Khóc Dương Khuê - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 9 - Cánh diều

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Khóc Dương Khuê Ngữ văn lớp 9 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 9. Mời các bạn đón xem:

1 56 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Khóc Dương Khuê - Ngữ văn 9

Khóc Dương Khuê - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 9 - Cánh diều (ảnh 1)

I. Tác giả Nguyễn Khuyễn

- Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng.

- Sinh ra tại quê ngoại – xã Hoàng Xá (nay là xã Yên Trung), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

- Lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội – làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo.

- Năm 1864, ông đỗ đầu kì thi Hương. Mấy kì sau thi tiếp lại trượt, đến năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình. ⇒ Do đỗ đầu cả ba kì thi nên Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.

- Tuy đỗ đạt cao nhưng ông chỉ làm quan hơn mười năm, còn phần lớn cuộc đời là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà.

- Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.

- Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.

- Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

- Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau.

- Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương.

- Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình.

- Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.

Khóc Dương Khuê - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Cánh diều

II. Tìm hiểu văn bản Khóc Dương Khuê

1. Thể loại

- Văn bản Khóc Dương Khuê thuộc thể loại song thất lục bát.

2. Xuất xứ

- Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, Dương Khuê sinh năm 1839. Hai người kết bạn từ thuở thi đậu, Nguyễn Khuyến bỏ quan về quê, Dương Khuê vẫn làm quan nhưng cả hai vẫn giữ tình bạn gắn bó khăng khít.

- Năm 1902, khi nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ khóc bạn.

3. Hoàn cảnh sáng tác

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn rất thân với nhau, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê 4 tuổi nhưng hai người đậu cử nhân cùng một khoa. Mỗi người có một cách sống khác nhau. Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Nguyễn Khuyến liền từ quan không hợp tác với triều đình, Dương Khuê thì ra làm quan cao cho Pháp đến chức tổng đốc Nam Định.

Dù thế hai người vẫn giữ tình bạn thân thiết, keo sơn, gắn bó không hề thay đổi. Năm 1902 Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến nghe tin liền làm bài thơ này khóc bạn.

4. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

5. Ý nghĩa nhan đề

Bài thơ có nhan đề Khóc Dương Khuê thể hiện sự khóc bạn của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Đó là những tiếng khóc thương tiếc của nhà thơ dành cho người bạn của mình, là sự tiếc nuối những gì đã có với nhau để giờ đây bạn vội đi để lại một mình nhà thơ với những kỉ niệm vơi đầy của quá khứ.

Đúng là người chết đi thì bình yên nhưng để lại sự thương tiếc cho người còn sống. Bài thơ hay chính là lời tiễn biệt của nhà thơ dành cho bạn mình.

6. Bố cục Khóc Dương Khuê

- Đoạn 1 (Hai câu thơ đầu): Nỗi đau đột ngột khi mất bạn.

- Đoạn 2 (Từ câu 3 đến câu 22): Những kỉ niệm tươi rói về tình bạn sống lại trong hồi tưởng của nhà thơ.

- Đoạn 3 (Còn lại): Nỗi đau tắc nghẹn, hụt hẫng, chơi vơi khi đối diện với hiện thực phũ phàng (mất người tri âm, tri kỉ).

7. Giá trị nội dung

- Bài thơ Khóc Dương Khuê là một bài thơ cảm động, đã thể hiện một tình bạn tri âm, tri kỉ của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê.

8. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ song thất lục bát, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu.

- Sử dụng kết hợp các biện pháp nghệ thuật: nói giảm nói tránh, các câu hỏi tu từ, điệp từ,...

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Khóc Dương Khuê

Khóc Dương Khuê - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 9 - Cánh diều (ảnh 1)

1. Nỗi đau đớn bàng hoàng khi nghe tin bạn mất

- Cách xưng hô với bạn (gọi bạn là bác) thể hiện tình cảm gần gũi, yêu mến, kính trọng bạn của nhà thơ.

- Cụm từ thôi đã thôi rồi để cực tả tâm trạng đau đớn, bàng hoàng của nhà thơ trước sự ra đi của bạn.

- Câu thơ cảm thán, giọng thơ ai oán, gợi tả nỗi đau như thấm vào cảnh vật, thấm vào lòng người .

2. Dòng hồi tưởng về những ngày gắn bó

- Nhà thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm một thời gắn bó của nhà thơ và bạn: cùng đi thi, cùng làm quan, cùng làm thơ – uống rượu và cùng chia sẻ buồn vui trong cuộc đời…

- Điệp từ cũng có lúc... có khicho ta thấy kỉ niệm hiện về dồn dập, sống động chân thực, khó phai mờ.

- Kỉ niệm được nhắc lại theo dòng thời gian từ xa đến gần; giọng thơ trầm đều… → Kỉ niệm giữa nhà thơ với bạn càng chồng chất.

⇒ Một tình bạn keo sơn, gắn bó, chân thành, sâu sắc.

3. Nỗi đau đớn khi không còn bạn

- Cách nói giảm nói tránh nhưng không cân bằng được tâm trạng sửng sốt, bàng hoàng: làm sao,chợt nghe. Dường như nỗi đau tinh thần quá lớn, đã vượt qua nỗi đau thể xác: chân tay rụng rời.

→ Trở lại thực tại mất bạn, giọng thơ từ hoài niệm chuyển sang đau đớn.

- Câu hỏi tu từ cũng là lời trách của Nguyễn Khuyến đối với bạn diễn tả nỗi đau đớn, bơ vơ trong lòng tác giả(vội vã lên tiên).

- Điệp ngữ trùng điệp: không, ai, viết diễn tả nỗi trống vắng cô đơn tột cùng, không gì bù đắp nổi.

- Bốn câu thơ cuối dồn tụ bao nỗi đau, thương bạn, chỉ còn nỗi nhớ ở lại, dường như nước mắt lặn vào trong, vào trái tim đang run lên những cung bậc cảm xúc nghẹn ngào, chua xót.

- Cách dùng điển cố để diễn tả tâm trạng bơ vơ trống vắng khi bạn khi bạn không còn nữa.

IV. Đọc văn bản Khóc Dương Khuê

Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên,
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

V. Dàn ý phân tích Khóc Dương Khuê

(1) Mở bài

Giới thiệu bài thơ: Đau buồn trước hung tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã sáng tác bài thơ Khóc Dương Khuê để bày tỏ nỗi lòng mình trước vong linh tri kỷ.

(2) Thân bài

* Sơ lược về Dương Khuê và tác phẩm:

– Dương Khuê (1839-1932), hiệu là Vân Trì, quê ở tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), là người học rộng tài cao, cùng đỗ cử nhân với Nguyễn Khuyến, và đỗ Tiến sĩ vào năm 1868, sinh thời đã làm quan đến chức Tổng đốc Nam Định, Ninh Bình. Là một trong những người bạn tri âm, tri kỷ nhất của Nguyễn Khuyến.

– Khóc Dương Khuê được Nguyễn Khuyến viết vào năm 1902 khi Dương Khuê bệnh mất.

* Hai câu thơ đầu:

– Thể hiện sự buồn thương, bàng hoàng khi người bạn tri kỷ của ông bỗng nhiên bệnh mất.

– Cách gọi “bác Dương” nghe vừa thân thiết vừa kính trọng.

– Nỗi đau xót của tác giả không chỉ khu trú riêng tâm hồn tác giả mà còn vượt ra phủ khắp mây trời, biển nước.

* 14 câu thơ tiếp “Nhớ từ…than trời”

– Là những hồi tưởng của Nguyễn Khuyến về những kỷ niệm với Dương Khuê thời trai trẻ.

– Là kỷ niệm cùng đỗ khoa cử, cùng làm quan chốn quan trường, cống hiến cho đất nước, là tình cảm kính yêu trước sau không đổi, là cuộc gặp gỡ “duyên trời”.

– Là những ngày cùng nhau vui vầy thú tao nhã, ngắm cảnh núi sông, làm thơ, uống rượu, nghe đàn, nghe hát,…

– Không chỉ chung vui lúc thái bình mà còn cùng hoạn nạn lúc thế sự nhiễu nhương.

=> Tất cả những kỷ niệm ấy đều in dấu sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến, là những thú vui, là những hạnh phúc dẫu thông thường, giản dị thế nhưng lại mang nhiều ý nghĩa sâu sắc với tác giả.

* 6 câu thơ tiếp “Bác già…chưa can”:

– Những khó khăn về sức khỏe đã không cho phép hai người tri kỷ không có nhiều cơ hội gặp nhau.

– Niềm vui mừng, hạnh phúc khi gặp lại bạn sau thời gian dài xa cách, nỗi an tâm về sức khỏe của bạn.

=> Tình cảm càng trở nên tha thiết, sâu nặng.

* 10 câu thơ tiếp “Kể tuổi…tiếng đàn”

– Nỗi bàng hoàng, xót xa vì bạn hiền ra đi đột ngột

– Người đã mất, đứng trước những thú vui vốn là tao nhã, là thú vị khi xưa thì hôm nay nó cũng trở nên nhạt nhòa, không còn hứng thú.

– Sự trống rỗng đến tột cùng trong tâm hồn tác giả mà không một âm điệu, không một vần thơ, không một thứ rượu ngon nào có thể bù đắp.

– Nguyễn Khuyến sử dụng tinh tế các điển cố cùng ngôn từ điêu luyện, âm điệu đậm những nỗi trầm buồn, nuối tiếc xa xăm càng thể hiện được tình nghĩa thắm thiết, sâu sắc của mình với người tri kỷ đã khuất.

* 4 câu thơ cuối:

– Mọi nỗi đau, mọi nỗi nhớ dường như đã ép cả vào lòng, chôn giấu vào tim, chẳng thể khóc thành tiếng, nước mắt cũng không thể “chứa chan” mà đều chảy cả vào tâm hồn của thi sĩ.

– Đó là nỗi đau tận cùng, tột bậc không khóc thành tiếng, không thể nói thành lời được nữa.

(3) Kết bài

– Nội dung: Niềm xót thương sâu sắc trước người bạn đã khuất, ca ngợi tình bạn đẹp đẽ, thiêng liêng sâu sắc của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.

– Nghệ thuật: Thể thơ song thất lục bát, với ngôn ngữ giản dị, thân tình, trong sáng, đậm chất suy tưởng, trầm ngâm, với nhiều những điển tích, điển cố sâu sắc.

1 56 lượt xem