Dế chọi - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 9 - Cánh diều

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Dế chọi Ngữ văn lớp 9 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 9. Mời các bạn đón xem:

1 149 27/11/2024


Tác giả tác phẩm: Dế chọi - Ngữ văn 9

I. Tác giả Bồ Tùng Linh

- Bồ Tùng Linh (1640 – 1715), tự là Lưu Tiên và Kiếm Thần, còn được gọi bằng cái tên Liễu Tuyền cư sĩ.

- Là một văn sĩ người Trung Quốc dưới triều đại nhà Thanh.

Dế chọi - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Cánh diều

II. Tìm hiểu văn bản Dế chọi

1. Thể loại

- Tác phẩm Dế chọi thuộc thể loại: truyện truyền kì.

2. Xuất xứ

- Theo Liêu Trai chí dị, Nguyễn Văn Huyên dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 1996.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

4. Bố cục Dế chọi

- Phần 1 (từ đầu đến…việc tự tử mà thôi): tình cảnh ngang trái của Thành sau khi trượt khoa thi Đồng Tử.

- Phần 2 (tiếp theo đến…bỏ vào lồng): Con dế của Thành và chuỗi sự việc liên quan tới: con Thành chết, dế mất, hồn con Thành hóa thân vào con dế chọi.

- Phần 3 (đoạn còn lại): nhờ dế chọi mà gia đình Thành đổi đời.

5. Tóm tắt Dế chọi

Câu chuyện kể về nhân vật Thành - Dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác cho nên bị chèn ép bắt làm lí trưởng nhưng thực chất để đi sách nhiễu dân làng hộ bọn quan bên trên để nộp dế. Do anh không dám sách nhiều dân mà cũng không có gì để bù, anh đã bị đánh trăm trượng, máu me be bét và luôn muốn tự tử. Vợ Thành đi xem bói, biết nơi có dế tốt. Thành đã bắt được một con dế chọi như ý. Nhưng không may con Thành làm dế bị chết. Bị mẹ mắng, nó sợ hãi nhảy xuống giếng và bị chết đuối. Thành mất con, mất dế. Con Thành sống lại nhưng vô hồn. Hồn con Thành hoá thân vào con dế chọi. Dế nhỏ nhưng nhanh nhẹn và chọi rất giỏi. Dế mang dâng vua, chọi giỏi lại biết nhảy múa, vua rất vừa lòng và ban thưởng cho quan tỉnh. Gia đình Thành được giàu sang phú quý, “Ruộng đồng trăm khoảnh… ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế.

6. Giá trị nội dung

- Văn bản tập trung vạch trần chế độ tàn bạo, gian ác của bọn quan lại. Đồng thời bày tỏ sự xót thương cho số phận những con người “nhỏ bé” luôn bị chà đạp, bóc lột.

- Câu chuyện chịu ảnh hưởng của bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, con người tuân theo thuyết luân hồi báo ứng, thể hiện rõ nét giá trị nhân đạo của tác phẩm.

7. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng nhiều chi tiết kì ảo, hoang đường.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Dế chọi

1. Thời gian, không gian và sự việc liên quan đến nhan đề của truyện

- Thời gian: Đời Tuyên Đức nhà Minh.

- Không gian: Trong cung, dân gian.

- Sự việc liên quan:

+ Trong cung rất chuộng trò chơi chọi dế yêu cầu dân gian cống nộp.

+ Muốn lấy lòng quan trên cho nên các Tri huyện đem hiến 1 con, quan chơi thử thấy hay đòi dâng nộp thường xuyên, Tri huyện lại đòi lí trưởng…(cứ theo cấp bậc để truyền lệnh cống nạp) và cấp bậc cuối cùng là người dân phải chịu tất cả những sách nhiễu vì chọi dế.

Dế chọi - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Cánh diều

2. Nhân vật Thành

- Hoàn cảnh: Dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác cho nên bị chèn ép bắt làm lí trưởng nhưng thực chất để đi sách nhiễu dân làng hộ bọn quan bên trên để nộp dế. Do anh không dám sách nhiều dân mà cũng không có gì để bù, anh đã bị đánh trăm trượng, máu me be bét và luôn muốn tự tử.

- Cảnh ngộ của Thành:

+ Vợ đi xem bói, cô đồng bói toán chỉ dẫn bằng một bức vẽ có liên quan đến việc bắt dế.

+ Vì dế chọi mà gia đình Thành đã hao hụt hết tiền bạc, Thành bị đánh nhừ tử, con trai vì lo lắng khi làm chết dế đã tự sát.

+ Sau đó khi bắt được một con dế chọi khác. Vì con dế này đấu rất giỏi cho nên được các quan rất thích hơn nữa nó còn biết nhảy theo điệu nhạc khiến cho vua rất vui mừng, từ đó mà gia đình Thành đã một bước lên mây, còn hơn cả những gia đình gia thế khác.

=> Phê phán sở thích chọi dế của nhà vua, chỉ vì con dế nhỏ bé nhưng vì được vua thích mà đẩy nhân dân vào bước khổ cực, có thể thay đổi cả vận mệnh nhiều cuộc đời.

=> Tính chất này còn được thể hiện ở lời bình luận ở cuối tác phẩm : “Còn ơn trời đền đáp sao mà dài lâu hậu hĩ vậy, khiến cho quan tỉnh, quan huyện đều được hưởng ân huệ và phúc ấm của dế. Ta từng nghe : “Một người thăng thiên, gà chó cũng thành tiên”. Đáng tin vậy thay”.

3. Tính chất kì ảo và tính chất hiện thực trong truyện

a. Tính chất kì ảo

- Chi tiết kì ảo: Từ việc Thành tìm được con dế, con trai Thành sống dậy, linh hồn biến thành con dế để giúp gia đình được vinh hoa phú quý.

=> Làm nổi bật lên giá trị hiện thực về một xã hội tàn bạo, đè nén gây ra bao đau thương cho người dân hiền lành lương thiện. Đồng thời thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng cảm với số phận người dân không quyền không thế.

b. Tính chất hiện thực

+ Trong cung rất chuộng trò chơi chọi dế yêu cầu dân gian cống nộp.

+ Muốn lấy lòng quan trên cho nên các Tri huyện đem hiến 1 con, quan chơi thử thấy hay đòi dâng nộp thường xuyên, Tri huyện lại đòi lí trưởng…(cứ theo cấp bậc để truyền lệnh cống nạp) và cấp bậc cuối cùng là người dân phải chịu tất cả những sách nhiễu vì chọi dế.

+ Thành vốn người chất phác, ít nói, cho nên bị bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. Tuy muôn phương nghìn kế chối từ mà vẫn không thoát. Mới chưa đầy một năm mà cái gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt.

+ Không cống nạp được bị lôi ra đánh nhừ tử.

+ Vì có con dế hay dâng vua mà Thành Danh được học tiếp và thi đỗ tú tài. Con dế đã giúp anh chức dịch hiền lành “thành danh”, vượt cả bậc quyền quý.

=> Phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, đạp xuống đưa lên là chuyện bình thường. Một con dế chọi có thể mang đến thảm kịch cho một gia đình, một tỉnh nhưng cũng có thể mang vinh hoa phú quý đến cho cả một tỉnh, một dòng họ.

IV. Đọc văn bản Dế chọi

DẾ CHỌI

- BỒ TÙNG LINH -

Đời Tuyên Đức nhà Minh, trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp. Vật này không phải sản ở Thiểm Tây nhưng Tri huyện Hoa Âm (tỉnh Thiểm Tây) muốn lấy lòng quan trên đem hiến một con, quan tỉnh cho chọi thử thấy hay bèn đòi dâng nộp thường xuyên. Tri huyện lại đòi lí trưởng phải cung ứng, bọn du thủ du thực ở chợ tìm bắt được con nào hay là nhốt vào lồng nuôi, coi như món hàng quý. Còn bọn lí dịch giảo hoạt lấy lệ dâng nộp dế để sách nhiễu dân chúng, mỗi con nộp lên đủ làm mấy nhà khuynh gia bại sản.

Trong huyện có Thành đã dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác nên bị bọn lí dịch gian giảo ép làm chức lí chính, tìm đủ cách chối từ mà không được, chưa đầy một năm thì chút ít gia sản đã cạn kiệt. Gặp kì nộp dế, Thành không dám sách nhiễu dân nhưng không có gì để bù, lo buồn chỉ muốn chết. Vợ nói “Chết thì có ích gì, chẳng bằng cứ tự tìm bắt, biết đâu cũng được một con”. Thành cho là phải. Bèn sáng đi tối về, cầm ống trúc lồng tơ bới đất lật đá khắp bãi hoang tường đổ, làm đủ cách mà không được, có bắt được hai ba con thì nhỏ yếu không đủ quy cách. Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử.

Lúc ấy trong thôn có bà đồng gù lưng tới, bởi toán như thần. Vợ Thành đem tiền lễ tới, thấy gái non bà già đứng chật cổng ngõ. Vào trong nhà thì có phỏng kín buông rèm, ngoài rèm bày hương án, người tới bởi thắp hương trong định rồi vái lạy, bà đồng đứng bên hướng lên không khẩn khứa, môi mấp máy không biết là nói gì, ai cũng kính cẩn đứng chờ. Lát sau trong rèm ném ra tờ giấy ghi rõ về việc người ấy muốn hỏi, không sai chút nào. Vợ Thành đặt tiền lễ lên án rồi thắp hương vái lạy như những người trước, khoảng ăn xong bữa cơm thì tấm rèm lay động, mảnh giấy ném ra. Giở ra xem không phải là chữ mà là bức vẽ, trong vẽ điện gác là chùa chiền, phía sau có hòn núi nhỏ đầy những tảng đá hình thù kỳ quái, gai góc tua tủa, có con để nằm dưới, bên cạnh có con ếch như sắp nhảy lên, mở xem không hiểu nhưng thấy có con dế ám hợp với việc mình cầu khấn nên cất vào người đem về đưa Thành xem.

Thành giở đi giở lại, nghĩ “Hay là bức vẽ này chỉ ta chỗ bắt để chăng?”. Nhìn kĩ quang cảnh trong đó thấy rất giống gác Đại Phật ở phía đông thôn, bèn gượng dậy chống gậy cầm bức vẽ tới sau chùa. Ở đó có ngôi mộ cổ, lần quanh thấy đá nằm ngổn ngang đúng như trong bức vẽ, bèn dò dẫm trong đám cây cỏ lắng nghe như tìm mũi kim hạt cải, bao nhiêu tâm trí sức mắt sức tại đều dốc ra hết nhưng không thấy gì cả. Đang còn tìm kiếm thì chợt có một con ếch nhảy ra, Thành càng ngạc nhiên vội đuổi theo. Con ếch nhảy vào đám cỏ, Thành theo vết vạch cỏ tìm thì thấy một con dế núp dưới gốc cây gai, vội chụp lấy thì nó chui vào kẽ đá, lấy cọng cỏ chọc vào nó vẫn nằm ì ra đó, đem ổng đổ nước vào mới chịu chui ra, dáng vẻ rất khoẻ mạnh, Thành đuổi theo về được. Nhìn kĩ thấy nó mình to đuôi đài, cổ xanh cánh vàng, mừng quá nhốt vào lồng mang nhà vui mừng, dù là được ngọc báu liên thành cũng không bằng. Rồi thả nó vào chậu nuôi, cho ăn chu đáo, gìn giữ nâng niu chờ tới kỉ hạn nộp quan.

Thành có đứa con trai chín tuổi rình lúc cha không có nhà lén mở chậu ra xem. Con để thừa cơ nhảy ra, nó đuổi theo mãi không được, đến khi chụp được vào tay thì để đã gãy cẳng vỡ bụng, lát sau thì chết. Đứa nhỏ sợ quá khóc lóc tới kể với mẹ, mẹ nó nghe thế mặt tái mét, hoảng sợ nói “Đồ oan nghiệt hết sống rồi, cha ngươi về sẽ nói chuyện với ngươi”, đứa nhỏ khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại như bị dội băng tuyết lên người, nổi giận đi tìm con nhưng không thấy đâu, kế) tìm thấy xác con dưới giếng, đổi giận thành thương gào khóc muốn tắt hơi. Vợ chồng quay mặt vào vách, nhà tranh không khói lửa nấu cơm, im lặng nhìn nhau không còn hy vọng gì nữa. Trời gần tối liệm xác con, tới bế lên thì thấy còn thoi thóp thở, cả mừng bế đặt lên giường, nửa đêm thì đứa nhỏ sống lại. Hai vợ chồng hơi nhẹ lòng, nhưng đứa nhỏ thần thái ngây ngốc như người gỗ, cứ ngủ mê mệt. Thành nhìn tới lồng để rỗng không thì đứt hơi nghẹn cổ, cũng không nghĩ gì tới con nữa, từ đêm đến sáng không sao chợp mắt, trời đã sáng rõ vẫn nằm đờ buồn bã.

Bỗng nghe tiếng dế gáy ngoài cửa, Thành giật mình vùng dậy nhìn thì dế vẫn còn sờ sờ, mừng rỡ chụp lấy. Con để kêu to một tiếng nhảy đi, Thành đuổi mau theo lấy bàn tay chụp lên thì thấy trống không như không có gì, giờ tay lên thì nó lại nhảy vọt lên. Thành đuổi mau theo tới góc tường thì không thấy đâu, ngơ ngẩn nhìn quanh thấy nó đậu trên vách, nhìn lại thấy vừa nhỏ vừa ngắn mà màu tía, không phải là con trước, cho là loại dở nhưng vẫn quanh quẩn nhìn ngó. Chợt con dễ từ vách nhảy xuống tay áo, Thành ngắm kĩ thấy hình dáng như con chó, cánh hoa mai, đầu vuông chân dài, có vẻ như đế hay, bèn mừng giữ lại. Định đem lên nộp quan nhưng thấp thỏm lo không vừa ý quan, bèn nghĩ cho chọi thử xem sao.

Trong thôn có gã thiếu niên hiểu sự nuôi một con dế, nói là loại “giải xác thanh” (để xanh vỏ cua), hàng ngày đem chọi với dế của bạn bè đều thắng, muốn giữ để kiếm lợi, ai trả giá cao cũng không chịu bán. Nhân qua thăm Thành thấy con dế Thành nuôi, y bịt miệng ôm bụng cười, đưa dế của mình ra, bỏ vào lồng chọi. Thành nhìn thấy nó to lớn khỏe mạnh càng thêm xấu hổ, không dám cho chọi thử. Thiếu niên cố ép, Thành nghĩ nuôi dế dỡ rốt lại cũng vô dụng, chi bằng cử cho chọi thử mua vui, bèn cho dế vào lồng chọi. Con dế nhỏ nằm mọp xuống không động đậy, ngơ ngơ như gà gỗ. Thiếu niên lại cười rộ, lấy lông heo chọc vào râu, nó vẫn nằm im, thiếu niên lại cười, lại chọc. Con dế nổi giận xông thẳng ra, lúc sắp đánh thì phùng cánh gáy lớn, rồi vểnh râu cong đuôi nhảy xổ tới cắn cổ địch thủ. Thiếu niên cả sợ vội gạt hai con để ra không cho chọi nữa, con để hiện ngang gáy vang như báo cho chủ biết nó đã thắng trận. Thành mừng quá, đang cùng nhau ngắm nghía chợt có con gà sấn sổ xông tới mổ luôn một nhát vào dế. Thành kinh hãi bật dậy la hoảng, may là gà mổ không trúng, con để nhảy ra hơn một thước.

Gà sấn theo mổ lia lịa, con dế đã nằm dưới mỏng gà, Thành thảng thốt không biết làm sao cứu, dẫm chân tái mặt. Nhưng gà lại rướn cổ lăn ra, tới gần nhìn thì thấy để đã trên mào gà, cắn chặt không buông. Thành càng kinh ngạc mừng rỡ, vội bắt để bỏ vào lồng.

Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy đế nhỏ quát Thành Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói. Tri huyện bèn thưởng cho Thành, hiến dế cho tuần phủ. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ để kỉ lạ của các nơi dâng lên như hồ điệp (để bướm), đường lang (dế bọ ngựa), du lợi đạt (để đánh dầu), thanh ti đầu (để trán tơ xanh) thì con nào cũng thua. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ. Vua rất vừa lòng, ban chiếu thưởng cho tuần phủ ngựa hay vải quý. Tuần phủ không quên kẻ hiến đế, không bao lâu tâu xin thưởng cho tri huyện một cấp trác dị. Tri huyện mừng, cho Thành được miễn sai dịch, dặn học quan cho Thành đỗ tú tài. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khỏe mạnh chọi giỏi, nay mới sống lại. Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.

Dị Sử thị nói:

Họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, nhờ dế chọi mà giàu, áo cừu ngựa tốt vênh vang, lúc làm lí chính bị trách phạt chắc không nghĩ rằng mình được thế đâu. Trời đền đáp cho kẻ trưởng giả trọng hậu, tới nỗi tuần phủ tri huyện cũng được hưởng phúc ấm nhờ con dế. Thường nghe một người lên trời, gà chó cũng thành tiên, đúng lắm thay!

Đời Tuyên Đức nhà Minh, trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp. Vật này không phải sản ở Thiểm Tây nhưng Tri huyện Hoa Âm (tỉnh Thiểm Tây) muốn lấy lòng quan trên đem hiến một con, quan tỉnh cho chọi thử thấy hay bèn đòi dâng nộp thường xuyên. Tri huyện lại đòi lí trưởng phải cung ứng, bọn du thủ du thực ở chợ tìm bắt được con nào hay là nhốt vào lồng nuôi, coi như món hàng quý. Còn bọn lí dịch giảo hoạt lấy lệ dâng nộp dế để sách nhiễu dân chúng, mỗi con nộp lên đủ làm mấy nhà khuynh gia bại sản.

Trong huyện có Thành đã dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác nên bị bọn lí dịch gian giảo ép làm chức lí chính, tìm đủ cách chối từ mà không được, chưa đầy một năm thì chút ít gia sản đã cạn kiệt. Gặp kì nộp dế, Thành không dám sách nhiễu dân nhưng không có gì để bù, lo buồn chỉ muốn chết. Vợ nói “Chết thì có ích gì, chẳng bằng cứ tự tìm bắt, biết đâu cũng được một con”. Thành cho là phải. Bèn sáng đi tối về, cầm ống trúc lồng tơ bới đất lật đá khắp bãi hoang tường đổ, làm đủ cách mà không được, có bắt được hai ba con thì nhỏ yếu không đủ quy cách. Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử.

Lúc ấy trong thôn có bà đồng gù lưng tới, bởi toán như thần. Vợ Thành đem tiền lễ tới, thấy gái non bà già đứng chật cổng ngõ. Vào trong nhà thì có phỏng kín buông rèm, ngoài rèm bày hương án, người tới bởi thắp hương trong định rồi vái lạy, bà đồng đứng bên hướng lên không khẩn khứa, môi mấp máy không biết là nói gì, ai cũng kính cẩn đứng chờ. Lát sau trong rèm ném ra tờ giấy ghi rõ về việc người ấy muốn hỏi, không sai chút nào. Vợ Thành đặt tiền lễ lên án rồi thắp hương vái lạy như những người trước, khoảng ăn xong bữa cơm thì tấm rèm lay động, mảnh giấy ném ra. Giở ra xem không phải là chữ mà là bức vẽ, trong vẽ điện gác là chùa chiền, phía sau có hòn núi nhỏ đầy những tảng đá hình thù kỳ quái, gai góc tua tủa, có con để nằm dưới, bên cạnh có con ếch như sắp nhảy lên, mở xem không hiểu nhưng thấy có con dế ám hợp với việc mình cầu khấn nên cất vào người đem về đưa Thành xem.

Thành giở đi giở lại, nghĩ “Hay là bức vẽ này chỉ ta chỗ bắt để chăng?”. Nhìn kĩ quang cảnh trong đó thấy rất giống gác Đại Phật ở phía đông thôn, bèn gượng dậy chống gậy cầm bức vẽ tới sau chùa. Ở đó có ngôi mộ cổ, lần quanh thấy đá nằm ngổn ngang đúng như trong bức vẽ, bèn dò dẫm trong đám cây cỏ lắng nghe như tìm mũi kim hạt cải, bao nhiêu tâm trí sức mắt sức tại đều dốc ra hết nhưng không thấy gì cả. Đang còn tìm kiếm thì chợt có một con ếch nhảy ra, Thành càng ngạc nhiên vội đuổi theo. Con ếch nhảy vào đám cỏ, Thành theo vết vạch cỏ tìm thì thấy một con dế núp dưới gốc cây gai, vội chụp lấy thì nó chui vào kẽ đá, lấy cọng cỏ chọc vào nó vẫn nằm ì ra đó, đem ổng đổ nước vào mới chịu chui ra, dáng vẻ rất khoẻ mạnh, Thành đuổi theo về được. Nhìn kĩ thấy nó mình to đuôi đài, cổ xanh cánh vàng, mừng quá nhốt vào lồng mang nhà vui mừng, dù là được ngọc báu liên thành cũng không bằng. Rồi thả nó vào chậu nuôi, cho ăn chu đáo, gìn giữ nâng niu chờ tới kỉ hạn nộp quan.

Thành có đứa con trai chín tuổi rình lúc cha không có nhà lén mở chậu ra xem. Con để thừa cơ nhảy ra, nó đuổi theo mãi không được, đến khi chụp được vào tay thì để đã gãy cẳng vỡ bụng, lát sau thì chết. Đứa nhỏ sợ quá khóc lóc tới kể với mẹ, mẹ nó nghe thế mặt tái mét, hoảng sợ nói “Đồ oan nghiệt hết sống rồi, cha ngươi về sẽ nói chuyện với ngươi”, đứa nhỏ khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại như bị dội băng tuyết lên người, nổi giận đi tìm con nhưng không thấy đâu, kế) tìm thấy xác con dưới giếng, đổi giận thành thương gào khóc muốn tắt hơi. Vợ chồng quay mặt vào vách, nhà tranh không khói lửa nấu cơm, im lặng nhìn nhau không còn hy vọng gì nữa. Trời gần tối liệm xác con, tới bế lên thì thấy còn thoi thóp thở, cả mừng bế đặt lên giường, nửa đêm thì đứa nhỏ sống lại. Hai vợ chồng hơi nhẹ lòng, nhưng đứa nhỏ thần thái ngây ngốc như người gỗ, cứ ngủ mê mệt. Thành nhìn tới lồng để rỗng không thì đứt hơi nghẹn cổ, cũng không nghĩ gì tới con nữa, từ đêm đến sáng không sao chợp mắt, trời đã sáng rõ vẫn nằm đờ buồn bã.

Bỗng nghe tiếng dế gáy ngoài cửa, Thành giật mình vùng dậy nhìn thì dế vẫn còn sờ sờ, mừng rỡ chụp lấy. Con để kêu to một tiếng nhảy đi, Thành đuổi mau theo lấy bàn tay chụp lên thì thấy trống không như không có gì, giờ tay lên thì nó lại nhảy vọt lên. Thành đuổi mau theo tới góc tường thì không thấy đâu, ngơ ngẩn nhìn quanh thấy nó đậu trên vách, nhìn lại thấy vừa nhỏ vừa ngắn mà màu tía, không phải là con trước, cho là loại dở nhưng vẫn quanh quẩn nhìn ngó. Chợt con dễ từ vách nhảy xuống tay áo, Thành ngắm kĩ thấy hình dáng như con chó, cánh hoa mai, đầu vuông chân dài, có vẻ như đế hay, bèn mừng giữ lại. Định đem lên nộp quan nhưng thấp thỏm lo không vừa ý quan, bèn nghĩ cho chọi thử xem sao.

Trong thôn có gã thiếu niên hiểu sự nuôi một con dế, nói là loại “giải xác thanh” (để xanh vỏ cua), hàng ngày đem chọi với dế của bạn bè đều thắng, muốn giữ để kiếm lợi, ai trả giá cao cũng không chịu bán. Nhân qua thăm Thành thấy con dế Thành nuôi, y bịt miệng ôm bụng cười, đưa dế của mình ra, bỏ vào lồng chọi. Thành nhìn thấy nó to lớn khỏe mạnh càng thêm xấu hổ, không dám cho chọi thử. Thiếu niên cố ép, Thành nghĩ nuôi dế dỡ rốt lại cũng vô dụng, chi bằng cử cho chọi thử mua vui, bèn cho dế vào lồng chọi. Con dế nhỏ nằm mọp xuống không động đậy, ngơ ngơ như gà gỗ. Thiếu niên lại cười rộ, lấy lông heo chọc vào râu, nó vẫn nằm im, thiếu niên lại cười, lại chọc. Con dế nổi giận xông thẳng ra, lúc sắp đánh thì phùng cánh gáy lớn, rồi vểnh râu cong đuôi nhảy xổ tới cắn cổ địch thủ. Thiếu niên cả sợ vội gạt hai con để ra không cho chọi nữa, con để hiện ngang gáy vang như báo cho chủ biết nó đã thắng trận. Thành mừng quá, đang cùng nhau ngắm nghía chợt có con gà sấn sổ xông tới mổ luôn một nhát vào dế. Thành kinh hãi bật dậy la hoảng, may là gà mổ không trúng, con để nhảy ra hơn một thước.

Gà sấn theo mổ lia lịa, con dế đã nằm dưới mỏng gà, Thành thảng thốt không biết làm sao cứu, dẫm chân tái mặt. Nhưng gà lại rướn cổ lăn ra, tới gần nhìn thì thấy để đã trên mào gà, cắn chặt không buông. Thành càng kinh ngạc mừng rỡ, vội bắt để bỏ vào lồng.

Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy đế nhỏ quát Thành Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói. Tri huyện bèn thưởng cho Thành, hiến dế cho tuần phủ. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ để kỉ lạ của các nơi dâng lên như hồ điệp (để bướm), đường lang (dế bọ ngựa), du lợi đạt (để đánh dầu), thanh ti đầu (để trán tơ xanh) thì con nào cũng thua. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ. Vua rất vừa lòng, ban chiếu thưởng cho tuần phủ ngựa hay vải quý. Tuần phủ không quên kẻ hiến đế, không bao lâu tâu xin thưởng cho tri huyện một cấp trác dị. Tri huyện mừng, cho Thành được miễn sai dịch, dặn học quan cho Thành đỗ tú tài. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khỏe mạnh chọi giỏi, nay mới sống lại. Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.

V. Dàn ý phân tích Dế chọi

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

2. Thân bài:

- Hoàn cảnh sáng tác, nhan đề, tóm tắt tác phẩm.

- Đoạn 1: từ đầu - “khuynh gia bại sản”: Nguyên do và thực tế đưa dế chọi trở thành thú vui triều đình và là cái khổ của người dân phải chịu (mở ra khung cảnh và sự tình).

- Đoạn 2: tiếp đến - “việc tự tử”: Hoàn cảnh của Thành - nhân vật chính (thắt nút).

- Đoạn 3: tiếp - “chờ đến kì hạn nộp quan”: Giải quyết vấn đề tìm dế của gia đình Thành: nhờ sự trợ giúp của bà bói toán mà vợ Thành nghe ngóng được (tìm cách giải quyết).

- Đoạn 4: tiếp theo - “nằm đờ buồn bã”: Bi kịch tiếp tục xảy đến với gia đình Thành: từ con trai trở nên đờ đẫn đến con dế nuôi chết phải đối mặt với những hình phạt đáng sợ từ triều đình (cao trào).

- Đoạn 5: tiếp - “vội bắt dế bỏ vào lồng”: Hóa giải bi kịch trong gia đình Thành (mở nút).

- Đoạn cuối: phần còn lại: Sự thay đổi của gia đình Thành: giàu lên nhờ nuôi được dế tốt (con trai Tùng), giải thích về hiện tượng của con trai Thành (đoạn kết có hậu).

- Câu nói của Dị Sử thị ở cuối tác phẩm.

-> Giá trị nghệ thuật: thông qua câu chuyện ngắn kết hợp với những chi tiết li kì, kì ảo và ngôn từ dễ hiểu.

-> Giá trị nội dung: vẽ nên bức tranh hiện thực thời đầu Mãn Thanh để thỏa sự vui thú của triều đình mà làm khổ dân chúng. Cũng từ đó mà bộc lộ bộ mặt tham quan của triều đình. Nhờ có một con dế cũng có thể đổi đời vì làm vừa lòng được bề trên…

3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.

1 149 27/11/2024