Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ Văn (phần 5)
-
174 lượt thi
-
100 câu hỏi
-
0 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
27/01/2025Phong cảnh làng quê Việt Nam một thời được khắc họa rõ nét nhất qua những hình ảnh nào trong bài thơ Bến đò trưa hè?
Phong cảnh làng quê Việt Nam một thời được khắc họa rõ nét nhất qua những hình ảnh: đa buông rễ ngâm mình, quán nước, tiếng gà trưa, dắt ngựa chờ dong tiếng nhạc đồng.
Câu 2:
27/01/2025Cảnh thiên nhiên nơi bến đò trưa hè gợi cho em ấn tượng gì?
Cảnh thiên nhiên nơi bến đò trưa hè gợi về một khung cảnh vô cùng quen thuộc của làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Đó là một khung cảnh chan chứa sự êm đềm, yên bình đã khắc sâu vào tâm trí của mỗi người con đất Việt.
Câu 3:
27/01/2025Em có nhận xét gì về mối quan hệ giữa đặc điểm của bức tranh thiên nhiên và nhịp sống của con người trong bài thơ Bến đò trưa hè?
Trong bài thơ có thể thấy, bức tranh thiên nhiên hòa quyện cùng với nhịp sống của con người. Thời điểm trưa hè, con người nghỉ ngơi vì thế thiên nhiên cũng trở nên vắng lặng hòa cùng cái yên tĩnh của cuộc sống con người.
Câu 4:
27/01/2025Tình cảm của nhà thơ đối với thiên nhiên và đời sống con người được thể hiện như thế nào trong bài thơ Bến đò trưa hè?
Tình cảm yêu quý đối với thiên nhiên và cuộc sống con người nơi làng quê của nhà thơ được thể hiện gián tiếp thông qua việc miêu tả một cách tinh tế, cụ thể từng hình ảnh của thiên nhiên cũng như hoạt động của con người nơi đây. Phải có một tình yêu to lớn, da diết với làng quê Việt Nam, tác giả mới có thể có những quan sát kĩ càng và viết nên những dòng thơ chân tình như vậy.
Câu 5:
27/01/2025Viết đoạn văn (khoảng 10 - 15 câu) trình bày cảm nghĩ của em về bài thơ Bến đò trưa hè ở phần Đọc.
* Đoạn văn tham khảo:
Anh Thơ là một trong những nữ thi sĩ nổi bật của diễn đàn thơ ca Việt Nam. Các tác phẩm của bà thường viết về làng quê với những cảnh vật bình dị, quen thuộc và “Bến đò trưa hè” cũng là một bài thơ như thế. Chỉ với ba khổ thơ ngắn gọn, nữ thi sĩ đã vẽ nên bức tranh làng quê yên bình giữa thời điểm trưa hè với những cảm nhận tinh tế. Quang cảnh bến đò được miêu tả từ những chi tiết nhỏ như mây, trời, dòng sông, gốc đa, ngọn gió. Không gian được mở rộng bằng hình ảnh thiên nhiên có chút uể oải, vắng lắng giữa trưa hè. Sang đến khổ hai, con người bắt đầu xuất hiện với hình ảnh ba người đi chợ về ghé qua hàng nước ngồi xen kẽ lẫn trong đó là tiếng gà trưa – một âm thanh không thể thiếu của vùng quê Bắc Bộ. Cuối cùng, tác giả chuyển điểm nhìn ra phía bờ đê với hình ảnh ông già dắt ngựa xuống huyện và khung cảnh vắng lặng nơi bến đò. Trong bức tranh làng quê ấy, thiên nhiên và con người như hòa quyện vào nhau, giữa trưa hè nắng nóng, con người nghỉ ngơi khiến cho cảnh vật cũng trở nên tĩnh lặng. Ngôn ngữ bình dị, hình ảnh quen thuộc cũng lời thơ nhẹ nhàng, tất cả đã tạo nên một bức tranh thôn quê yên bình đến lạ. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương da diết của tác giả qua từng dòng thơ, đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương đã từng nhận xét: “Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình.”
Câu 6:
27/01/2025Tiến hành một cuộc phỏng vấn ngắn về một trong những vấn đề sau:
- Khi xa quê hương, điều gì sẽ trở thành hành trang không thể thiếu trong tâm hồn mỗi con người?
- Trở thành công dân toàn cầu trong một thế giới hội nhập và đầy biến động có làm chúng ta lãng quên truyền thống và phai nhạt bản sắc dân tộc?
- Thơ có còn sức thu hút với bạn đọc trong thời đại của công nghệ số và các phương tiện nghe - nhìn
* Bài phỏng vấn tham khảo:
- Vấn đề phỏng vấn: Khi xa quê hương, điều gì sẽ trở thành hành trang không thể thiếu trong tâm hồn mỗi con người?
Người phỏng vấn |
Ai sinh ra trên đời chẳng có một quê hương, vậy trong bạn quê hương là gì? |
Khách mời |
Với tôi, quê hương là nơi đầu tiên tôi cất tiếng khóc chào đời, là nơi tôi được nuôi lớn với tình yêu thương của cha mẹ, bạn bè và thầy cô. Quê hương chính là cội nguồn của mỗi con người. |
Người phỏng vấn |
Theo bạn, quê hương có phải một yếu tố quan trọng trong cuộc sống của mỗi người không? |
Khách mời |
Tôi nghĩ, quê hương thực sự quan trọng với con người. Có thể nói quê hương chính là gốc rễ của chúng ta. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng và lớn lao. Có biết yêu quê hương chúng ta mới biết sống đúng, sống có ý nghĩa, từ đó có những động lực đúng đắn để phấn đấu hoàn thiện bản thân, trở thành người có ích cho xã hội. |
Người phỏng vấn |
Vậy với bạn, hành trang không thể thiếu trong tâm hồn mỗi con người khi rời xa quê hương là gì? |
Khách mời |
Tôi nghĩ hành trang quan trọng nhất khi rời xa quê hương chính là lòng nhung nhớ quê nhà, một lòng luôn hướng về quê cha đất tổ. Điều này sẽ trở thành điểm tựa cũng như động lực để chúng ta cố gắng học tập, làm việc nơi đất khách quê người. |
Người phỏng vấn |
Cảm ơn bạn đã tham gia cuộc phỏng vấn ngày hôm nay! |
Câu 7:
27/01/2025Xác định loại văn bản của bài đọc Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình.
B. Văn bản nghị luận
Câu 8:
27/01/2025Vấn đề chính mà bài phát biểu Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình đề cập là gì?
D. Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình
Câu 9:
27/01/2025Người trình bày vấn đề xác định tư cách, vị thế nào để nêu ý kiến trong bài đọc Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình?
B. Một người đại diện cho tất cả những người mần được bảo vệ nhân quyền.
Câu 10:
27/01/2025Mục đích chính của người nói được thể hiện trong văn bản Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình là gì?
A. Nêu rõ trước Liên hợp quốc vấn đề vi phạm nhân quyền đối với phụ nữ và trẻ em và sự cần thiết phải hành động để bảo vệ những quyền đó
Câu 11:
27/01/2025Xác định biện pháp tu từ thế hiện ở các từ in đậm trong câu: "Khi nhìn thấy bóng tối, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của ánh sáng.".
C. Nhân hóa
Câu 12:
27/01/2025Đối tượng mà văn bản nghị luận Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình hướng tới là những người hoặc tổ chức nào?
Đối tượng mà văn bản nghị luận hướng tới là Liên hợp quốc và chính phủ các quốc gia trên thế giới.
Câu 13:
27/01/2025Người trình bày đã dùng những yếu tố nào để nêu thông tin khách quan, bày tỏ ý kiến và tác động tới đối tượng cần thuyết phục trong bài Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình?
Tác giả đã nêu dẫn chứng không chỉ của bản thân mà còn của rất nhiều phụ nữ và trẻ em trên toàn thể giới để nêu thông tin khách quan, bày tỏ ý kiến và tác động tới đối tượng cần thuyết phục.
Câu 14:
27/01/2025Vấn đề cần trình bày được triển khai trong các phần của văn bản Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình như thế nào? Nêu rõ mục đích và ý chính của từng phần.
- Vấn đề cần trình bày được triển khai qua 4 phần với trình tự hợp lí và mạch lạc
- Mục đích, ý chính từng phần:
+ Phần 1: Đề cập đến vấn đề cần bàn luận – quyền con người.
+ Phần 2: Nhân vật tôi chứng minh vấn đề còn tồn tại từ chính bản thân mình.
+ Phần 3: Dẫn chứng cụ thể ở mọi nơi trên thế giới về việc quyền con người không được đảm bảo.
+ Phần 4: Lời kêu gọi tất cả mọi người cùng các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới cần lên tiếng và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em.
Câu 15:
27/01/2025Trong phần (3) của văn bản Quyền được học tập và bảo vệ của phụ nữ và trẻ em trong hòa bình, tác giả cho rằng: “Khi nhìn thấy bóng tối, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của ánh sáng.”. Theo em, vấn đề được nêu như vậy là đúng hay sai? Vì sao?
Theo em, vấn đề được nêu là hoàn toàn chính xác bởi, con người sẽ không nhận ra được tầm quan trọng của ánh sáng khi luôn được sống trong ánh nắng mặt trời, trong ánh điện sáng lòa mỗi đêm. Chỉ khi trải qua bóng tối, phải sống và sinh hoạt nơi không có đèn điện và mặt trời, con người mới biết ánh sáng quan trọng thế nào bởi không có nó, con người sẽ rất khó khăn để sinh hoạt và sống cuộc sống bình thường.
Câu 16:
27/01/2025Lựa chọn một trong những vấn đề sau để viết bài văn nghị luận xã hội:
- Việc học tập có thực sự cần thiết và có thể đem lại những lợi ích gì cho cuộc sống của mỗi trẻ em trên thế giới?
- Vì sao mọi trẻ em trên thế giới cần được bảo vệ và học tập trong hòa bình?
- Vấn đề nghị luận: Việc học tập có thực sự cần thiết và có thể đem lại những lợi ích gì cho cuộc sống của mỗi trẻ em trên thế giới?
* Bài viết tham khảo:
N. Mandela đã từng nói: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới.” Quả đúng là như vậy, giáo dục cũng như việc học tập chính là chìa khóa để biến thế giới này trở nên tốt đẹp hơn vì thế việc học là thực sự cần thiết và có vai trò thiết yêu đối với con người, đặc biệt là trẻ em trên toàn thế giới.
Trước hết ta cần hiểu thế nào là học tập? Học tập chính là quá trình chúng ta không ngừng tích lũy kiến thức, kĩ năng của nhân loại. Đây là một cuộc hành trình dài, nó bắt đầu từ lúc con người mới sinh ra cho đến khi chết đi. Học ở đây không chỉ là những tri thức về khoa học, công nghệ mà còn là cả những kĩ năng sống, cách đối nhân xử thế để ngày một hoàn thiện bản thân. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân loại đã tích lũy được một kho tàng tri thức khổng lồ. Vì thế, chúng ta cần phải cố gắng tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, làm giàu thêm vốn tri thức và vốn sống của bản thân để không bị tụt hậu với thế giới đang biến đổi từng giây.
Có thể khẳng định rằng, học tập có ý nghĩa lớn lao trong quá trình tiến hóa của loài người, đặc biệt là với trẻ em – những mầm non tương lai của thế giới. Thứ nhất, học tập giúp trẻ em được rèn luyện tư duy, tăng cường khả năng xử lí và giải quyết vấn đề trong mọi tình huống. Điều này giúp các em trở nên độc lập và có đủ tự tin để đối diện với những thử thách trong cuộc sống. Thứ hai, học tập sẽ giúp trẻ em tích lũy thêm nhiều tri thức, khơi gợi sự tò mò, sáng tạo và giúp các em khám phá thêm nhiều điều lí thú trong cuộc sống. Quá trình này giúp não bộ của trẻ nhỏ được kích thích từ đó phát triển trí thông minh và tài năng tiềm ẩn bên trong của các em. Thứ ba, học tập chính là con đường tốt nhất và duy nhất giúp các em trở thành một công dân tốt, một người có ích cho xã hội. Khi đó, xã hội sẽ ngày càng phát triển nhờ vào thế hệ trẻ được học tập và giáo dục một cách tốt nhất.
Thực tế cho thấy, học tập chính là điều mà con người luôn hướng tới. Bởi vậy, hiện nay rất nhiều gia đình luôn cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để cho con em mình có một môi trường giáo dục hiệu quả. Họ cố gắng vạch ra những kế hoạch rõ ràng, định hướng cho trẻ nhỏ từ sớm để các em có thể phát triển bản thân, tìm được lĩnh vực mình yêu thích và cố gắng hết mình để theo đuổi mục tiêu. Tuy nhiên hiện tại, vẫn còn rất nhiều trẻ em ở trên toàn thế giới không đủ điều kiện để được học tập. Có những bạn vì ở những vùng xa xôi hẻo lánh, gia cảnh khó khăn mà không thể đến trường. Có những bạn khác lại vì phải sống trong cảnh chiến tranh, bạo loạn, hàng ngày phải sống trong lo lắng, sợ hãi. Các em không những không được đến trường mà còn phải đối mặt với lằn ranh sống chết, với cơm ăn áo mặc.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập đối với mỗi con người, đặc biệt là trẻ em trên toàn thế giới. Hi vọng rằng, chính phủ của các quốc gia cùng tất cả mọi người sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm hơn nữa, đề ra những chính sách và biện pháp thiết thực để có thể giúp mọi trẻ em trên thế giới này đều có cơ hội được học tập trong môi trường tốt nhất vì “học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc” (Ngạn ngữ Gruzia).
Câu 17:
27/01/2025Thảo luận với các bạn trong nhóm học tập về một trong những vấn đề sau:
- Giáo dục có thể góp phần làm thay đổi cuộc sống của mỗi con người như thế nào?
- Vì sao mọi trẻ em trên thế giới cần được bảo vệ và học tập trong hòa bình?
* Bài nói tham khảo:
Xin chào mọi người, mình tên là Nguyễn Hoàng Dương, học sinh lớp 9A2 trường THCS Nam Định. Sau đây mình xin được trình bày bài nói của mình về vấn đề: Giáo dục có thể góp phần làm thay đổi cuộc sống của mỗi con người như thế nào?
Hiến pháp của nước ta năm 1992 đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.” Điều này cho thấy tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đều cho rằng giáo dục chính là vấn đề cốt lõi trong sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và nhân loại trên toàn thế giới nói riêng. Vì thế, giáo dục đóng vai trò rất quan trọng, góp phần làm thay đổi cuộc sống của mỗi con người.
Giáo dục là nền tảng hình thành con người. Nhờ có giáo dục, con người tiếp thu được những tinh hoa tri thức của nhân loại, mở rộng vốn hiểu biết nhằm khám phá thế giới và phát triển bản thân. Không chỉ vậy, giáo dục còn làm cho con người biết đối nhân xử thế, biết phân biệt phải trái đúng sai, làm cho con người trở nên “người” hơn. Hơn hết, giáo dục còn là chìa khoá làm nên sự thay đổi cho cuộc sống con người. Nhờ có giáo dục, con người mới có thể phát minh ra vô vàn đồ vật, tạo ra bước ngoặt cho đời sống của toàn nhân loại. Ta có thể kể đến những phát minh vĩ đại như điện, bóng đèn, điện thoại thông minh, máy vi tính,… Cũng nhờ có giáo dục, con người trên toàn thế giới có điều kiện tiếp xúc và giao lưu với nhau trên mọi lĩnh vực, cả về văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, chính trị,….
Thực tế của chính đất nước ta cho thấy, giáo dụng chính là yếu tố quyết định thay đổi vận mệnh của dân tộc. Với cương vị là người đứng đầu Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đói nghèo cũng là một thứ giặc nguy hiểm như giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì thế, sau Cách mạng tháng Tám, Người đã thành lập nha Bình dân học vụ, kêu gọi toàn dân cùng xoá nạn mù chữ. Bác cho rằng “một dân tộc dốt là dân tộc yếu” vì thế học tập là công việc bắt buộc. Kết quả là chỉ sau một năm hoạt động Bình dân học vụ (08/09/1945 đến 08/09/1946) đã có 2.520.678 người thoát nạn mù chữ (dân số lúc đó là 22 triệu người). Có thể thấy, lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay. Các thế hệ của dân tộc Việt Nam vẫn đang từng ngày từng giờ cố gắng học tập, lĩnh hội tri thức nhằm góp một phần công sức của bản thân để xây dựng dân tộc ta giàu mạnh. Bởi thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú mới có thể khẳng định rằng: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Tất cả những minh chứng trên cho thấy, giáo dục thực sự có thể thay đổi cuộc sống của mỗi con người, đúng như N. Mandela đã khẳng định: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới.”
Vừa rồi là phần trình bày của mình, cảm ơn thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Hi vọng nhận được sự góp ý của mọi người để bài nói của mình được hoàn thiện hơn!
Câu 18:
27/01/2025Sách Ngữ văn 9 hướng dẫn các em đọc hiểu những thể loại văn học nào? So với sách Ngữ Văn các lớp 6,7 và 8, sách Ngữ Văn 9 có thêm thể loại nào mới? Nội dung hướng dẫn cách đọc các thể loại có điểm gì chung?
- Sách Ngữ văn 9 hướng dẫn đọc hiểu những thể loại văn học:
+ Thơ và thơ song thất lục bát
+ Truyện thơ Nôm
+ Văn bản thông tin
+ Truyện ngắn
+ …
- So với sách Ngữ Văn các lớp 6,7 và 8, sách Ngữ Văn 9 có thêm thể loại mới là: Truyện thơ Nôm.
- Điểm chung của nội dung hướng dẫn cách đọc: yêu cầu tìm hiểu về đặc điểm của thể loại văn bản trước khi đọc văn bản.
Câu 19:
27/01/2025Văn bản nghị luận được học ở sách Ngữ văn 9 gồm những văn bản nào? Cần lưu ý gì về cách đọc?
- Văn bản nghị luận trong sách Ngữ văn 9:
+ Bàn về đọc sách (Chu Quang Tiềm)
+ Khoa học muôn năm! ( Go-rơ-ki)
+ Mục đích của việc học (Nguyễn Cảnh Toàn)
+ Nói thêm về “Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Đinh Chủ)
+ Phân tích bài "Khóc Dương Khuê (Hoàng Hữu Yên)
+ Về truyện ngắn "Làng” của Kim Lân (Nguyễn Văn Long)
+ Hình ảnh con thuyền, người dân chài trong bài thơ "Quê hương" (Lê Huy Bắc).
- Lưu ý về cách đọc: chú ý đến đề tài, ý nghĩa của vấn đề được bài viết nêu lên và các tác giả nêu luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, độc đáo…
Câu 20:
27/01/2025Nêu nhan đề của các văn bản thông tin ở sách Ngữ văn 9 và những lưu ý về cách đọc.
- Nhan đề văn bản thông tin:
+ Vịnh Hạ Long: một kì quan thiên nhiên độc đảo và tuyệt mĩ
+ Khám phá kì quan thế giới: thác I-goa-du (Iguazu)
+ Vườn quốc gia Tràm Chim – Tam Nông
+ Cao nguyên đá Đồng Văn
+ Quần thể di tích Cố đô Huế
+ Cùng nhà văn Tô Hoài ngắm nhìn phố phường Hà Nội.
+ Đề tháp vẫn ngủ yên
- Lưu ý về cách đọc: chú ý nhận biết cách triển khai thông tin, tác dụg của các yếu tố hình thức, bố cục, mạch lạc của văn bản, cách trình bày dữ liệu, thông tin; đề tài, cách đặt nhan đề, thái độ, quan điểm người viết.
Câu 21:
27/01/2025Những nội dung lớn của phần tiếng Việt được học trong sách Ngữ văn 9 là gì?
Những nội dung lớn của phần tiếng Việt được học trong sách Ngữ văn 9:
- Tìm hiểu về chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
- Điển cố, điển tích
- Nghĩa và cách dùng tên viết tắt của các tổ chức quốc tế
- Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp
- Câu đơn, câu ghép
- Biến đổi và mở rộng cấu trúc câu
- Biện pháp tu từ chơi chữ, điệp thanh, điệp vần
- Câu rút gọn, câu đặc biệt
- Từ mới, nghĩa mới
- Lưu ý khi trích dẫn tài liệu
Câu 22:
27/01/2025Sách Ngữ văn 9 rèn luyện cho các em viết những kiểu văn bản nào? Xác định yêu cầu cần đạt đối với mỗi kiểu văn bản.
Kiểu văn bản |
Yêu cầu cần đạt |
Tự sự |
Viết được một truyện kể sáng tạo, có thể mô phỏng một truyện đã đọc, sử dụng các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong truyện. |
Biểu cảm |
Bước đầu biết làm một bài thơ tám chữ. Viết được đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tám chữ. |
Nghị luận |
- Viết được văn bản nghị luận về một vấn đề cần giải quyết, trình bày được giải pháp khả thi và có sức thuyết phục. - Viết được văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn học: phân tích nội dung chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm và hiệu quả thẩm mĩ của nó. |
Thuyết minh |
Viết được văn bản thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử, có sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh minh họa. |
Nhật dụng |
Viết được văn bản quảng cáo hoặc tờ rơi về một sản phẩm hay một hoạt động, sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ. |
Câu 23:
27/01/2025Các yêu cầu cần đạt về việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe trong sách Ngữ văn 9 là gì?
Kỹ năng |
Yêu cầu cần đạt |
Nói |
- Kể được một câu chuyện tưởng tượng (có bối cảnh, nhân vật, cốt truyện …) - Biết trình bày ý kiến về một sự việc có tính thời sự. - Thuyết minh được về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử, có sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh minh họa. |
Nghe |
Nghe và nhận biết được tính thuyết phục của một ý kiến; chỉ ra được những hạn chế (nếu có). |
Nói nghe tương tác |
- Biết thảo luận về một vấn đề đáng quan tâm trong đời sống phù hợp với lứa tuổi và những điều cần tránh trong quảng cáo. - Thực hiện được một cuộc phỏng vấn ngắn, xác định được mục đích, nội dung và cách thức phỏng vấn. |
Câu 24:
27/01/2025Mỗi bài học trong sách Ngữ văn 9 có những phần chính nào? Chỉ ra những nhiệm vụ mà các em cần làm ở nhà và ở lớp. Tại sao cần biết cấu trúc sách trước khi học?
- Mỗi bài học trong sách Ngữ văn 9 có những phần chính: Đọc hiểu văn bản, thực hành tiếng việt, viết, nói và nghe, tự đánh giá và hướng dẫn tự học.
- Nhiệm vụ của học sinh:
+ Đọc trước khi học để có định hướng đúng.
+ Đọc sau khi học để tự đánh giá.
+ Đọc ở nhà và vận dụng khi học trên lớp.
+ Tìm hiểu thông tin về bối cảnh, tác giả, tác phẩm...
+ Đọc trực tiếp văn bản và chủ ý các hướng dẫn đọc bên phải, xem chú thích cuối trang.
+ Trả lời câu hỏi đọc hiểu. Đọc kiến thức tiếng Việt ở phần Kiến thức ngữ văn và làm bài tập thực hành tiếng Việt.
+ Đọc định hướng viết.
+ Làm các bài tập thực hành viết.
+ Đọc định hướng nói và nghe.
+ Làm bài tập thực hành nói và nghe.
+ Tự đánh giá kết quả đọc hiểu, viết thông qua đọc và trả lời các câu hỏi về một văn bản tương tự đã học.
+ Đọc mở rộng theo gợi ý.
+ Thu thập tư liệu liên quan đến bài học.
- Cần biết cấu trúc sách trước khi học vì:
+ Để nắm rõ mình đang học những kiến thức, gồm những phần gì, nhiệm vụ và yêu cầu của mỗi phần. Từ đó, em sẽ chủ động chuẩn bị trước ở nhà để lên lớp thực hành một cách tốt hơn.
Câu 25:
27/01/2025- Xem lại các kiến thức về thơ Đường luật đã học ở sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập hai để vận dụng vào đọc hiểu văn bản này.
- Đọc trước văn bản Sông núi nước Nam và tìm hiểu bối cảnh ra đời của tác phẩm. Bài thơ Sông núi nước Nam được coi là “bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên” của dân tộc.
- Đọc nội dung giới thiệu để hiểu thêm bài thơ.
- Bảng tổng hợp kiến thức về thơ Đường luật đã học ở sách giáo khoa Ngữ văn 8:
Đặc điểm |
Biểu hiện |
1. Nguồn gốc |
Thời đời Đường, Trung Quốc |
2. Thể thơ |
Thất ngôn và ngũ ngôn |
3. Dạng thơ |
Bát cú và tứ tuyệt |
4. Bố cục |
- Bát cú: Đề - thực – luận – kết - Tứ tuyệt: Khởi – thừa – chuyển – hợp |
5. Niêm |
Chữ thứ hai của các cặp câu: 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 trong thơ bát cú và 1-4, 2-3 trong thơ tứ tuyệt phải cùng thanh (bằng hoặc trắc) với nhau |
6. Luật |
Chữ thứ hai của câu thứ nhất trong bài thơ mang thanh nào thì bài thơ được viết theo luật đó |
7. Vần |
Gieo vần ở chữ cuối cùng của các câu thơ 1,2,4,6,8 trong bài thơ bát cú và 1,2,4 trong bài thơ tứ tuyệt |
8. Nhịp |
4/3 hoặc 2/3 |
9. Đối |
Phần thực và luận trong bài thơ bát cú đối về: âm, từ loại, nghĩa |
- Bối cảnh ra đời bài thơ Sông núi nước Nam được coi là “bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên” của dân tộc:
Các nhà nghiên cứu cho rằng bài thơ được gọi là bài thơ thần là do truyền thuyết kể lại chuyện Lê Đại Hành và Lý Thường Kiệt cho người nấp vào đền thờ hai vị anh hùng dân tộc, đồng thời là hai vị thâng sông Như Nguyệt là Trương Hống và Trương Hát để giả giọng thần đọc bài thơ Nam quốc sơn hà. Việc sáng tác bài thơ nhưng giấu tên tác giả, gán cho các thần linh là để tạo sự linh thiêng nhằm mục đích khích lên tinh thần tướng sĩ quyết tâm bảo vệ Tổ quốc trước sự xâm lược của kẻ thù. Bài thơ trở nên linh thiêng và được coi như bài thơ của thần linh đất Việt hiển hiện cùng con cháu đánh giặc, giữ nước.
Câu 26:
03/02/2025Chú ý yếu tố khẳng định chủ quyền trong một “bản Tuyên ngôn Độc lập”.
Bài thơ sử dụng những từ ngữ chắc chắn, mạnh mẽ cùng giọng điệu cứng rắn, kiên quyết như một chân lý về chủ quyền quốc gia nước Nam. Minh chứng là qua các từ ngữ như “tiệt nhiên, định phận, thiên thư” nhằm xác nhận quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đí đã được trời đất quy định, chứng giám. Qủa thực, chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế!
Câu 27:
03/02/2025Qua các tài liệu đã tìm hiểu, hãy trình bày hoàn cảnh xuất hiện bài Sông núi nước Nam và cho biết: Vì sao bài thơ được gọi là Thơ thần?
Hoàn cảnh xuất hiện trong bài Sông núi nước Nam là:
- Lê Đại Hành năm 981 và Lý Thường Kiệt năm 1076 đã sử dụng bài thơ trong các cuộc khánh chiến chống quân Tống xâm lược trên phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu).
- Bài thơ vốn không có nhan đề, sau này một số sách ghi tên tác giả là Lý Thường Kiệt và đặt tên bài thơ là Nam quốc sơn hà.
- Bài thơ được gọi là Thơ thần có lẽ được sáng tác bởi một trong các trí thức nổi tiếng thời đó, giấu tên tác giả. Bài thơ được Lê Đại Hành và Lý Thường Kiệt cho người nấp vào đền thờ hai vị thần sông Như Nguyệt là Trương Hống và Trương Hát giả giọng thần mà đọc. Bài thơ hùng hồn giữa đêm vắng, âm vang trên dòng sông linh thiêng đã khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ Đại Việt khiến quân thù run sợ mà tan vỡ.
Câu 28:
03/02/2025Xác định đặc điểm thể loại của bài thơ Sông núi nước Nam (số dòng, số chữ, niêm, luật và cách hiệp vần ở bản phiên âm)
Đặc điểm thể loại của bài thơ:
Đặc trưng thể loại |
Biểu hiện trong văn bản |
1. Số dòng, số chữ |
Gồm 4 dòng, mỗi dòng 7 chữ |
2. Luật |
Tiếng thứ hai của câu thơ thứ nhất là “quốc” mang thanh trắc => bài thơ thuộc luật trắc |
3. Vần |
Gieo vần ở tiếng cuối của các câu 1,2,4: cư - thư - hư |
4. Nhịp |
4/3 |
5. Niêm |
- Tiếng thứ 2 của dòng 1,4 cùng mang vần trắc: quốc – đẳng - Tiếng thứ 2 của dòng 2,3 cùng mang vần bằng: nhiên - hà |
6. Đối |
Tiểu đối trong từng câu thơ: Nam quốc sơn hà/ Nam đế cư |
=> Là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật viết bằng chữ Hán mẫu mực |
Câu 29:
03/02/2025Hai dòng thơ đầu trong Sông núi nước Nam khẳng định điều gì? Các từ ngữ “Nam quốc”, “Nam đế” “tiệt nhiên”, “định phận”. “thiên thư” đóng vai trò gì trong việc khẳng định điều đó?
Phần |
Từ ngữ |
Nhận xét |
Hai câu đầu |
- Nam quốc, Nam đế: lãnh thổ nước Nam đã có chủ và là một quốc gia độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ quốc gia nào khác. - tiệt nhiên, định phận, thiên thư: xác nhận quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đó đã được trời, đất quy định, chứng giám. |
Qua việc sử dụng những từ ngữ đanh thép kết hợp với giọng điệu hùng hồn đã khẳng định rõ ràng, chắc chắn như một chân lý về chủ quyền quốc gia nước Nam. |
Câu 30:
03/02/2025Phân tích hai dòng thơ cuối trong Sông núi nước Nam để làm rõ nội dung (tư tưởng và tình cảm) mà tác giả muốn thể hiện.
Phiên âm |
Dịch thơ |
"Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" |
“Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” |
=> Phân tích:
Phần |
Từ ngữ, hình ảnh |
Nội dung (tư tưởng và tình cảm) |
Hai câu cuối |
- nghịch lỗ (kẻ ngạo ngược): chỉ quân xâm lược. - Như hà (cớ sao): truy xét tội của kẻ xâm lược. - lai xâm phạm: dám xâm phạm vào đất nước đã có chủ. |
Qua việc sử dụng những từ ngữ chắc nịch, mạnh mẽ cùng giọng điệu cứng rắn, kiên quyết, hai câu thơ là lời cảnh cáo, răn đe kẻ thù cùng quyết tâm bảo vệ độc lập và niềm tin tất thắng của nhân dân ta. Đồng thời, thể hiện rõ thái độ giận dữ, niềm uất hận đối với kẻ thù ngang tàng đi ngược lại chân lí, phạm phải ý trời. |
Câu 31:
03/02/2025Theo em, hai dòng thơ đầu và hai dòng thơ cuối trong Sông núi nước Nam có mối liên hệ như thế nào? Vì sao bài thơ được coi là “bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên” của nước ta?
- Mối quan hệ giữa hai câu đầu và hai câu cuối: Hai dòng đầu là cơ sở, nền tảng mang tính pháp lý, khách quan để khẳng định sức mạnh, niềm tin được thể hiện ở hai dòng sau.
=> Mối quan hệ nhân quả.
- Bài thơ được coi là “bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên” của nước ta vì:
+ Bài thơ khẳng định vấn đề về lãnh thổ, chủ quyền, độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Bài thơ thể hiện được tính thần lực, tự tôn dân tộc mạnh mẽ.
+ Bài thơ là lời khẳng định tuyên bố đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm lăng vào lãnh thổ ấy, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc anh hùng.
Câu 32:
03/02/2025Bài Sông núi nước Nam gợi lên trong em những tình cảm, cảm xúc gì? Theo em, nội dung tư tưởng bài thơ có ý nghĩa như thế nào với thế hệ trẻ ngày nay?
- Bài Sông núi nước Nam gợi lên trong em những tình cảm, cảm xúc mãnh liệt về niềm tin tự hào dân tộc, về truyền thống yêu nước, giữ nước của cha ông ta từ hàng nghìn năm trước. Bài thơ cũng khiến chúng ta thêm yêu quý, tự hào về sự kiêu hãnh, lòng tự tin của cha ông ta về chủ quyền quốc gia, về truyền thống dựng nước bà giữ nước của dân tộc.
- Ý nghĩa của nội dung tư tưởng bài thơ với thế hệ trẻ ngày nay:
+ Khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bất khả xâm phạm của đất nước Việt Nam phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc.
+ Cho chúng ta lòng tự hào, tự tin vào truyền thống dựng nước, giữ nước của cha ông ta từ hàng nghìn năm trước.
+ Nhắc nhở chúng ra nhiệm vụ bảo vệ đất nước và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Câu 33:
03/02/2025– Xem lại phần Kiến thức ngữ văn để vận dụng vào đọc hiểu văn bản Khóc Dương Khuê.
– Khi đọc hiểu văn bản thơ song thất lục bát, các em cần chú ý:
+ Bài thơ bắt đầu bằng câu song thất hay lục bát?
+ Xác định chủ đề, bố cục của bài thơ và mối quan hệ giữa các câu thơ trong bài.
+ Tìm hiểu các biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng. Chú ý nhịp điệu bài thơ và việc sử dụng từ ngữ để diễn tả tình cảm.
- Đọc trước văn bản Khóc Dương Khuê, tìm hiểu thêm thông tin về nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà thơ Dương Khuê (1839-1902).
- Khi đọc hiểu văn bản thơ song thất lục bát, các em cần chú ý:
+ Số tiếng trong mỗi câu thơ: Một bài thơ song thất lục bát gồm một hay nhiều khổ thơ; mỗi khổ thơ gồm 4 dòng thơ: Một cặp thất ngôn và một cặp lục bát.
+ Gieo vần: Mỗi khổ thơ có một vần trắc và ba vần bằng; câu sáu chỉ có vần chân, ba câu kia vừa có vần chân vừa có vần lưng
+ Đọc to, rõ ràng, diễn cảm; đọc đúng nhịp thơ song thất lục bát (2 câu 7: 3 - 4 hoặc 3 - 2 - 2; 2 câu lục bát: nhịp 2 - 2 - 2; 4 - 4, hoặc các nhịp biến đổi 3 - 5, 2 - 4...);
+ Giọng đọc cần thể hiện sự xót xa, tiếc nuối, đau đán cố kìm nén mà vẫn lộ ra, có gì như oán trách, có gì như cam chịu)
- Tìm hiểu về văn bản Khóc Dương Khuê và nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà thơ Dương Khuê:
* Nhà thơ Nguyễn Khuyến:
- Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) hiệu là Quế Sơn, tên lúc nhỏ là Nguyễn Thắng, sinh tại quê ngoại là xã Hoàng Xá (nay thuộc Yên Trung), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
- Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.
- Năm 1864, ông đỗ đầu trong kỳ thi Hương. Nhưng mấy kì thi sau lại trượt, cho đến năm 1871, ông mới đỗ đầu cả kỳ thi Hội và thi Đình.
- Ông được người đời gọi là Tam Nguyên Yên Đổ (do đỗ đầu cả ba kỳ thi).
- Tuy vậy, ông chỉ làm quan có hơn mười năm, còn lại cuộc đời đều sống thanh bạch bằng nghề dạy học tại quê nhà.
- Nguyễn Khuyến là một người tài năng, có tấm lòng yêu nước thương dân.
- Sáng tác của ông bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với hơn 800 bài gồm nhiều thể loại: thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.
- Thơ ông thường viết về đề tài tình yêu quê hương đất nước, bạn bè, gia đình; phản ánh cuộc sống của những con người thuần hậu, chất phác; châm biếm đả kích bọn thực dân xâm lược…
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng…
* Nhà thơ Dương Khuê:
- Dương Khuê (1839 – 1902) người làng Vân Đình, tổng Phương Đình, tỉnh Hà Đông (nay là Ứng Hòa, Hà Nội).
- Ông đỗ tiến sĩ năm 1868, làm quan đến chức Tổng đốc Nam Định, Ninh Bình. Ông là bạn của Nguyễn Khuyến.
* Hai người kết bạn từ thuở thi đậu, Nguyễn Khuyến bỏ quan về quê, Dương Khuê vẫn làm quan. Nhưng cả hai vẫn giữ tình bạn gắn bó.
* Văn bản Khóc Dương Khuê:
- Được viết theo thể thơ song thất lục bát
- H/c sáng tác: Nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến làm bài thơ này khóc bạn.
- Bài thơ viết bằng chữ Hán có nhan đề là: Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư. Có bản dịch là Khóc bạn. Lâu nay quen gọi là Khóc Dương Khuê. Sau này tự tác giả dịch ra chữ Nôm
- Bố cục gồm 3 phần:
+ Phần 1. Hai câu thơ đầu: Nỗi buồn đau của Nguyễn Khuyến khi nghe tin mất bạn.
+ Phần 2. Tiếp theo đến “Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can”: Hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp đẽ về tình bạn.
+ Phần 3. Còn lại: Nỗi cô đơn của hiện tại và tâm trạng day dứt khi bạn dứt áo ra đi..
Câu 34:
03/02/2025Chú ý cách sử dụng từ ngữ thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến trong Khóc Dương Khuê.
- Tác giả sử dụng nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã qua đời” …
=> Câu thơ như một tiếng thở dài, tiếng than nhẹ nhàng, nỗi đau đột ngột khi vừa nghe tin bạn mất.
- Từ “nước mây” liên kết với các từ “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một không gian cách trở bao la, âm dương đôi đường, buồn đau, nặng trĩu. Nỗi mất mát ấy ngậm ngùi như chia sẻ với trời đất.
- Từ “tôi”, “bác” thể hiện một tấm lòng kính trọng và thân mật.
Câu 35:
03/02/2025Nhà thơ nhắc lại những kỉ niệm gì với bạn, theo trình tự nào trong bài Khóc Dương Khuê?
- Nhà thơ nhắc đến những kỉ niệm của tình bạn thắm thiết với bạn theo trình tự thời gian: kéo dài từ tuổi trẻ cho đến lúc về già.
+ Cùng nhau thi đỗ làm quan
+ Cùng nhau rong chơi khắp chốn non nước
+ Cùng ngân nga hát ả đào
+ Cùng nhau uống rượu và bình luận thơ văn
+ Cùng nhau trải qua những buổi hoạn nạn, vật đổi sao rời
+ Cùng đang trong tuổi già
Câu 36:
03/02/2025Nỗi đau mất bạn của tác giả được thể hiện như thế nào trong bài Khóc Dương Khuê?
- Mất bạn Nguyễn Khuyến như mất đi một phần cơ thể.
- Muốn gặp bạn nhưng tuổi già không cho phép. Nay bạn mất, đau đớn vô cùng.
- Mất bạn trở nên cô đơn : Rượu không muốn uống, thơ không muốn làm, đàn không gảy, giường treo lên.
-> Cảm giác hụt hẫng, trống rỗng khi mất bạn
-> Tình bạn già mà vẫn keo sơn, gắn bó.
=> Bài thơ là tiếng khóc bạn chân thành, xót xa, nuối tiếc của nhà thơ.
Câu 37:
03/02/2025Nhà thơ nhắc đến giường treo và đàn kia để biểu thị điều gì?
- Điển cố, điển tích được sử dụng:
+ Giường treo
+ Đàn kia
=> Thể hiện sâu sắc tình bạn tri âm, tri kỉ và nỗi buồn ẩn sâu khi mất đi người bạn.
Câu 38:
03/02/2025Nhà thơ đã tự an ủi mình thế nào sau khi bạn mất.
Nhà thơ tự an ủi mình khi nhắc đến tuổi già với những giọt lệ "như sương," thể hiện rằng nước mắt không còn dễ dàng rơi xuống mà chỉ biết khóc thầm trong lòng. Nỗi nhớ thương bạn bè dần trở thành nỗi niềm cam chịu số phận bi thương.
Câu 39:
03/02/2025Chỉ ra đặc điểm của thể thơ song thất lục bát qua bài Khóc Dương Khuê.
- Đặc điểm của thể thơ song thất lục bát qua bài Khóc Dương Khuê là:
+ Bài thơ bất đầu bằng câu lục bát
+ Số câu: không hạn định, cứ 4 câu thơ tạo thành một khổ
+ Mỗi khổ thơ đều có một vần trắc và ba vần bằng
+ Các câu 7 có thể ngắt nhịp 3/4 hoặc 3/2/2, hai câu sáu-tám ngắt nhịp theo thể lục bát
Câu 40:
03/02/2025Sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc để Nguyễn Khuyến viết bài thơ là gì? Sự kiện ấy chi phối bố cục của bài thơ như thế nào? Cho biết ý chính của mỗi phần theo bố cục đó.
- Sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc để Nguyễn Khuyến viết bài thơ là người bạn tri kỉ của ông là Dương Khuê đã ra đi. Nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến làm bài thơ này khóc bạn.
- Bố cục của bài thơ: gồm 3 phần:
+ Phần 1. Hai câu thơ đầu: Nỗi buồn đau của Nguyễn Khuyến khi nghe tin mất bạn.
+ Phần 2. Tiếp theo đến “Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can”: Hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp đẽ về tình bạn.
+ Phần 3. Còn lại: Nỗi cô đơn của hiện tại và tâm trạng day dứt khi bạn dứt áo ra đi..
Câu 41:
03/02/2025Hãy phân tích để thấy được việc thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến trong hai dòng thơ đầu khi nghe tin bạn mất.
Tình cảm của Nguyễn Khuyến được thể hiện trong hai dòng thơ đầu khi nghe tin bạn mất là một tiếng than, tiếng nấc đau đớn.
"Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta".
Trong cách xưng hô “bác Dương” đã thể hiện tình cảm hết sức gần gũi, yêu mến, kính trọng mà Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê. Thế nhưng sự ra đi của bạn đã để lại nỗi đau đớn bàng hoàng đến xót ra. Cách nói giảm nói tránh về sự ra đi thông qua cụm từ “thôi đã thôi rồi”. Lối nói bình dị đó đã làm giảm bớt đi nỗi đau đớn ghê gớm và phản ánh sự thảng thốt xót thương trong tâm trạng của tác giả.
Câu 42:
03/02/2025Những kỉ niệm về tình bạn đã được tác giả hồi tưởng như thế nào và theo trình tự nào trong đoạn thơ từ dòng 3 đến dòng 22 bài Khóc Dương Khuê?
- Những kỉ niệm về tình bạn đã được tác giả hồi tưởng theo trình tự thời gian: kéo dài từ thời trẻ đến khi về già.
+ Cùng nhau thi đỗ làm quan
+ Cùng nhau rong chơi khắp chốn non nước
+ Cùng ngân nga hát ả đào
+ Cùng nhau uống rượu và bình luận thơ văn
+ Cùng nhau trải qua những buổi hoạn nạn, vật đổi sao rời
+ Cuộc gặp gỡ cuối cùng
=> Đó là những kỉ niệm sâu sắc với người bạn quá cố, một tình bạn đẹp nhất, một mối nhân duyên khắc ghi trong đời.
Câu 43:
03/02/2025Hãy phân tích tâm trạng của nhà thơ được diễn tả trong đoạn thơ từ dòng 23 đến hết bài Khóc Dương Khuê.
Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, cô đơn. Cuộc sống trở nên chán chường, vô nghĩa:
“Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.”
Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tiếp 5 chữ “không” gợi tả cái trống vắng, cái cô đơn của nhà thơ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm sự “chán đời là phải”. Nhà thơ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau không thay đổi.
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già.
(Ngày xuân dặn các con)
Cho đến trước lúc qua đời, ông vẫn không quên trăng trối con cháu:
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
(Di chúc)
Bạn mất đột ngột, nỗi thương tiếc, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong cô đơn ngày thêm bơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: không muốn uống rượu, không thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở nên trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri âm tri kỉ?
“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.”
Lời than khóc trở nên xót xa khi nhà thơ nhắc lại điển tích Tử Kỳ - Bá Nha và Trần Phồn - Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở nên “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngẩn ngơ” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái khi bạn thân qua đời. Khi còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”... Lúc bạn qua đời chẳng còn người tri âm tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng lui tới thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất sâu sắc, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn cô đơn của mình.
Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đau đớn. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho linh hồn bạn thanh thản “lên tiên”:
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.”
Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm hoạn nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn câu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở - Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,... Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khó Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở nên thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than,lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động. Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã thể hiện nghệ thuật vừa bình di, vừa điêu luyện.
Câu 44:
03/02/2025Phân tích tác dụng của một số biện pháp tu từ nổi bật trong bài Khóc Dương Khuê.
Trong bài thơ "Khóc Dương Khuê" của Nguyễn Khuyến, tác giả đã khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ như nói giảm, nhân hóa, và câu hỏi tu từ để bộc lộ tình cảm tiếc thương sâu sắc trước sự ra đi của người bạn thân.
- Biện pháp nói giảm nói tránh: Câu thơ "Bác Dương thôi đã thôi rồi!" không trực tiếp nói đến cái chết mà chỉ dùng cụm từ "thôi đã thôi rồi" để giảm đi sự đau đớn khi phải đối mặt với mất mát. Đây là cách thể hiện sự chấp nhận một sự thật đau buồn một cách nhẹ nhàng hơn, giúp tác giả nén bớt nỗi đau nhưng vẫn không giấu được sự xót xa khi mất đi một người bạn tri kỷ. Cách nói này làm dịu đi cảm giác đau thương, nhưng đồng thời cũng khiến nỗi buồn sâu lắng hơn.
- Biện pháp nhân hóa: Hình ảnh "Nước mây man mác" không chỉ là hình ảnh thiên nhiên mà còn mang dáng dấp của sự cảm thông với nỗi đau của con người. Việc nhân hóa nước mây như đang chia sẻ nỗi buồn của tác giả cho thấy sự mất mát này không chỉ làm con người đau khổ mà còn ảnh hưởng đến cả trời đất, như thể vũ trụ cũng đau lòng trước sự ra đi của Dương Khuê. Điều này càng làm tăng thêm chiều sâu của nỗi đau.
- Câu hỏi tu từ: Những câu hỏi tu từ ở đoạn cuối bài như "Làm sao bác vội về ngay; Vội vàng sao đã mải lên tiên" chứa đựng cảm giác bất ngờ, hụt hẫng và không thể tin vào sự ra đi đột ngột của bạn. Các câu hỏi này không nhằm mục đích tìm câu trả lời mà chỉ thể hiện nỗi niềm day dứt, tiếc nuối không nguôi. Đặc biệt, những câu hỏi ấy đã nhấn mạnh cảm giác trống vắng, lạc lõng của người ở lại. Sự hụt hẫng ấy lắng đọng trong từng câu chữ, khiến người đọc cảm nhận được nỗi buồn sâu thẳm của tác giả khi mất đi tri kỷ.
Nhờ sự kết hợp tinh tế giữa các biện pháp tu từ, Nguyễn Khuyến không chỉ thể hiện nỗi buồn mà còn tạo nên sự đồng cảm mạnh mẽ đối với người đọc về tình bạn sâu sắc, chân thành và sự mất mát không thể thay thế.
Câu 45:
03/02/2025Bài thơ Khóc Dương Khuê giúp em có thêm nhận thức gì về tình bạn trong cuộc sống?
Bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm cảm động và sâu sắc, được viết để tưởng nhớ người bạn đã khuất của tác giả. Qua bài thơ, em nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của tình bạn tri kỷ, đồng thời khơi dậy trong em lòng trân trọng và ý thức giữ gìn những tình cảm quý báu với bạn bè mà mình đang có.
Câu 46:
03/02/2025Trong các tác phẩm dưới đây, tác phẩm nào viết bằng chữ Hán, tác phẩm nào viết bằng chữ Nôm, tác phẩm nào viết bằng chữ Quốc ngữ?
Sông núi nước Nam (khuyết danh), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh), Nhật kí trong tù (Hồ Chí Minh), Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Lão Hạc (Nam Cao), Dế Mèn phiêu lưu kí (Tô Hoài).
- Tác phẩm viết bằng chữ Hán: Sông núi nước Nam; Hịch tướng sĩ; Nhật kí trong tù.
- Tác phẩm viết bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập; Truyện Kiều; Truyện Lục Vân Tiên.
- Tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ: Tuyên ngôn Độc lập; Tắt đèn; Lão Hạc; Dế Mèn phiêu lưu kí.
Câu 47:
03/02/2025Tìm cách diễn đạt ở bên B phù hợp với mỗi loại tác phẩm ở bên A. Giải thích vì sao cách diễn đạt đó phù hợp.
A. Tác phẩm |
B. Được dịch hay phiên âm? |
a. Tác phẩm viết bằng chữ Hán |
1. được phiên âm ra chữ Quốc ngữ |
2. được dịch sang tiếng Việt |
|
b. Tác phẩm viết bằng chữ Nôm |
3. được dịch ra chữ Quốc ngữ |
a. Tác phẩm viết bằng chữ Hán – 1. được phiên âm ra chữ Quốc ngữ; 2. được dịch sang tiếng Việt.
b. Tác phẩm viết bằng chữ Nôm – 3. được dịch ra chữ Quốc ngữ.
Câu 48:
03/02/2025Hãy tìm thêm một số ví dụ về các trường hợp sau trong chữ Quốc ngữ:
a. Trường hợp dùng một chữ cái khác nhau để ghi cùng một âm. Ví dụ, ghi âm /k/ bằng các chữ c, k, q…
b. Trường hợp dùng một chữ cái để ghi nhiều âm khác nhau. Ví dụ, dùng chữ a vừa để ghi âm /a/, vừa để ghi âm /ă/
c. Trường hợp ghép nhiều chữ cái để ghi một âm. Ví dụ: ch, ng, kh…
a. Trường hợp dùng một chữ cái khác nhau để ghi cùng một âm: ghi âm /z/ bằng các chữ r, d.
b. Trường hợp dùng một chữ cái để ghi nhiều âm khác nhau: dùng chữ i vừa để ghi âm /i/ vừa để ghi âm /i:/
c. Trường hợp ghép nhiều chữ cái để ghi một âm: ng, ngh, tr, th…
Câu 49:
03/02/2025Viết một đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) trình bày suy nghĩ của em về những thuận lợi trong việc học chữ Quốc ngữ và sử dụng chữ Quốc ngữ để viết các tên riêng nước ngoài, các thuật ngữ khoa học có nguồn gốc nước ngoài.
Chữ Quốc ngữ mang lại nhiều thuận lợi trong việc học và sử dụng tiếng Việt, đặc biệt khi viết các tên riêng nước ngoài và các thuật ngữ khoa học. Đầu tiên, chữ Quốc ngữ sử dụng bảng chữ cái Latinh, giúp việc ghi chép và đọc hiểu trở nên dễ dàng hơn so với các hệ thống chữ viết khác. Điều này cũng giúp người học dễ dàng tiếp cận và nắm bắt kiến thức từ các tài liệu quốc tế. Thứ hai, việc chuyển đổi các tên riêng và thuật ngữ nước ngoài sang chữ Quốc ngữ giúp tạo sự thống nhất trong cách đọc và viết, giúp mọi người dễ dàng nhận diện và sử dụng các từ ngữ này mà không gặp phải rào cản ngôn ngữ. Sự linh hoạt này không chỉ nâng cao hiệu quả học tập mà còn góp phần vào việc giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế.
Câu 50:
03/02/2025Đọc trước văn bản Phò giá về kinh; tìm hiểu thêm thông tin về Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải.
- Trần Quang Khải sinh ngày 24 tháng 08 năm 1241, mất ngày 26 tháng 7 năm 1294), con trai thứ ba vua Trần Nhân Tông.
- Từ nhỏ, ông đã được Trần Thái Tông phong tước Chiêu Minh vương và cho thụ giáo với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu.
- Ông là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
- Ông là Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông – Nguyên (lần 2: 1284 – 1285 và lần 3: 1287 -1288). Đặc biệt trong hai trận Hàm Tử và Chương Dương.
Câu 51:
03/02/2025Chú ý cách các chiến thắng lịch sử và việc sử dụng động từ mạnh trong bài Phò giá về kinh.
Việc sử dụng các động từ mạnh như: đoạt, sáo cùng các chiến thắng lịch sử đã thể hiện khí thế dũng mãnh, chủ động hào hùng của dân tộc.
Câu 52:
03/02/2025Từ những thông tin về hoàn cảnh ra đời bài thơ Phò giá về kinh, hãy nêu hiểu biết của em về hào khí thời Trần.
- Bài thơ "Phò giá về kinh" được sáng tác sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ hai (1285), trong thời điểm mà quân dân nhà Trần vừa giành được chiến thắng vẻ vang ở những trận đánh nổi tiếng như Chương Dương và Hàm Tử. Sau khi đánh tan quân Mông - Nguyên, Trần Quang Khải, một trong những danh tướng kiệt xuất của nhà Trần, đã hộ giá đưa vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về kinh đô Thăng Long. Trên đường trở về, ông tức cảnh sáng tác bài thơ này để ca ngợi chiến công và tinh thần đoàn kết của quân dân.
- Từ những thông tin về hoàn cảnh ra đời bài thơ Phò giá về kinh, ta có thể thấy hào khí nhà Trần là một trong những điểm sáng rực rỡ trong lịch sử Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Trần, quân đội và nhân dân đã hợp sức chiến đấu và giành được những chiến thắng vẻ vang. Sự đồng lòng từ vua, quan cho đến nhân dân đã làm nên sức mạnh không thể đánh bại. Đây chính là minh chứng cho một thời đại oai hùng, khắc sâu trong tâm hồn mỗi người dân Việt về một thời kỳ lịch sử vàng son.
Câu 53:
03/02/2025Xác định thể loại của bài thơ qua số dòng, số chữ, niêm, luật và cách hiệp vần ở bản phiên âm bài Phò giá về kinh.
Yếu tố |
Đặc điểm thể loại trong bài thơ “Phò giá về kinh” |
Thể thơ |
Ngũ ngôn tứ tuyệt |
Số dòng, số chữ |
4 dòng, mỗi dòng 5 chữ |
Vần |
Quan- san |
Nhịp |
2/3 |
Niêm, |
Tiếng thứ 2 của câu 2 cùng thanh bằng với tiếng thứ 3 của câu 3 |
Luật |
Tiếng thứ 2 câu thơ thứ 1 của bài thơ là thanh trắc-> bài thơ theo luật trắc |
Câu 54:
03/02/2025Phân tích nội dung và mối quan hệ của hai dòng thơ đầu và hai dòng thơ cuối, từ đó cho biết chủ đề của bài thơ Phò giá về kinh.
Câu |
Từ ngữ, hình ảnh, đặc sắc NT |
Nhận xét |
Đoạt sao Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử Quan
|
- Hình ảnh: + Chương Dương + Hàm Tử - Sử dụng các ĐT mạnh: đoạt, sáo => Việc sử dụng các động từ mạnh cùng các chiến thắng lịch sử thể hiện khí thế dũng mãnh, chủ động hào hùng của dân tộc. |
Hai câu đầu nói về chiến công lừng lẫy của quân ta. Đó là hào khí hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên.
|
=> Chủ đề của bài thơ: Bài thơ viết về hào khí chiến thắng và khát vọng hòa bình, thịnh trị của dân tộc.
Câu 55:
03/02/2025Tìm hiểu cách ngắt nhịp của bài thơ ở bản phiên âm bài thơ Phò giá về kinh. Nhịp điệu của các dòng thơ có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài thơ?
- Cách ngắt nhịp: 2/3, 3/2
- Nhịp điệu của các dòng thơ có tác dụng nhấn mạnh chiến công vang dội của đội quân, giúp cho bài thơ thể hiện sự mạnh mẽ, dứt khoát, hào khí chiến thắng của dân tộc.
Câu 56:
03/02/2025So sánh bài thơ Phò giá về kinh với bài thơ Sông núi nước Nam để chỉ ra sự tương đồng về nội dung và hình thức nghệ thuật giữa hai tác phẩm.
Tiêu chí so sánh |
Điểm giống giữa hai tác phẩm |
Nội dung |
+ Đều thể hiện một tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường và bất khuất. + Đều nói về chủ quyền và độc lập của dân tộc. |
Hình thức |
+ Đều viết theo thể thơ Đường luật (Phò tá về kinh: Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật; Nam quốc sơn hà: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật) + Đều viết bằng chữ Hán. |
Câu 57:
03/02/2025Nội dung bài thơ Phò giá về kinh có ý nghĩa với cuộc sống hiện nay như thế? Vì sao?
“Phò giá về kinh" không chỉ là một tác phẩm văn học có giá trị lịch sử, mà còn mang những thông điệp về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước. Đây là những giá trị quan trọng mà mọi thời đại cần ghi nhớ và phát huy, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và phát triển. Bởi vậy mà bài thơ ra đời từ rất lâu nhưng nội dung vẫn có ý nghĩa với cuộc sống hiện nay.
Câu 58:
03/02/2025Đọc trước văn bản Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm.
* Tác giả Đặng Trần Côn:
− Tiểu sử của nhà thơ Đặng Trần Côn cho đến nay biết được còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ước đoán ông sinh vào khoảng năm 1710 đến 1720 (khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII).
− Quê ông ở làng Nhân Mục (còn gọi làng Mọc), huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
− Vốn có tư chất thông minh lại là người hiếu học, thuở thiếu thời cần học, ông phải làm hầm đọc sách, bởi lệnh chúa Trịnh cấm đốt lửa ban đêm, vì thuở ấy trong nội thành Thăng Long thường xảy ra hoả hoạn.
− Tính cách “đuyềnh đoàng không buộc” - tự do, phóng túng nên không đỗ đạt cao. Thi Hương đỗ Giải nguyên (khoảng từ năm 1726 đến 1738) nhưng vào đến thi Hội thì hỏng. Từ đó, ông không chịu ràng buộc vào thi cử nữa.
− Đầu thời Cảnh Hưng (1740 – 1786), ông được làm Huấn đạo một huyện, sau được đặt tên là Tri huyện Tri huyện Thanh Oai, thành phố Sơn Tây.
− Cho đến cuối đời ông chỉ làm đến chức Ngự sử đài Chiếu khám sau đó nghỉ hưu và dạy học tại nhà ông Nguyễn Đình Kỷ ở làng Hạ Đình.
− Ông mất vào khoảng năm 1745, lúc đó chưa đến 40 tuổi và được chôn cất ở làng Nhân Mục, nay thuộc tổ dân phố số 5, khu dân cư số 3, phường Hạ Đình.
* Tác phẩm Chinh phụ ngâm:
- Chinh phụ ngâm là một khúc ngâm do Đặng Trần Côn sáng tác bằng chữ Hán khoảng năm 1741, sau đó được nhiều người diễn Nôm thành nhiều bản khác nhau.
- Bản hiện hành được coi là thành công nhất và được thể hiện bằng thơ song thất lục bát, dài 412 dòng.
- Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích từ dòng 208 đến dòng 228 kể lại buổi tiễn đưa chồng ra trận với khí thế hào hùng, người chinh phụ trở về, tượng tượng cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng và hối tiếc vì đã để chàng ra đi. Tâm sự ấy được thể hiện sâu sắc và thấm thía trong đoạn trích.
Câu 59:
03/02/2025Chú ý cách diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ trong bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Nhà thơ diễn tả nỗi nhớ của người chinh phu qua những tín hiệu nghệ thuật đặc sắc để miêu tả lại tâm trạng người chinh phụ không biết gửi nỗi nhớ chồng với ai, muốn nhờ ngọn gió mùa xuân mang theo hơi ấm tình thương đưa đến "non Yên" những tình cảm nhung nhớ , tấm lòng thuỷchugn son sắt của mình.
Câu 60:
03/02/2025Nỗi lòng người chinh phụ đã được biểu hiện thế nào qua việc tả cảnh?
Nỗi lòng người chinh phụ được biểu hiện qua các hình ảnh hình ảnh so sánh "sương như búa", "tuyết dường cưa" kết hợp với động từ mạnh “bổ mòn” “xẻ héo” và hình ẩn dụ “ gốc liễu”, “ cành ngô” nhằm cực tả được tâm trạng cô đơn, lẻ bóng qua cách nhìn thế giới bên ngoài của người phụ nữ vắng chồng trong đêm khuya giá lạnh. Người chinh phụ với nỗi nhớ nhung sầu muộn đang bị thời gian hủy hoại cả về thể xác lẫn tinh thần.
Câu 61:
03/02/2025Hình ảnh gắn bó giữa “hoa” và “nguyệt” trong bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thể hiện điều gì?
Hinh ảnh bóng hoa theo bóng nguyệt (Cảnh hoa – nguyệt giao hòa) khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Nỗi trống vắng càng bào mòn con người bao nhiêu thì sự khát khao đang trỗi dậy trong thế giới tinh thần của người chinh phụ lại mạnh mẽ lên bấy nhiêu.
Câu 62:
03/02/2025Xác định bố cục của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; cho biết nội dung chính của từng phần.
Bố cục gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “tiếng trùng mưa phun”: nỗi nhớ thương chồng nơi xa
- Phần 2. Tiếp đến “gió thốc ngoài hiên”: tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Phần 3. Còn lại: Ước mơ, khát vọng về hạnh phúc của đôi lứa của người chinh phụ
Câu 63:
03/02/2025Chỉ ra sự phù hợp của thể thơ trong việc thể hiện đề tài ở văn bản này.
Đoạn trích được viết theo thể thơ: Song thất lục bát. Thể thơ ấy giúp cho bài thơ trở nên có nhạc điệu, hấp dẫn, nhiều cảm xúc nhằm giúp người đọc đi sâu vào thế giới nội tâm, thấu hiểu được cảm xúc của nhân vật.
Câu 64:
03/02/2025Nỗi lòng người chinh phụ được thể hiện như thế nào? Đâu là nguyên nhân dẫn đến tâm trạng ấy?
- Nỗi lòng của người chinh phụ được thể hiện một cách buồn tủi, đau đớn và cô đơn đồng thời cũng là sự khát khao được hạnh phúc yêu thương.
- Nguyên nhân dẫn đến tâm trạng ấy: do chồng đi chinh chiến nơi xa.
Câu 65:
03/02/2025Hãy phân tích mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của người chinh phụ từ dòng 9 đến dòng 20 trong bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
- Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được gợi lên thông qua hình ảnh: sương, tuyết nhằm cho thấy tâm trạng giá buốt lạnh lẽo trong tâm hồn củn người chinh phụ.
- Hình ảnh so sánh "sương như búa", "tuyết dường cưa" kết hợp với động từ mạnh “bổ mòn” “xẻ héo” và hình ẩn dụ “gốc liễu”, “ cành ngô” đã cực tả được tâm trạng cô đơn, lẻ bóng qua cách nhìn thế giới bên ngoài của người phụ nữ vắng chồng trong đêm khuya giá lạnh. Người chinh phụ với nỗi nhớ nhung sầu muộn đang bị thời gian hủy hoại cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Từ ngữ chỉ âm thanh
+ Tiếng chim gọi bạn
+ Âm thanh tiếng chuông chùa
+ Tiếng dế kêu trước cửa nhà,
+ Tiếng gió thốc
=> Những thanh âm ấy càng hiện rõ trong đêm khuya thì càng chính tỏ không gian tĩnh lặng đến tuyệt đối trong nỗi thao thức trằn trọc của người phụ nữ có chồng ra trận. Nỗi buồn của người chinh phụ tưởng như tan ra theo những thanh âm nhưng rốt cuộc vẫn không mất đi mà còn như lặn sâu hơn vào trong cõi lòng của người vợ nhớ chồng. => Nghệ thuật lấy động tả tĩnh.
- Hình ảnh bóng hoa theo bóng nguyệt (Cảnh hoa – nguyệt giao hòa) khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Nỗi trống vắng càng bào mòn con người bao nhiêu thì sự khát khao đang trỗi dậy trong thế giới tinh thần của người chinh phụ lại mạnh mẽ lên bấy nhiêu.
=> Cảnh vật không chỉ gợi lên nỗi cô đơn lẻ loi mà nó còn thể hiện khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
Câu 66:
03/02/2025Phân tích tác dụng các biện pháp tu từ, nhịp điệu của thể song thất lục bát trong văn bản Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Tác dụng của biện pháp tu từ, nhịp điệu thể song thất lục bát: Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” không chỉ là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đỉnh cao của thể thơ song thất lục bát. Ý thơ đăng đối; những hình ảnh trang nhã, gợi cảm kết hợp với nhịp thơ lục bát giàu âm điệu đã làm cho đoạn trích nói riêng hấp dẫn; Đồng thời, hệ thống những từ láy kết hợp với lối thơ vắt dòng và biện pháp điệp từ, điệp ngữ càng làm cho những câu thơ trở nên nặng trĩu tâm trạng, mở ra một nỗi buồn thương bao trùm lên cảnh vật.
Câu 67:
03/02/2025Từ những hiểu biết về tác phẩm Chinh phụ ngâm và đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, em suy nghĩ như thế nào về số phận những người phụ nữ trong cuộc chiến tranh phi nghĩa?
Đọc đoạn trích Chinh phụ ngâm chúng ta bắt gặp những nỗi niềm tâm sự, những cảm xúc, tâm trạng mà cảm xúc, tâm trạng nào cũng khiến chúng ta xót xa trước nỗi cô đơn sầu tủi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi có chồng ra trận. Có những lưu luyến lúc chia tay:
“Nhủ rồi tay lại cầm tay,
Bước đi một bước giây giây lại dừng.”
Có cả những trống trãi cô đơn
“Cùng trông lại mà cùng .....hơn ai”
Có cả những ước mong, những nhớ nhung khao khát.
“Ước gì gần một tấc gang
Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay”
Qua đó, chúng ta xót thương, đồng cảm với thân phận người phụ nữ trong cuộc chiến tranh phi nghĩa cũng như trân trọng, đề cao niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình.
Câu 68:
03/02/2025Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến.
a. Chuẩn bị
– Đọc kĩ đề bài, xác định các yêu cầu cần thực hiện.
– Xem lại kiến thức ngữ văn về thể thơ song thất lục bát, nội dung đọc hiểu bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến; liên hệ với những bài thơ viết về tình bạn thắm thiết, thuỷ chung.
– Xác định luận đề và các luận điểm trong bài viết, lựa chọn bằng chứng từ bài thơ cho mỗi luận điểm.
b. Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:
+ Hoàn cảnh ra đời, đề tài và chủ đề của bài thơ Khóc Dương Khuê là gì?
+ Nghệ thuật của bài thơ Khóc Dương Khuê có gì đặc sắc?
+ Các yếu tố hình thức nghệ thuật ấy đã làm nổi bật chủ đề bài thơ như thế nào?
+ Qua bài thơ Khóc Dương Khuê, em có thể nhện xét gì về tình cảm và thái độ của tác giả đối với người bạn của mình?
+ Có thể học được gì về tình bạn từ bài thơ Khóc Dương Khuê?
…
– Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về đề tài và giá trị của bài thơ Khóc Dương Khuê.
Thân bài:
Có thể nêu các ý theo trình tự sau:
+ Nêu hoàn cảnh ra đời và sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc cho tác giả viết bài thơ.
+ Nêu chủ đề của bài thơ.
+ Phân tích các yếu tố hình thức và tác dụng của chúng trong việc biểu đạt nội dung bài thơ.
+ So sánh với một số bài thơ viết về cùng đề tài (nếu có) để làm rõ sự độc đáo của bài Khóc Dương Khuê.
Kết bài: Khái quát giá trị bài thơ và nêu tác động của bài thơ này đối với cá nhân em.
c. Viết
Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài nghị luận phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách so sánh trong phân tích thơ.
d. Kiểm tra và chỉnh sửa
- Đọc lại bài văn đã viết
- Việc kiểm tra, chỉnh sửa cần chú ý những yêu cầu chung sau đây:
Phương diện kiểm tra |
Câu hỏi kiểm tra |
Nội dung |
Mở bài: Đã giới thiệu khái quát nội dung văn bản chưa? (Ở bài viết này là giới thiệu khái quát về bài thơ Khóc Dương Khuê) Thân bài: + Có nêu được các nội dung cụ thể làm rõ cho luận đề đã nêu ở mở bài không? (Ở bài viết này luận đề cần làm rõ là tình cảm sâu nặng của tác giả đối với người bạn của mình qua bài thơ Khóc Dương Khuê) + So với dàn ý, bài viết còn thiếu ý nào? Các ý có được sắp xếp phù hợp không? Ý nào trong bài trùng lặp nhau? + Có nêu được các lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, thuyết phục không? + Đã kết hợp được các phương thức biểu đạt và các thao tác khác trong khi viết hay chưa? (Ở bài viết này là kết hợp phân tích với giải thích, chứng minh, so sánh, biểu cảm...) + Có nêu được những suy nghĩ và cảm xúc riêng của người viết không? Kết bài: Đã khái quát, tổng hợp vấn đề được trình bày chưa? (Ở bài viết này là những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.) |
Hình thức |
+ Bài viết đã có đủ ba phần chưa? Độ dài của các phần có cân đối không? + Bài viết còn mắc những lỗi gì về trình bày, trích dẫn, dùng từ, đặt câu, chính tả...? |
Đánh giá chung |
+ Bài viết đáp ứng yêu cầu ở mức độ nào? + Em thấy thuận lợi hoặc khó khăn nhất khi viết phần nào? Vì sao? + Ưu điểm nổi bật của bài viết là gì? |
* Bài văn tham khảo:
Xưa nay trong nhân thế, tình bạn vốn là một thứ tình cảm gắn bó khăng khít, mang ý nghĩa vô cùng cao đẹp. Chính vì vậy, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã lấy tình bạn làm đề tài sáng tác cho các tác phẩm của mình. Trong đó phải kể đến bài thơ song thất lục bát “Khóc Dương Khuê” của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Một bài thơ với giọng điệu buồn bã, nhớ thương, kết hợp hài hòa, tinh tế giữa sự giản dị, dân dã với uyên bác, tài hoa đã thể hiện sâu sắc tình bạn chân thành, sâu nặng, của tác giả với người bạn tri âm, tri kỉ của mình.
Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).
Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quý giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ một tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:
Bác Dương thôi đã, thôi rồi,
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.
Hầu như không có một chút văn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó.
Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân thành được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã... thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quý ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.
Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của người là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tưởng đã rất xa xôi:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời
Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây.
Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là "tôi bác", với những “cùng nhau”... Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau". Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Kỉ niệm giữa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi.
Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thì có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xã hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng).
Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao?
Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát. Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,
Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ "nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Thu ẩm)
Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”.
Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.
Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già, tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!
Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn.
Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ "thôi” trùng điệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi - thôi - thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.
Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến - Dương Khuê, đặc biệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới một cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.
Xét về mặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào là “tuổi già thêm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ của một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậy, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi lại đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: Tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chết trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán: Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời! Trước nỗi đau đã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nỗi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: Cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên như một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã. Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, không còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ, rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa) cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.
Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi như tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thấy mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:
Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thường làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chẳng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu rằng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.
Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, chân thành kết hợp với sự tài hoa, uyên bác qua các điển cố, điển tích đã thể hiện trọn vẹn cảm xúc đau đớn, xót xa, bàng hoàng của nhà thơ trước sự ra đi đột ngột của bạn. Thể thơ song thất lục bát xen kẽ từng cặp câu thơ bảy chữ và cặp câu thơ lục bát đầy biến tấu, giàu vần điệu, ngắt nhịp đa dạng, kết hợp giữa tự sự với trữ tình, có khả năng chuyển tải những xúc chân thành, buồn thương, suy tư, trầm lắng rất phù hợp để nhà thơ bộc bạch lòng mình. Bài thơ giúp chúng ta thêm hiểu và trân trọng giá trị của tình bạn cũng như nhận ra được một tình bạn chân thành trong cuộc sống.
Câu 69:
03/02/2025Hãy viết đoạn văn so sánh, nêu lên một điểm giống nhau và một điểm khác nhau giữa văn bản Sông núi nước Nam với văn bản Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi).
Hai văn bản Sông núi nước Nam và nước Đại Việt (trích Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi) ta đều là hai văn bản mang đậm chủ nghĩa yêu nước, tồn tại như những bản tuyên ngôn độc lập đầy lòng tự hào. Tuy nhiên, ở mỗi văn bản, tác giả lại khẳng định chủ quyền tổ quốc theo một cách riêng. Nếu ở Sông núi nước Nam, chủ quyền của nước Nam được củng cố dựa trên lý luận từ “sách Trời” - từ một thế lực siêu nhiên. Thì ở “Nước Đại Việt ta”, Nguyễn Trãi lại thể hiện niềm tự hào về độc lập dân tộc dựa trên những thành tựu, những trang sử vàng hào hùng của dân tộc. Tác giả đặt nước ta ngang hàng với nước phương Bắc, đưa ra những chứng cứ, lập luận có thật vô cùng sắc bén về những thành tựu mà các thế hệ cha ông đã từng đạt được… Từ đó khiến không ai có thể phủ nhận được chủ quyền của nước ta. Nhưng dù là bằng cách nào, bằng biện pháp gì, thì cả hai tác giả của hai văn bản đều đã đưa vào tác phẩm của mình tình yêu nước và niềm tự tôn dân tộc mãnh liệt. Giúp khẳng định chủ quyền nước ta trước mọi kẻ thù.
Câu 70:
03/02/2025Nghe và nhận biết tính thuyết phục của ý kiến trình bày về sự giống nhau và khác nhau giữa hai văn bản “Sông núi nước Nam” và văn bản “Nước Đại Việt ta" (trích “Đại cáo bình Ngô” – Nguyễn Trãi).
a) Chuẩn bị:
- Suy nghĩ về sự giống nhau và khác nhau giữa hai văn bản Sông núi nước Nam và văn bản Nước Đại Việt ta.
- Xem lại các hướng dẫn trong mục 1. Định hướng để nắm được cách nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến, những hạn chế của người nói trong khi trình bày ý kiến,...
b) Tìm ý và lập dàn ý
- Người nói: dựa vào bài tập đã làm ở phần rèn luyện kĩ năng viết so với sánh trong phân tích thơ (trang 26) để tìm ý và lập dàn ý cho bài trình bày.
– Người nghe: chú ý các điểm cần tập trung khi nghe để nhận biết tính thuyết phục của ý kiến được trình bày và chỉ ra được những hạn chế (nếu có). Chẳng hạn, bài trình bày của người nói cần đáp ứng hệ thống ý sau đây:
+ Mở đầu: nêu vấn đề, mục đích bài nói là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau của hai văn bản.
+ Nội dung chính: nêu những điểm giống nhau và khác nhau của hai văn bản Sông núi nước Nam và Nước Đại Việt ta theo một số tiêu chỉ như bối cảnh ra đời, đề
tải, nội dung chính, tư tưởng và tình cảm của người viết, vai trò và sự tác động của tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ và biện pháp nghệ thuật đặc sắc... Mỗi điểm cần có các lí lẽ và bằng chứng cụ thể dẫn ra từ hai văn bản.
+ Kết thúc: khẳng định ý nghĩa và vị trí của hai văn bản đối với lịch sử dân tộc nói chung và văn học nói riêng.
c) Nói và nghe
– Người nói: trình bày ý kiến đã chuẩn bị ở nhà của mình.
– Người nghe: nghe và nhận xét về tinh thuyết phục của ý kiến được trình bay. Bài này tập trung rèn luyện kĩ năng nghe nhiều hơn. Trong khi nghe, các em cần
chú ý:
+ Lắng nghe, xác định và ghi lại các thông tin chính của bài trình bày, những nội dung cần hỏi lại.
+ Tập trung theo dõi, nhận biết và nhận xét tinh thuyết phục của ý kiến đã trình bảy (ưu điểm và hạn chế).
+ Thể hiện thái độ chú ý lắng nghe, sử dụng các yếu tố cử chỉ, nét mặt, ánh mắt
để khích lệ người nói.
+ Hỏi lại những điểm chưa rõ (nếu cần), có thể trao đổi thêm ý kiến cá nhân về nội dung và cách thuyết phục của bài trình bày.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Người nói
|
Rút kinh nghiệm về việc lựa chọn vấn đề trình bày, quá trình chuẩn bị, nội dung. cách thức và thái độ trình bày.... – Tự đánh giá: + Trong bài trình bày của mình, em hài lòng về những điểm nào (nội dung, hình thức, thái độ)? + Bài trình bày đã có sức thuyết phục chưa? + Em muốn thay đổi điều gì trong bài trình bày của mình? |
Người nghe |
– Kiểm tra việc nghe và ghi chép các nội dung thông tin (Đã chính xác chưa, thu hoạch được những gì?...). – Nêu nhận xét về nội dung, hình thức và tính thuyết phục của bài trình bày. – Đánh giá: + Em thấy bài trình bày của bạn có thuyết phục không? Vì sao? + Điều em rút ra được từ bài trình bày của bạn là gì? |
* Bài nói tham khảo:
“Nam quốc sơn hà” và “Bình Ngô đại cáo” đều là những tác phẩm vĩ đại trong lịch sử văn học Việt Nam, nhưng chúng ra đời ở hai thời kỳ khác nhau và phản ánh mức độ phát triển khác nhau về ý thức độc lập chủ quyền và khái niệm quốc gia dân tộc. Trong đó, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ra đời sau “Nam quốc sơn hà” mấy trăm năm, là sự kế thừa và phát triển hoàn thiện hơn ý thức về độc lập chủ quyền, ý thức về quốc gia dân tộc.
“Nam quốc sơn hà” tương truyền là bài thơ thần của vị tướng Lý Thường Kiệt, được coi là một trong những bài thơ sớm nhất đề cao tinh thần dân tộc. Bài thơ tứ tuyệt này xuất hiện vào thời kỳ khái niệm quốc gia, chủ quyền độc lập vẫn còn đơn giản và chưa được hiểu sâu sắc, toàn diện như sau này. Tuy nhiên, khi câu thơ khẳng định:"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư," thì ý thức dân tộc đã tiến một bước dài. Trong thời trung đại, phong kiến Trung Hoa vô cùng lớn mạnh và tự coi mình là tinh hoa của vũ trụ. Chỉ có vua của Trung Hoa mới được xếp vào hàng “đế”, “Thiên tử” có thể thay trời hành đạo, còn các nước khác xung quanh chỉ là “man di, mọi rợ” và vua các nước chư hầu được phong một chữ “vương”. Trong bối cảnh ấy, câu thơ của Lý Thường Kiệt đã khẳng định mạnh mẽ rằng nước Nam cũng có “hoàng đế” xứng danh “Thiên tử”, vì ranh giới Bắc – Nam đã được “định phận tại thiên thư.” Điều này thể hiện niềm tự hào dân tộc và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc Đại Việt.
Từ “Nam quốc sơn hà” đến “Bình Ngô đại cáo” (đoạn trích “Nước Đại Việt ta”) là một sự phát triển và hoàn thiện khái niệm quốc gia dân tộc. Nguyễn Trãi đã mở rộng và nâng cao ý thức dân tộc, không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà còn nhấn mạnh đến nền văn hiến lâu đời:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu."
Ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi lúc này không chỉ là tranh luận về hai chữ “đế” và “vương”, hay về ranh giới lãnh thổ, mà là ở truyền thống văn hiến lâu đời. Văn hiến ở đây không chỉ là những giá trị về vật chất mà còn là tinh thần, những thành tựu mà dân tộc Việt Nam đã đạt được qua hàng nghìn năm lịch sử. Nguyễn Trãi còn khẳng định:
"Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác."
Điều này cho thấy một nhận thức sâu sắc về sự khác biệt không chỉ về lãnh thổ mà còn về văn hóa, phong tục, tập quán. Ý thức về chủ quyền dân tộc với Nguyễn Trãi không chỉ là có lãnh thổ rạch ròi mà còn phải có truyền thống, phong tục, thói quen thẩm mỹ riêng biệt. Điều đặc biệt quan trọng là lịch sử đã chứng minh điều đó qua các triều đại từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đến Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nguyễn Trãi cho rằng, để khẳng định chủ quyền quốc gia, cần phải có lịch sử, và những “anh hùng hào kiệt” chính là những người tạo ra lịch sử, là bằng chứng hùng hồn về truyền thống của nước ta.
Có thể nói, đoạn trích “Nước Đại Việt ta” nói riêng và “Bình Ngô đại cáo” nói chung thể hiện sự chuyển biến lớn về tư tưởng, sự hoàn thiện về quan niệm quốc gia dân tộc so với “Nam quốc sơn hà”. Nguyễn Trãi đã kế thừa trọn vẹn tinh thần của “Nam quốc sơn hà” để từ đó tạo ra một bản anh hùng ca bất hủ, được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Câu 71:
03/02/2025Đoạn trích Cảnh vui của nhà nghèo được viết theo thể thơ nào?
D. Song thất lục bát
Câu 72:
03/02/2025Đoạn trích thể hiện tâm trạng chủ yếu nào của nhân vật trữ tình?
A. Xót xa, buồn tủi vì cuộc sống nghèo khổ
Câu 73:
03/02/2025Nhận xét nào đúng với những dòng thơ sau: “Cơm dưa muối khó khăn mới có/ Của không ngon, nhà khó cũng ngon. / Khi vui câu chuyện thêm giòn. / Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà”?
D. Câu song thất khắc họa nỗi buồn với những chạnh lòng, câu lục bát bộc lộ niềm vui đan xen.
Câu 74:
03/02/2025Phương án nào dưới đây nhận xét đúng về việc sử dụng từ ngữ trong đoạn trích?
C. Từ ngữ mộc mạc, gần gũi
Câu 75:
03/02/2025Điểm giống nhau giữa hai văn bản Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến) và bài Cảnh vui của nhà nghèo là gì?
C. Cùng sử dụng thể thơ song thất lục bát
Câu 76:
03/02/2025Nội dung chính của đoạn trích có liên quan gì đến nhan đề Cảnh vui của nhà nghèo?
Nội dung chính của bài thơ "Cảnh vui của nhà nghèo" tập trung vào việc miêu tả cuộc sống nghèo khổ nhưng vẫn chứa đựng những niềm vui giản dị, chân thật. Mặc dù có sự xót xa và buồn tủi vì hoàn cảnh khó khăn, bài thơ vẫn thể hiện tinh thần lạc quan, tìm thấy niềm vui trong những điều nhỏ bé, bình dị của cuộc sống. Điều này làm sáng tỏ và lí giải cho nhan đề "Cảnh vui của nhà nghèo", khi niềm vui không bị dập tắt bởi sự nghèo khó mà vẫn nhen nhóm, tồn tại một cách giản dị nhưng sâu sắc.
Câu 77:
03/02/2025Hãy tìm các từ láy từ dòng “Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa” đến dòng “Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà” và cho biết tác dụng của chúng trong đoạn thơ.
- Các từ láy từ dòng 19 đến dòng 28 là: xa xa, chồng chồng, vợ vợ, con con, thảnh thơi, chiều chiều, tối tối, mai mai.
- Tác dụng: Các từ láy giúp tạo nên nhịp điệu cho đoạn thơ, nhấn mạnh sự lặp lại của cảnh vật và sinh hoạt thường ngày. Qua đó giúp người đọc cảm nhận rõ ràng hơn về sự tuần hoàn, liên tục của cuộc sống cũng như thấu hiểu sâu sắc hơn về những gì đoạn thơ muốn truyền tải.
Câu 78:
03/02/2025Nhận xét về vần và nhịp của đoạn trích Cảnh vui của nhà nghèo.
- Nhịp: 3/2/2; 2/2/3
- Gieo vần: Gieo vần chân: “ngày – vay”; “co-no” …
Câu 79:
03/02/2025Theo em, cái vui của cảnh nhà nghèo được thể hiện qua đoạn trích Cảnh vui của nhà nghèo là gì?
Cái vui của cảnh nhà nghèo trong bài thơ được thể hiện qua những niềm vui giản dị, mộc mạc trong cuộc sống hàng ngày, như những câu chuyện vui trong bữa cơm quây quần của gia đình. Dù cuộc sống nghèo khó, nhưng sự đầm ấm, gắn kết trong gia đình và niềm vui từ những điều nhỏ bé, thân thuộc chính là nguồn động viên tinh thần lớn lao, giúp các thành viên trong gia đình vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Câu 80:
03/02/2025Em thích nhất câu thơ nào trong đoạn trích Cảnh vui của nhà nghèo? Vì sao?
Em thích nhất câu thơ “Khi vui câu chuyện thêm giòn/ Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà” vì nó thể hiện rõ nhất tình cảm giản dị và ấm áp trong gia đình. Dù cuộc sống có khó khăn, vất vả, nhưng những khoảnh khắc quây quần bên nhau, chia sẻ niềm vui, câu chuyện trong bữa cơm gia đình vẫn luôn mang lại cảm giác ấm áp, hạnh phúc. Câu thơ như gợi lên hình ảnh của một gia đình hòa thuận, gắn kết, nơi mà tình yêu thương và sự sẻ chia luôn hiện diện, là nguồn động viên lớn lao để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Câu 81:
04/02/2025Tìm đọc thêm một số bài thơ có đề tài tương tự các văn bản trong phần đọc hiểu của Bài 1 (những bài thơ viết về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc; về tình bạn, tình cảm và hạnh phúc gia đình.)
Bài thơ có đề tài tương tự các văn bản trong phần đọc hiểu của Bài 1 (tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc; trân trọng tình bạn, khát vọng hạnh phúc và tình cảm gia đình.) là:
- Tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc : Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi)
- Trân trọng tình bạn: Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến)
- Tình cảm gia đình: Thương vợ (Tú Xương)
Câu 82:
04/02/2025Tìm hiểu trên Internet hoặc trong sách, báo một số bài thơ được viết theo thể song thất lục bát của các tác giả khác.
Một số bài thơ được viết theo thể song thất lục bát là:
- Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều).
- Xuân sầu (Tản Đà)
- Mãi mãi (Xuân Diệu)
- Hải ngoại huyết thư (Phan Bội Châu)
- Tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du)
Câu 83:
04/02/2025- Xem lại phần Kiến thức ngữ văn để vận dụng vào đọc hiểu văn bản Cảnh ngày xuân.
- Khi đọc đoạn trích của một truyện thơ Nôm, các em cần lưu ý:
+ Tìm hiểu để biết được bối cảnh của đoạn trích.
+ Xác định được chủ đề của đoạn trích.
+ Các nhân vật gồm những ai và mối quan hệ giữa họ như thế nào?
+ Nội dung và ý nghĩa của đoạn trích có gì sâu sắc?
+ Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích, đặc biệt là nghệ thuật tự sự (diễn biến sự việc), miêu tả tâm lí (diễn biến nội tâm), nghệ thuật sử dụng ngôn từ, các biện pháp nghệ thuật khác, …
- Đọc trước đoạn trích Cảnh ngày xuân; tìm hiểu thêm thông tin về đại thi hào – Danh nhân văn hoá Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
* Đoạn trích Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du):
- Hoàn cảnh sáng tác
+ Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805 - 1809).
+ Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc.
+ Tuy nhiên, phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
- Thể loại
Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát.
- Tóm tắt Truyện Kiều
Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều - một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau.
Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải - một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu.
Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Túy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
- Vị trí đoạn trích
+ Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm phía sau đoạn tả tài sắc chị em Thúy Kiều.
+ Đoạn này tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều.
* Tác giả Nguyễn Du:
- Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Tổ tiên Nguyễn Du vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau đó di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
- Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) và mẹ là Trần Thị Tần (1740 - 1778).
- Vợ của Nguyễn Du là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình).
- Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác nhau.
- Thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia đình phong kiến quyền quý.
- Năm 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha.
- Năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
- Trong khoảng thời gian này, ông đã có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến - những điều đó đã để lại dấu ấn trong sáng tác của ông sau này.
- Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) và được tập ấm nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
- Từ năm 1789, Nguyễn Du đã rơi vào cuộc sống khó khăn gian khổ hơn chục năm ở các vùng nông thôn khác nhau đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du có một vốn sống thực tế phong phú thô thúc ông suy ngẫm nhiều về xã hội, thân phận con người tạo tiền đề cho việc hình thành tài năng và bản lĩnh văn chương.
- Sau nhiều năm sống chật vật ở các vùng quê khác nhau, năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
- Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi thành Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội).
- Từ năm 1805 - 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ.
- Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- Năm 1813, ông được thăng Cần Chánh điện học sinh và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
- Đến khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du được tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa mà từ nhỏ đã quen thuộc.
- Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường đã mất vào ngày 10 tháng 8 năm 1820.
- Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
* Các sáng tác chính
+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm 249 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kỳ khác nhau:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên): 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam): 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh quê hương ông.
Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
=> Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông.
+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.
* Tác phẩm Truyện Kiều:
- Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805 - 1809). Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc. Tuy nhiên, phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
- Tác phẩm được viết theo thể loại truyện thơ Nôm với 3254 câu thơ lục bát, được bố cục gồm 3 phần:
+ Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước
+ Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc
+ Phần thứ ba: Đoàn tụ
- Tóm tắt Truyện Kiều:
Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều - một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau.
Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải - một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu.
Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Tuy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Câu 84:
04/02/2025Chú ý việc sử dụng từ ngữ để miêu tả mùa xuân trong bài Cảnh ngày xuân.
Mùa xuân được miêu tả qua các hình ảnh, màu sắc, đường nét:
+ Chim én đưa thoi: biểu tượng của mùa xuân
+ Thiều quang: ánh sáng ngày xuân đẹp đẽ bao trùm không gian.
+ Cỏ non xanh tận chân trời: không gian bao la tràn ngập sự sống của mùa xuân.
+ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa: đảo ngữ nhấn mạnh hình ảnh những bông hoa lê với sắc trắng đặc trưng cho mùa xuân.
=> Bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình: cảnh mùa xuân được khắc họa qua cái nhìn của nhân vật đang đứng trước ngưỡng cửa của tình yêu hiện ra mới mẻ, tinh khôi và tràn đầy sức sống.
Câu 85:
04/02/2025Lễ hội mùa xuân được khắc hoạ qua các hình ảnh nào trong Cảnh ngày xuân?
Lễ hội mùa xuân được khắc họa qua hai hoạt động chính: Lễ tảo mộ và hội đạp thanh.
- Lễ tảo mộ: dọn dẹp, sửa sang phần mộ của người thân, thắp hương...
- Hội đạp thanh: chơi xuân ở chốn đồng quê
- Các từ ghép:
+ Gần xa, nô nức (Tính từ) -> tâm trạng náo nức
+ Yến anh, tài tử, giai nhân (Danh từ): gợi sự đông vui náo nhiệt
+ Sắm sửa, dập dìu (Động từ): không khí rộn ràng, nhộn nhịp
=> Dùng các từ ghép liên tiếp, từ Hán Việt, từ láy, phép ẩn dụ: Quang cảnh hội mùa xuân rộn ràng, náo nức, vui tươi cùng những nghi thức trang nghiêm mang tính chất truyền thống của người Việt tưởng nhớ đến người đã khuất.
Câu 86:
04/02/2025Cảnh vật buổi chiều được miêu tả có gì khác với cảnh buổi sáng qua bài Cảnh ngày xuân?
- Bức tranh mùa xuân trong buổi chiều tà vẫn rất đẹp, rất êm đềm: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một dịp cầu...nhưng đã thấm đẫm tâm trạng của con người
- Bóng ngả về tây: Thời gian, không gian thay đổi, gợi khoản thời gian buổi chiều, gợi sự vắng lặng.
- “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”: Hội vui kết thúc, con người “thơ thẩn” quay trở về.
- Tà tà, thanh thanh, nao nao, thơ thẩn -> các từ láy không chỉ gợi cảnh sắc mà còn gợi tâm trạng con người, đó là nét buồn thương, nuối tiếc
=> Bút pháp cổ điển, tả cảnh ngụ tình => Tâm trạng người bâng khuâng, lưu luyến về một ngày vui xuân đã hết.
Câu 87:
04/02/2025Đoạn trích Cảnh ngày xuân kể lại việc gì? Xác định bố cục của đoạn trích?
- Đoạn trích Cảnh ngày xuân: Đoạn trích đã miêu tả lại quang cảnh du xuân trong tiết Thanh minh, nơi mà Thúy kiều lần đầu gặp Kinh Trọng và nảy sinh tình cảm lứa đôi.
- Bố cục: 3 phần theo trình tự thời gian của cuộc du xuân
+ Phần 1 (4 dòng đầu): Khung cảnh ngày xuân.
+ Phần 2 (8 dòng tiếp theo): Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
+ Phần 3 (6 dòng cuối): Cảnh hai chị em Kiều du xuân trở về.
Câu 88:
04/02/2025Qua bốn dòng thơ đầu bài Cảnh ngày xuân, em hình dung quang cảnh được Nguyễn Du miêu tả như thế nào?
Bốn câu thơ đầu miêu tả bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân
* Hai câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã gợi ra không gian và thời gian trôi qua của mùa xuân:
- Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con én đưa thoi” quen thuộc vào những ngày xuân, câu thơ vừa thể hiện vẻ đẹp của không gian, vừa gợi lên sự chảy trôi rất nhanh của thời gian:
– Cánh én bay nhanh và nhiều như thoi đưa là hình ảnh ẩn dụ phản chiếu sự nhanh, gấp của thời gian. Cũng giống như cánh chim vụt bay, thời gian có những bước đi nhanh, vội, chả mấy chốc mà mùa xuân tươi đẹp này sẽ qua đi
– Sử dụng từ “thiều quang” có tác dụng tả thực thời tiết ấm áp của mùa xuân khi được những tia nắng lấp lánh chiếu rọi
– Câu thơ gợi lên một không gian ngày xuân tươi đẹp, trong lành và tràn đầy sức sống tựa như đang dang tay đón những tia nắng xuân vàng dịu được mẹ thiên nhiên ban phát xuống vạn vật.
=> Thông qua hệ thống hình ảnh thơ trong 2 câu thơ đầu của đoạn trích không những gợi lên sự chuyển động nhanh, vội của thời gian mà còn thể hiện phần nào tâm trạng, cảm xúc của hai chị em Thúy Kiều, có chút tiếc nuối và lưu luyến. Qua đó, người đọc đã hình dung được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp, ấm áp, đồng thời cảm nhận được bao tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật trữ tình.
* Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân sinh động, mở rộng ra cả không gian trời và đất với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:
- Sử dụng hình ảnh “cỏ non” quen thuộc và gần gũi, song hình ảnh đã đem lại nhiều nét đặc sắc cho bức tranh xuân:
– Hình ảnh giúp gợi ra trước mặt người đọc một không gian mênh mông. Trong đó, làm nền cho bức tranh chính là thảm cỏ non tươi xanh mơn mởn, trải dài đến tận chân trời, tạo ra hai mảng màu xanh: một là của trời, một của đất.
– Sử dụng từ “tận”, Nguyễn Du đã biến không gian xuân trong những câu thơ được mở rộng ra bao la, bát ngát
- Sử dụng hình ảnh thơ “cành lê trắng điểm”, tác giả đã thể hiện khả năng tài tình của mình trong việc vận dụng nghệ thuật bút pháp chấm phá: Trên nền màu xanh non của cỏ cây, xanh trong của trời đất là những bông hoa lê trắng, tạo ra sự tinh khôi, nổi bật vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt của vạn vật trong mùa xuân. Đồng thời khiến cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thuần khiết hơn.
– Tác giả sử dụng từ “điểm” thay vì các động từ khác. Điều này giúp gợi sự thanh thoát của những cành lê. Những cành lê tựa như đôi tay của người họa sĩ, chủ động tạo nét chấm phá, điểm thêm nét vào bức tranh cảnh vật nhằm thêm phần sống động, có hồn hơn
– Sử dụng biện pháp đảo ngữ từ “trắng” lên trước động từ “điểm”, tác giả muốn nhấn mạnh và màu sắc của cành hoa lê, làm nổi bật màu trắng tinh khôi của hoa lê, màu của sự kết tinh từ tinh hoa của trời đất.
– Trong bức tranh xuân sinh động ấy, tác giả chỉ sử dụng 2 gam màu nhưng đã tạo ra sự hòa phối rất đỗi hài hòa giữa màu xanh của cỏ và sắc trắng của hoa lê.
=> Bằng bút pháp chấm phá tài tình, qua 4 câu thơ đầu của đoạn trích, ta thấy vẻ đẹp mùa xuân hiện lên không hề mang tính ước lệ mà mang vẻ đẹp rất thực, rất đẹp đẽ. Thành công của Nguyễn Du là đã phác họa được một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo. Từ đó, giúp người đọc có thể cảm nhận một bức họa thiên nhiên hoàn hảo, đầy sức sống đang ở ngay trước mắt. Đồng thời, cảm nhận được cảm giác tươi vui, phấn chấn xen lẫn chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình
Câu 89:
04/02/2025Lễ hội trong tiết Thanh minh được miêu tả như thế nào trong tám dòng thơ tiếp theo bài Cảnh ngày xuân?
a. Hai câu thơ đầu: Những hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh
Hai câu thơ miêu tả những hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh đã thể hiện khả năng sử dụng ngôn từ điêu luyện của Nguyễn Du:
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.”
Sử dụng nghệ thuật tiểu đối, tác giả tách hai từ “lễ hội” ra thành “lễ” và “hội” để giải thích về hai hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh:
– “Lễ là tảo mộ” hay “lễ tảo mộ” mà hoạt động mà con cháu đi viếng và sửa sang phần mộ của người thân, gia đình, tổ tiên. Lễ tảo mộ là một nét văn hóa truyền thống, thể hiện sự tri ân của những nam thanh, nữ tú với tổ tiên trong những ngày du xuân.
– “Hội là đạp thanh” hay “hội đạp thanh” ý muốn miêu tả việc đi chơi xuân ở chốn đồng quê thường phải giẫm lên cỏ xanh. Đây là ngày hội vui nhất của mùa xuân đối với những nam thanh nữ tú để tìm kiếm đối nhân, tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.
=> Có thể hiểu trong câu thơ trên, “lễ” và “hội” diễn ra trong tiết thanh minh: một là đi tảo mộ (lễ) và hai đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội). Tuy là hai hoạt động văn hóa khác biệt nhưng chúng lại có một sự giao hòa độc đáo trong thơ của Nguyễn Du.
b. Sáu câu thơ tiếp theo: Không khí của lễ hội ngày xuân
Bốn câu thơ tiếp theo là không khí tưng bừng, tấp nập của lễ hội mùa xuân, được gợi lên qua những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”
– Sử dụng hệ thống danh từ: “yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân”, tác giả đã thể hiện sự đông vui, nô nức, tấp nập trong ngày hội xuân – nơi mà tất cả mọi người đều háo hức tham gia
– Sử dụng các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu, tác giả đã gợi tả không khí rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội. Từ già trẻ, gái trai đều chọn cho mình những bộ trang phục đẹp nhất để cùng nhau tham gia và lễ hội mùa xuân. Trước mắt người đọc như hiện lên một bức tranh đầy náo nhiệt với âm thanh của người người, dập dìu, sánh vai cùng nhau đi chơi xuân.
– Sử dụng tính từ: “gần xa” và từ láy “nô nức” đã góp phần bộc lộ tâm trạng hồ hởi, phấn khởi của người đi hội xuân.
Sử dụng khéo léo hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần làm nổi bật, tô đậm không khí nhộn nhịp của khung cảnh lễ hội xuân:
– Hình ảnh giúp gợi lên cảnh tượng về những đoàn người nối đuôi nhau, vừa đi vừa trò chuyện, đông đúc và dập dìu như từng bầy chim yến, chim oanh ríu rít.
– Phép ẩn dụ còn thể hiện âm thanh của những cuộc trò chuyện, giao lưu tình tứ của những đôi uyên ương trong lễ hội ngày xuân.
– Sử dụng hình ảnh so sánh trong câu thơ “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, tác giả đã vẽ lên khung cảnh đông đúc, không khí tưng bừng, náo nhiệt của buổi du xuân diễn ra trong tiết thanh minh
Bên cạnh không khí tưng bừng, huyên náo ấy, tác giả đã khéo léo xen vào một khoảng lặng, một nốt trầm trong giọng điệu thơ, khiến người đọc cảm nhận được tâm trạng con người như chùng xuống cùng lời thơ:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”
– Chỉ bằng hai câu thơ, tác giả dường như đã làm sống lại những nét văn hoá xưa của người Việt Nam, đó là tục lệ đốt vàng mã được thể hiện qua hình ảnh “ngổn ngang gò đống” và “tro tiền giấy bay”. Trong đó, trọng tâm của khung cảnh là sự xuất hiện của những nam thanh, nữ tú đang cùng nhau sửa sang, rắc vàng vó, hóa tiền giấy cho những người đã khuất, thực hiện nghi lễ của lễ tảo mộ. Tuy chỉ là nghi thức nhưng những chi tiết như “thoi vàng” và “tiền giấy” đã góp phần tạo ra một bầu không khí ngày xuân thêm phần trang trọng và tôn nghiêm.
– Mặt khác, việc tác giả đề cập tới nghi thức truyền thống đã thể hiện một niềm tự hào, tôn vinh truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc Việt ta. Đó là một lối sống ân nghĩa thủy chung cần được duy trì ngàn đời sau
=> Qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, tài năng của Nguyễn Du đã được chứng minh. Ông không chỉ là một người có con mắt quan sát tinh tế mà còn có sự am hiểu, tôn trọng sâu sắc đối với những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Câu 90:
04/02/2025Hãy so sánh bức tranh thiên nhiên ở bốn dòng thơ đầu và sáu dòng thơ cuối, phân tích để thấy được mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Bức tranh thiên nhiên trong 4 dòng thơ đầu và 6 dòng thơ cuối đều miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân. Nhưng chúng khác nhau bởi tâm cảnh của con người.
Bức tranh mùa xuân buổi sáng vô cùng sinh động, náo nức, tinh khôi, giàu sức sống với cỏ non, cành hoa lê trắng…
Bức tranh mùa xuân trong buổi chiều tà vẫn rất đẹp, rất êm đềm: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một dịp cầu...nhưng đã thấm đẫm tâm trạng của con người.“Tà tà bóng ngả về tây” gợi khoản thời gian buổi chiều, gợi sự vắng lặng. Hội vui kết thúc, con người “thơ thẩn” quay trở về. Nhiều từ láy được sử dụng: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ”: không chỉ gợi cảnh sắc mà còn gợi tâm trạng con người, đó là nét buồn thương, nuối tiếc. Đây là cảm giác bâng khuâng xen lẫn tiếc nuối bao trùm lên con người và cảnh vật, cũng là dự cảm về một nỗi buồn thương chưa thể lí giải của người thiếu nữ nhạy cảm và sâu lắng.
Câu 91:
04/02/2025Khái quát những thành công về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (việc sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình ảnh; những biện pháp nghệ thuật chủ yếu; thể thơ lục bát, …).
– Sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, Nguyễn Du không những kể, tả mà còn biểu đạt xuất sắc tâm tư, tình cảm và cảm xúc của nhân vật chính cũng như góc nhìn của ông về thiên nhiên đất trời mùa xuân.
– Sử dụng nhuần nhuyễn bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp tác giả lồng ghép được nhiều lớp ý nghĩa trong từng câu thơ.
- Sử dụng ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều từ láy miêu tả cảnh vật và tâm trạng con người, diễn tả tinh tế tâm trạng nhân vật.
- Miêu tả theo trình tự thời gian cuộc du xuân của hai chị em.
- Tả cảnh thiên nhiên bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu chất tạo hình.
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,… góp phần tạo ra sự sinh động cho bức tranh cảnh vật và sự đồng cảm của người đọc với nhân vật.
Câu 92:
04/02/2025Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, em thích nhất hình ảnh nào? Vì sao?
Trong đoạn trích trên, em thích nhất hình ảnh:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Câu thơ mở ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với hình ảnh cỏ non xanh mướt tới tận chân trời và hoa lê đang bắt đầu nở khi xuân sang. Bức tranh có sự hài hòa đến tuyệt diệu. Màu trắng tinh khôi của hoa lê hòa cùng với màu xanh non mỡ màng của cỏ. Không gian rộng lớn bạt ngàn ngút ngàn với những bãi cỏ “rợn chân trời” kết hợp với không gian thu nhỏ trên một cành hoa xuân. Tất cả gợi lên một sức sống tràn đầy, một bầu khí quyển trong trẻo, nên thơ, dịu nhẹ của tiết thanh minh. Xuân về khoác áo xanh cho cỏ, mặc áo trắng cho hoa. Cỏ và hoa bừng dậy sau giấc ngủ đông dài lạnh lẽo để rồi cỏ non nối tiếp chân trời xanh, và hoa lê bừng sắc trắng trên cành. Còn gì đẹp hơn thế, còn gì trong trẻo hơn thế! Câu thơ của Nguyễn Du làm ta chợt nhớ tới câu thơ của thi nhân Ức Trai ngay trước:
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên)
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Cùng đặc tả màu xanh của cỏ nhưng mỗi thi nhân lại có cảm nhận rất khác nhau. Nếu đến với thơ Nguyễn Trãi, cỏ dưới làn mưa xuân giăng nhè nhẹ “xanh như khói” thì trong thơ của Nguyễn Du màu xanh của cỏ vẫn vẹn nguyên có cảm giác như cỏ nối liền chân trời tạo làm không gian được mở rộng tới vô cùng. Đó phải chăng chính là sức hấp dẫn của thơ ca, cùng viết một hình ảnh nhưng ở mỗi một bài thơ, qua những lăng kính nhìn khác nhau sẽ đem đến những cách cảm nhận riêng biệt, không trộn lẫn.
Câu thơ của Nguyễn Du được lấy tứ từ câu thơ cổ Trung Hoa:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp có màu sắc, có đường nét đặc biệt lại có cả hương thơm. Đó là hương thơm của cỏ non “phương thảo”. Đó là màu xanh mướt của cỏ nối liền với trời xanh “liên thiên bích”. Đó còn là đường nét của cành lê điểm nhẹ vài bông hoa mới nở “sổ điểm hoa”. Câu thơ của Nguyễn Du rất gần với tứ của câu thơ này. Nhưng chúng có nét giống nhau chứ không hề đồng nhất. Nguyễn Du đã có những sáng tạo của riêng mình để đem lại sức hấp dẫn cho câu thơ của Truyện Kiều. Nếu như câu thơ cổ Trung Hoa chỉ miêu tả một cách đơn thuần: cành lê có một vài bông hoa thì câu thơ trong Truyện Kiều lại nhấn mạnh màu sắc của hoa “trắng điểm”. Ở đây tính từ “trắng” đã được động từ hóa, câu thơ không chỉ nói lên màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy. Câu thơ không hề tĩnh tại mà có tính chất động. Chúng ta không chỉ cảm nhận được một màu trắng tinh khôi của hoa lê mà còn dường như thấy được cả những mạch sống đang cựa mình trỗi dậy theo bước chuyển mình của mùa xuân. Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ đôi câu thơ nhưng cũng đủ cho ta thấy sự sáng tạo, sức bút kì diệu của thiên tài Nguyễn Du. Đó phải chăng chính là một trong những yếu tố làm nên sức sống bất diệt của Truyện Kiều,Truyện Kiều của Nguyễn Du nằm ngoài sự “băng hoại” của thời gian.
Câu 93:
04/02/2025Đọc trước đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tìm hiểu thêm những thông tin về Danh nhân văn hoá Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên.
- Những thông tin về Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu:
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822) tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên; nay thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lớn lên, ông Huy cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái). Mùa hạ tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành. Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh ra bảy con (4 trai, 3 gái) và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Thuở bé, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một ông thầy đồ ở làng.
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế nên bị cách hết chức tước. Xong vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem con ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840) thì trở về Gia Định.
Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849). Lần này ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi).
Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng 12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường nên đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết nhưng ông cũng đã học được nghề thuốc. Lâm cảnh mù mắt, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851 thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Truyện thơ Lục Vân Tiên của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc; trước thuộc Gia Định, nay thuộc tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy đã xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này
- Tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên:
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu của thể loại truyện thơ Nôm thế kỉ XIX, đặc biệt trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ. Tác phẩm có yếu tố tự truyện với nhiều chi tiết giống cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu.
Truyện Lục Vân Tiên chia thành ba phần. Phần thứ nhất: Gặp gỡ, kể chuyện Lục Vân Tiên từ giã thầy xuống núi dự thi. Trên đường về quê thì gặp giặc cướp. Chàng một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Sau khi gặp cha mẹ, Vân Tiên lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái cho chàng. Vân Tiên gặp và kết bạn với Vương Tử Trực, cùng tới kinh đô, gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm đem lòng ghen ghét.
Phần thứ hai: Lưu lạc, kể việc khi vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi về quê chịu tang. Chàng khóc mẹ, mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa, đẩy xuống sông, Nhờ giao long dìu vào bờ, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó, chàng bị cha cin Võ Công hãm hại, đem bỏ vào hang núi, rồi được Du Thần và ông Tiều cứu giúp. Còn Kiều Nguyệt Nga, sau khi nghe tin Lục Vân Tiên chết, nàng thỉ tiết thờ chàng. Thái sư đương triều hỏi Nguyệt Nga cho con trai không được, bèn tâu vua bắt nàng cống cho nước Ô Qua. Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự vẫn, được Phật Bà Quan Âm cứu sống rồi bị Bùi Kiệm ép làm vợ, khiến nàng phải bỏ trốn vào rừng.
Phần thứ ba: Đoàn tụ, kể việc Lục Vân Tiên được tiên cho thuốc nên mắt sáng lại. Chàng đỗ trạng nguyên và được nhà vui cử đi đánh giặc Ô Qua. Đánh tan giặc, Vân Tiên bị lạc trong rừng và gặp Nguyệt Nga. Hai người được sum vầy, hạnh phúc.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở Phần thứu nhất: Gặp gỡ.
Câu 94:
04/02/2025Chú ý việc sử dụng từ ngữ mang sắc thái Nam Bộ trong cả đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
Ngôn ngữ thơ trong đoạn trích mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường và mang màu sắc địa phương Nam bộ rõ nét, phù hợp với diễn biến tình tiết truyện: xông vô (xông vào), mầy (mày), chưa hãn dạ nầy (hãn: rõ, nầy: này), hay vầy (biết như thế này). Những từ ngữ đó mặc dù có phần thiếu chau chuốt, uyển chuyển nhưng phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng. Đặc biệt, nó ghi dấu đậm sâu trong cảm nhận của người đọc về tư thế dũng cảm, xả thân vì nghĩa lớn, không sợ hiểm nguy, tấm lòng chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài của Lục Vân Tiên.
Câu 95:
04/02/2025Nhận biết các chi tiết miêu tả hành động của Lục Vân Tiên.
Những chi tiết miêu tả hành động trượng nghĩa của Lục Vân Tiên trong hoàn cảnh trên đường đi thi, ghé về nhà:
- Lục Vân Tiên trong tình thế một mình đơn độc tay không đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga: Dũng cảm, gan dạ.
- Thái độ: bất bình.
- Hành động: bẻ cây làm gậy. xông vô.
- “tả đột hữu xông: Người anh hùng chủ động, linh hoạt.
- Lời nói : « Bớ đảng hung đồ…. »
-> Tác giả sử dụng pháp so sánh, thành ngữ, miêu tả tư thế dũng cảm, xả thân vì nghĩa lớn, không sợ hiểm nguy, tấm lòng chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài
=> Lục Vân Tiên hành động kịp thời, khẩn trương, không chút chần chừ, do dự, cũng không tính toán thiệt hơn => quyết liệt và dũng cảm
Câu 96:
04/02/2025Chú ý lời đối thoại giữa hai nhân vật chính trong Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
* Cách cư xử của Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga:
- Lời nói:
+ Hỏi: “ai than khóc” => quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ.
Khẳng định: “ta đã...” => an ủi.
+ Chàng cười nói hỏi han ôn tồn “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”
“khoan khoan......là phận trai”
=> giản dị, mộc mạc, chân thành của chàng trai Nam Bộ.
=> Hiểu và xem trọng lễ giáo, cư xử đúng mực, coi trọng danh dự.
- Thái độ: vô tư, trong sáng, khiêm nhường, coi trọng khí phách, bổn phận của người anh hùng.
- Cách ứng xử đứng đắn, đàng hoàng lịch sự.
=> Vân Tiên là nhân vật lí tưởng, chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm, nhân hậu. Đồng thời, chàng là hiện thân của cái thiện : Khát vọng cháy bỏng của người làm trai, người anh hùng nghĩa hiệp : tuổi trẻ tài cao, lòng đầy khao khát muốn lập công danh, đem tài năng cứu người giúp đời.
* Cách cư xử của Kiều Nguyệt Nga:
+ Thái độ: biết ơn => trọng nghĩa.
+ Cử chỉ: cúi đầu lạy
+ Lời nói: thưa, gửi => lễ phép.
+ Xưng hô khiêm nhường:
“quân tử, tiện thiếp => nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước
+ Tính cách: chân thực, hiếu thảo, trọng nghĩa.
- Cách cư xử: cảm kích, áy náy, băn khoăn, tìm cách trả ơn => sống ân nghĩa, trọng tình cảm, một lòng tri ân người đã cứu mình.
=> Kiều Nguyệt Nga là con gái quan tri phủ xinh đẹp, hiếu thảo, thuỳ mị, nết na, có học thức, có giáo dục và trọng tình nghĩa.
Câu 97:
04/02/2025Nguyệt Nga đã thể hiện lòng biết ơn với Lục Vân Tiên như thế nào?
Qua đoạn thơ :
"Lâm nguy chẳng kịp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo…đền ơn cho chàng…”
Ta thấy được rằng Kiều Nguyệt Nga rất cảm kích trước ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên. Bởi vì, không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng (đối với người con gái, điều đó còn quý hơn cả tính mạng). Dù biết rằng đền đáp mấy cũng không đủ, nàng quyết định gắn bó cuộc đời với Lục Vân Tiên. Nàng đã thuỷ chung, son sắc, dám liều mình để giữ trọn ân tình với Lục Vân Tiên: Bị ép duyên, đi cống giặc Ô Qua nàng đã ôm bức hình Lục Vân Tiên nhảy sông tự tử.
=> Mối tình thuỷ chung của nàng đã được đền đáp.
Vẻ đẹp tinh thần của Kiều Nguyệt Nga tạo thành bức chân dung tuyệt đẹp về người phụ nữ, chinh phục được niềm yêu mến của nhân dân: Kế thừa và phát huy nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, nêu ước mơ phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp, gò bó của lễ giáo phong kiến: Tình yêu tự do.
Câu 98:
04/02/2025Vân Tiên đã có hành động như thế nào trước thái độ của Kiều Nguyệt Nga?
Trước thái độ biết ơn của Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã có những hành động:
- Gạt ngay khi thấy thái độ muốn lạy để tạ ơn, chàng còn từ chối luôn lời mời về nhà để cả gia đình nàng đền đáp của Kiều Nguyệt Nga “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”.
- Đối với Lục Vân Tiên, Việc cứu giúp người gặp nạn là chuyện hiển nhiên không cần bất cứ lời cảm ơn hay đền đáp gì. Với bất cứ ai, chàng cũng sẽ lựa chọn giúp đỡ mà không cần suy nghĩ “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
- Cách từ chối của Lục Vân Tiên đã giúp người đọc thấy được thái độ của chàng. Với chàng, những việc mình vừa làm xuất phát từ chính bản năng của con người, là gốc rễ của lẽ sống con người, là lời phê phán nặng nề với những ngụy quân tử.
Câu 99:
04/02/2025Có thể chia đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga làm mấy phần? Trình bày nội dung chính của từng phần?
* Bố cục đoạn trích:
- Phần 1: 14 câu đầu: Miêu tả cảnh Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp, tiêu diệt tên cầm đầu Phong Lai để cứu Kiều Nguyệt Nga.
- Phần 2: Phần còn lại: Cuộc trò chuyện giữa Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga sau khi giải cứu nàng.
Câu 100:
04/02/2025“Nhân vật trong truyện thơ Nôm thường được chia thành hai tuyến đối lập nhau”, đặc điểm đó được thể hiện như thế nào trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga?
Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nhân vật được chia thành hai tuyến đối lập nhau như sau:
- Phe chính nghĩa: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga thể hiện tính cách ngay thẳng, thiện lương, trọng nghĩa khí của con người.
+ Lục Vân Tiên: Là tuyến nhân vật chính, Lục Vân Tiên được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hình tượng như một anh hùng với sự mạnh mẽ, dứt khoát với toán cướp. Bên cạnh đó, Lục Vân Tiên cũng có những phẩm chất của học trò Nho gia đó là sự hiểu biết lễ nghĩa, có học thức, khi trò chuyện cùng Kiều Nguyệt Nga thì nhã nhặn, giữ khoảng cách và thể hiện sự quan tâm.
+ Kiều Nguyệt Nga: Là đại diện cho hình ảnh người con gái con quan thời kỳ phong kiến với sự dịu dàng, đoan trang, khuê các, hiếu nghĩa, biết trước biết sau. Khi nói chuyện với Lục Vân Tiên – người đã cứu mình thì rất nhẹ nhàng, cảm kích, biết ơn và đầy thiện cảm.
- Phe phản diện: Phong Lai, toán cướp,… phần xấu xa, gian ác, hung dữ của những tên hẹn hạ, ngụy quân tử. Trong đó Phong Lai: Nhân vật phản diện, là kẻ đứng đầu toán cướp. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng một tên cướp ngông nghênh, hung dữ, gian ác, không có học thức. Khi nói chuyện thì giọng điệu ngang tàng, kiêu căng và hống hách.
Bài thi liên quan
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ Văn (phần 1)
-
100 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ Văn (phần 2)
-
100 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ Văn (phần 3)
-
100 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ Văn (phần 4)
-
100 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ Văn (phần 6)
-
100 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ văn (phần 7)
-
100 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ văn (phần 8)
-
63 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ văn (phần 9)
-
0 câu hỏi
-
0 phút
-
-
Tổng hợp câu hỏi môn Ngữ văn (phần 10)
-
0 câu hỏi
-
0 phút
-