannings or land use plans already approved by competent State agencies shall serve as bases therefor.
Article 31.- Competence to assign land, lease land, permit land use purpose change and recover land
1. The competence to assign land, to lease land, to permit land use purpose change shall comply with the provisions of Article 37 of the Land Law.
The provincial/ municipal People's Committees shall assign land to the land fund development organizations for management.
2. The competence to recover land shall comply with the provisions of Article 44 of the Land Law.
Where land is recovered for assignment or lease to religious organizations or establishments, overseas Vietnamese, foreign organizations or foreign individuals and the to be-recovered land is being used by households, individuals or jointly by organizations, households and individuals, the provincial/ municipal People's Committees shall decide to recover the entire land areas. Basing themselves on the provincial/municipal People's Committees' decisions on recovery of the entire land areas, the People's Committees of rural districts, urban districts, provincial capitals or towns shall decide on the recovery of specific land area from each household, individual.
3. Where overseas Vietnamese, foreign organizations and/or foreigners use land for execution of investment projects but have to change the land use purposes due to the adjustment of the investment projects already approved by competent State agencies, the provincial/ municipal People's Committees shall permit the land use purpose change.
Article 32.- Competence to adjust land assignment, land lease decisions with regard to the land assigned or leased before the Land Law took implementation effect
The State agencies competent to assign land, lease land, defined in Article 37 of the Land Law, shall be the agencies competent to decide on adjustment for cases where the land users had been given land assignment or land lease decisions before the Land Law took implementation effect (July 1, 2004)
Article 33.- The durations of using the land assigned or leased by the State
1. The durations of using the land assigned or leased by the State shall be calculated from the dates of issuance of the land assignment or lease decisions by competent state agencies.
Where the land had been assigned or leased before October 15, 1993 but the land assignment decisions or the land lease contracts failed to clearly state the land assignment or lease duration, the land assignment or land lease duration shall comply with the provisions of Clauses 2 and 3 of Article 68, Article 71, Article 78, Clause 5 of Article 84, Clause 3 of Article 86, Clause 1 of Article 87, of this Decree and be calculated from October 15, 1993.
2. The land users may continue using the land for the remaining duration of the time limits stated in the land assignment decisions or land lease contracts.
Article 34.- Continuing to assign land, lease agricultural land; extending the land use duration or recovering land upon the expiry of land use time limits
1. Upon the expiry of land use durations, the households and individuals directly involved in agricultural production, forestry, aquaculture or salt making, that have used the agricultural land assigned or leased by the State, have their use rights recognized by the State or have been transferred the land use rights, may continue using the land with the land use durations prescribed in Clause 1, Article 67 of the Land Law, except for cases where the State issues land recovery decisions as provided for in Clauses 1, 4, 7, 8 and 11 of Article 38 of the Land Law.
2. The extension of the use duration for land categories with definite use durations not falling within the cases prescribed in Clause 1 of this Article shall comply with the following regulations:
a) Within six (6) months before the expiry of the use duration, if having demand to continue using the land, the land users shall file their applications to the State agencies competent to assign or lease land for consideration and settlement under the provisions of Clauses 1, 3 and 4, Article 67 of the Land Law;
b) The extension duration for cases where households, individuals lease agricultural land shall be determined in accordance with the provisions in Clause 1, Article 67 of the Land Law;
c) The extension duration for cases where economic organizations use land for the purposes of agricultural production, forestry, aquaculture, salt making; economic organizations, households, individuals use land as ground for construction of production and/or business establishments; economic organizations use land for execution of investment projects; overseas Vietnamese, foreign organizations and/or individuals use land for execution of investment projects in Vietnam shall be determined according to the supplementary projects already approved by competent State agencies, but must not exceed the duration of land assignment or land lease by the State.
3. Where the land users do not wish to continue using the land or apply for use duration extension as provided for in Clause 2 of this Article or are not permitted by competent State agencies for land use extension, the State shall recover the land under the provisions of Clause 10, Article 38 of the Land Law.
4. Annually, the People's Committees of the level competent to recover land shall direct the natural resource and environment agencies to review the land use duration in order to decide on land recovery applicable to cases prescribed in Clause 3 of this Article.
Article 35.- Handling of land use levies, land rents, assets already invested in land, for cases of land recovery prescribed in Clauses 2, 3, 5, 8, 9, 11 and 12, Article 38 of the Land Law
1. The People's Committees of the level competent to recover land shall set up Valuation Councils to determine the remaining values of the land use levies, land rents, assets already invested in the land, for cases where the land use levies, land rents, asset money invested in the land have not originated from the State budget; the remaining values belong to the ownership of the persons with their land recovered.
Where the land is assigned by the State without the collection of land use levies or the land is leased by the State with land rents being paid annually, or the land is assigned by the State with the collection of land use levies or leased by the State with land rents paid for the whole lease term or the land is leased by the State with land rents being paid for many years and the paid land use levies and/or land rents have originated from the State budget, only the remaining value portions invested in the land and not originating from the State budget shall belong to the ownership of the persons with their land recovered.
2. The remaining values of land use levies, land rents, assets already invested in land, which belong to the ownership of the persons with their land recovered shall be handled according to the following regulations:
a) Where the recovered land lies in urban areas or urban development planning regions, which is assigned to the land fund development organizations, the land fund development organizations shall have to pay the remaining values to the persons with their land recovered; in places where the land fund development organizations are not available, the payment to the persons with their land recovered shall be made by the budget of the level managing the recovered land;
b) Where the recovered land lies in rural areas and is assigned to the commune, district township People's Committees for management or for addition to the public land funds, such commune or district township People's Committees shall have to make payment to the persons with their land recovered;
c) Where the recovered land is assigned or leased to other persons by the State, the land assignees or lessees shall have to make payment to the persons with land recovered.
3. Where the recovered land belongs to the non-agricultural land group eligible for participation in the real estates market, the People's Committees of the level competent to recover the land shall apply form of auctioning the land use right and assets already invested in the land and handle the remaining values of the land use levies, land rents, assets already invested in the land, which belong to the ownership of the persons with land recovered according to the following regulations:
a) If the proceeds from auctions, after subtracting expenses for organization of the auctions, are lower than the remaining values belonging to the ownership of the persons with land recovered, such persons shall be entitled to receive the whole sums of such money;
b) If the proceeds from auctions, after subtracting the expenses for organization of the auctions, are higher than or equal to the remaining values belonging to the ownership of the persons with land recovered, such persons shall be entitled to receive the remaining values belonging to their ownership; the differences shall be remitted into the State budget.
4. Where the land is recovered due to acceptance of the land use right transfer, the transfer money, the remaining value of the assets already invested in land shall be settled like in the case of recovering land assigned by the State with the collection of land use levies as provided for in Clauses 1, 2 and 3 of this Article.
5. Where the to be-recovered land has been leased, mortgaged, guaranteed or contributed as capital with the land use right by the persons with land to be recovered, the interests of the land lessees, mortgagees, guarantees or receivers of capital contributed with the land use right shall be settled under the provisions of Article 65 of this Decree.
Article 36.- Recovery of land and management of recovered land funds
1. The State shall recover land for use for defense, security purposes, for national interests, public interests in the following cases:
a) Using the land for defense or security purposes;
b) Using the land for construction of working offices, non-business works with land assigned by the State without the collection of land use levies;
c) Using the land for construction of offices of foreign organizations with diplomatic functions;
d) Using the land for construction of public works not for business purposes;
e) Using the land for renovation, development of urban centers and rural population quarters;
f) Using the land for development of protective forests, special-use forests;
g) Using the land for religious establishments;
h) Using the land for construction of cemeteries, graveyards.
2. The State shall recover land for use for economic development purposes in the following cases:
a) Using the land for investment in construction of industrial parks defined in Article 90 of the Land Law, hi-tech parks defined in Article 91 of the Land Law, economic zones defined in Article 92 of the Land Law;
b) Using the land for execution of investment production, business, service or tourist projects of Group A under the provisions of the legislation on investment, which have been approved or permitted for investment by competent State agencies but cannot be invested in industrial parks, hi-tech parks or economic zones;
c) Using the land for execution of investment projects with sources of official development assistance (ODA) capital;
d) Using the land for execution of projects with 100% foreign investment capital, which have already been approved or permitted for investment by competent State agencies but cannot be invested in industrial parks, hi-tech parks or economic zones.
3. All cases of land recovery prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article must be included in detailed land use plannings, plans; detailed urban construction plannings or rural population quarter construction plannings, which have been already approved by competent State agencies.
4. The recovered land areas prescribed at Points d and e of Clause 1 and Clause 2 of this Article shall be assigned to the land fund development organizations for management, for cases where the land use plannings or plans have been publicized but the investment projects are not available yet; assigned or leased to investors, for cases where the investment projects are available, but the investors must use the land for the right assignment or lease purposes.
5. The State shall recover land in the cases prescribed in Clauses 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 and 12 of Article 38 of the Land Law and assign the land to the commune People's Committees for management if the recovered land lies in rural areas, or to the land fund development organizations for management if the recovered land lies in urban areas and regions with urban development planning.
6. The State shall not recover land for use for economic development purposes for projects not prescribed in Clause 2 of this Article or in cases where investors are transferred or leased the land use rights, or receive capital contributed with the land use rights of the current land users.
In case of receiving the land use right transfer or capital contributed with the land use rights for use of land for production and/or business purposes, which entails the land use purpose change, the land use right transferees must be allowed to change the land use purposes under the provisions of Clause 1, Article 36 of the Land Law or to register the land use purpose changes under the provisions of Clause 2, Article 36 of the Land Law.
In cases of renting land of the current land users, the land lessees must not change the land use purposes.
7. The use purposes must not be changed for the land already assigned for use for defense or security purposes, for national interests, public interests, construction of industrial parks, for use as ground for non-agricultural production and/or business into the purpose of building dwelling houses for business.
8. The settlement of complaints about land recovery in the cases prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article shall comply with the provisions of Articles 162, 163 and 164 of this Decree.
The settlement of disputes over land use right in the cases prescribed in Clause 6 of this Article shall comply with the civil law provisions.
Article 37.- Land requisition for definite terms
1. Where the State declares the state of emergency under law provisions on emergency state, war emergency state, natural disasters, fire or other emergency cases, which seriously threaten the properties of the State and/or organizations, the properties and lives of people and require land use, the Government, the provincial/municipal People's Committees and the rural district, urban district, provincial capital or town People's Committees are competent to requisition land.
The land requisition decisions must clearly state the land requisition purposes and duration.
2. If the land requisition duration expires while the land requisition purposes have not yet been attained, the State agencies which have requisitioned the land shall decide to extend the land requisition duration; the extension duration shall not exceed the land requisition duration.
3. The State agencies which have requisitioned the land shall have the responsibility to return the land and pay compensations for damage, if any, caused to the persons with land requisitioned, upon the attainment of the land requisition purposes or upon the expiry of the land requisition duration; the damage compensations shall be made within six (6) months after the expiry of the land requisition duration.
Where the land requisition affects the life-ensuring incomes of the persons with land requisitioned, the compensations must be made within three (3) months in lump sum for the damage caused by the requisition.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực