Trở về - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12 - Kết nối tri thức

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Trở về Ngữ văn lớp 12 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 12. Mời các bạn đón xem:

1 112 12/11/2024


Tác giả tác phẩm: Trở về - Ngữ văn 12

I. Tác giả O-nít Hê-minh-uê

- O-nít Hê-minh-uê (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo nổi tiếng của nển văn học hiện đại Mỹ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được coi là một diển hình cho "thế hệ lạc lối" - danh xưng chỉ lớp người trưởng thành trong Chiến tranh thế giới lẩn thứ nhất và phải gánh chịu những di hại tinh thẩn nặng nề của sự kiện này.

- Ông cũng là người đưa ra "nguyên lí tảng băng trôi" trong sáng tác văn học, theo đó những ngôn từ nhà văn viết ra chỉ là phần nổi của tảng băng, còn ý nghĩa thực sự của tác phẩm nằm ở phần chìm của nó.

- Các tiểu thuyết tiêu biểu của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940), Ông già và biển cả (1952). Năm 1954, Hê-minh-uê dược trao giải Nô-ben (Nobel) Văn học.

Trở về - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

II. Tìm hiểu văn bản Trở về

1. Thể loại

- Tác phẩm Trở về thuộc thể loại: tiểu thuyết.

2. Xuất xứ

- Linh Nguyễn dịch

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

4. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề "Trở về" trong đoạn trích trích từ tiểu thuyết "Ông già và biển cả" gợi lên những suy nghĩ và liên tưởng sau:

- Hành trình trở về mang ý nghĩa về mặt thể xác:

+ Sau 84 ngày lênh đênh trên biển, Santiago - nhân vật chính - cuối cùng đã trở về bến cảng với con cá marlin khổng lồ.

+ Hình ảnh "trở về" thể hiện sự an toàn, kết thúc hành trình đầy gian nan, thử thách của ông lão.

+ Tuy nhiên, con cá marlin khổng lồ đã bị cá mập tấn công, chỉ còn lại bộ xương, tượng trưng cho sự mất mát to lớn về vật chất và tinh thần của Santiago.

- Hành trình trở về mang ý nghĩa về mặt tinh thần:

+ Hành trình ra khơi đánh bắt cá marlin là hành trình chinh phục thử thách, khẳng định bản thân của Santiago.

+ Trên biển, ông lão đối mặt với sự cô đơn, hiểm nguy, và cả những nghi ngờ về khả năng của bản thân.

+ Tuy nhiên, ông đã chiến thắng bản thân, chiến thắng con cá marlin khổng lồ, và chiến thắng cả thiên nhiên khắc nghiệt.

+ Việc "trở về" bến cảng mang ý nghĩa Santiago đã hoàn thành hành trình chinh phục bản thân, khẳng định ý chí và nghị lực phi thường của con người.

- Hành trình trở về mang ý nghĩa về mặt triết lý:

+ Hình ảnh con cá marlin khổng lồ tượng trưng cho ước mơ, hoài bão của con người.

+ Việc Santiago chinh phục được con cá marlin thể hiện niềm tin vào khả năng chiến thắng thử thách, theo đuổi ước mơ của con người.

+ Tuy nhiên, con cá marlin cũng bị cá mập tấn công, tượng trưng cho sự mất mát, hy sinh trong cuộc sống.

-"Trở về" với bộ xương cá marlin là trở về với sự thật về cuộc sống: có chiến thắng, có mất mát, nhưng con người vẫn cần tiếp tục hành trình của mình.

- Liên tưởng đến những hành trình khác trong cuộc sống:

+ Mỗi người trong cuộc đời đều có những "hành trình" riêng, với những thử thách, khó khăn và cả những thành công.

+ Việc "trở về" sau mỗi hành trình là sự trưởng thành, là bài học quý giá để tiếp tục tiến bước trên con đường phía trước.

- Nhan đề "Trở về" là lời nhắc nhở mỗi người về ý nghĩa của cuộc sống, về hành trình chinh phục bản thân và theo đuổi ước mơ, đồng thời cũng là lời động viên trước những thử thách mà chúng ta có thể gặp phải.

- Nhìn chung, nhan đề “Trở về” trong đoạn trích trích từ tiểu thuyết “Ông già và biển cả” là một nhan đề gợi mở, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc. Nhan đề này không chỉ thể hiện hành trình trở về bến cảng của Santiago mà còn là hành trình trở về với bản thân, với những giá trị cốt lõi của cuộc sống, và là lời nhắn nhủ về ý nghĩa của hành trình chinh phục ước mơ của con người.
5. Bố cục Trở về

- Phần 1 (từ đầu đến "lòng bàn tay ngửa lên."): Ông lão trở về đất liền trong đêm tối, dùng hết sức lực còn lại để đưa chiếc thuyền cùng với cái đầu và bộ xương khổng lồ của con cá kiếm vào bờ. Sau đó, ông về lán và lăn ra ngủ.

- Phần 2 (tiếp theo đến "thằng bé nói."): Sáng hôm sau cậu bé đến lán, nhìn lão ngủ và khóc. Cậu bé đi mua cà phê cho ông lão. Một nhóm ngư dân vây quanh và đo bộ xương khổng lồ của con cá kiếm, họ gửi lời hỏi thăm ông lão qua cậu bé.

- Phần 3 (từ "Thằng bé mang lon cà phê" đến "tiếp tục khóc."): Khi cậu bé mang cà phê đến, ông lão tỉnh dậy, hai người trò chuyện với nhau về khoảng thời gian qua và lên kế hoạch cho chuyến đi câu cá cùng nhau sắp tới.

- Phần 4 (từ "Chiều hôm đó" đến "cô ta nói."): Chiều tối hôm đó, hai du khách trong bữa tiệc ở khách sạn nhìn thấy bộ xương con cá kiếm nhưng lại tưởng nhầm rằng đó là bộ xương của con cá mập.

- Phần 5 (phần còn lại): Ông lão quay lại với giấc ngủ sâu và mơ về những con sư tử trong khi cậu bé ngồi bên cạnh nhìn lão ngủ.

6. Tóm tắt Trở về

Tác phẩm kể lại việc ông lão Xan-ti-a-gô rượt đuổi và bắt được con cá kiếm. Ông lão Xan-ti-a-gô thường đánh cá ở vùng Nhiệt lưu. Nhưng đã 84 ngày ông không bắt được con cá nào. Cậu bé Ma-nô-lin thường đi câu với ông cũng bị cha mẹ không cho đi theo ông nữa. Đêm ngủ, ông lão mơ về thời trẻ với tiếng sóng, hương vị biển, những con tàu và những đàn sư tử. Đến ngày thứ 85, ông quyết định ra khơi một mình. Lão Xan-ti-a-gô câu được con cá kiếm khổng lồ. Con cá kéo dây câu quanh thuyền, ông lão đuối sức nhưng vẫn cố chịu đựng. Cuối cùng con cá cũng khuất phục trước ông. Trên đường trở về, đàn cá mập đánh hơi được đã tấn công và ông lão Xan-ti-a-gô lại tiếp tục chống trả quyết liệt. Cuối cùng khi vào tới bờ, con cá kiếm khổng lồ mà ông bắt được chỉ còn trơ lại bộ xương trắng. Về đến lều, ông lão vật người xuống giường chìm vào giấc ngủ và mơ về những đàn sư tử.

7. Giá trị nội dung

- Hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc, dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ để biến ước mơ thành hiện thực. Sự chuyển hóa bức tranh với những nét trần trụi, chân thực, giản dị sang một lớp nghĩa hàm ẩn chính là sự thể hiện nguyên lý “tảng băng trôi”.

8. Giá trị nghệ thuật

- Cách viết dung dị, lời văn có nhiều “khoảng trống”.

- Hình tượng được lựa chọn kĩ lưỡng, mang tính biểu tượng và đa nghĩa.

- Nghệ thuật độc thoại và độc thoại nội tâm.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Trở về

1. Hình tượng ông lão Xan-ti-a-gô

- Hình tượng ông lão được khắc họa qua những lời độc thoại và độc thoại nội tâm

- Sự chiến thắng của ông lão đối với con cá

+ Niềm tin, sự tin tưởng vào bản thân, vào khả năng của bản thân có thể chiến thắng được con cá

+ Ý chí, nghị lực phi thường: dù có những lúc ông lão cảm thấy mệt nhưng ông vẫn cố gắng chiến đấu với con cá kiếm khổng lồ

+ Lòng khát khao chiến thắng

+ Khi chiến đấu với con cá khổng lồ, ông đã thắng nó, ông là một lão đánh cá lành nghề: Chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây ông có thể biết con cá đang bơi vòng tròn hay liên tục ngoi lên trong lúc bơi, dựa trên sự căng chùng của sợi dây có thể đoán được con cá đang làm gì,…

⇒ Qua hình tượng ông lão Xan-ti-a-gô, tác giả Hê-minh-uê muốn: ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đồng thời, qua đó, ông thể hiện niềm tin của mình vào chiến thắng của con người trong cuộc đấu tranh với những khó khăn, thử thách, khắc nghiệt của thiên nhiên.

Trở về - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

2. Các nhân vật trước bộ xương của con cá kiếm

- Ma-nô-lin: Thán phục và hiểu biết => cậu bé thán phục trước sự to lớn của bộ xương => nhận thức được sự to lớn của thiên nhiên.

- Nhóm ngư dân: Ngạc nhiên và thán phục => ngoài sự ngạc nhiên trước kích thước của con cá thì còn là sự thán phục khả năng của ông lão.

- Chủ khách sạn: thờ ơ và thực dụng => ông ta hoàn toàn thờ ơ trước con cá to lớn mà chỉ chăm chăm vào xem kiếm được bao nhiêu lợi nhuận mà thôi.

- Hai người khách du lịch: họ hiếu kỳ trước bộ xương to lớn nhưng cũng hoài nghi về việc ông lão có phải là người đã bắt được con cá hay không.

3. Nhận xét về đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại

- Ngôn ngữ kể chuyện: giản dị, mộc mạc với người nghe; khắc họa sinh động những sự kiện và đồng thời cũng tạo được nhịp điệu cho câu chuyện.

- Ngôn ngữ đối thoại: tự nhiên và bày tỏ cảm xúc chân thực.

- Liên hệ với “nguyên lí tảng băng trôi”: Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại trong đoạn trích sử dụng phong cách cô đọng, hàm ý, mở ra nhiều tầng nghĩa cho người đọc. Cách sử dụng ngôn ngữ này không chỉ tạo chiều sâu cho tác phẩm mà còn khiến người đọc suy ngẫm về nhiều khía cạnh của cuộc sống. Đồng thời, nó thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của Hemingway với "nguyên lý tảng băng trôi", khi chỉ miêu tả những chi tiết bề nổi, để lại nội dung sâu xa cho người đọc tự khám phá.

IV. Đọc văn bản Trở về

Trở về

(trích Ông già và biển cả)

Hơ – minh - uê

“Chẳng còn gì”, lão nói lớn. “Ta đã đi quá xa.”

Khi lão dong chiếc thuyền cập vào bến nhỏ thì đèn đóm ở Thê-rếch-xơ (Terrace) đã tắt và lão biết mọi người đã đi ngủ. Gió càng ngày càng to và bây giờ đang thổi mạnh.

Dù vậy bến cảng rất yên tĩnh và lão đưa thuyền lên trên một bãi cuội nhỏ bên dưới ghềnh đá. Không có ai giúp cả nên lão đã kéo thuyền lên đến mức xa nhất có thể. Rồi lão bước ra và buộc thuyền vào một tảng đá.

Lão tháo cột buồm, cuộn và buộc cánh buồm lại. Rồi lão vác cột buồm lên vai và bắt đầu trèo lên. Đó là lúc lão biết mình đã mệt đến chừng nào. Lão dừng lại một chốc và ngoảnh lại và nhìn thấy cái đuôi khổng lồ của con cá đang dựng thẳng sau đuôi thuyền trong ánh sáng phan chiếu từ đèn đường. Lão nhìn thấy đường nét trần trụi màu trắng của xương sống và khối sẫm màu của cái đầu với lưỡi kiếm nhô ra cùng tất cả sự trống rỗng ở khoảng giữa.

Lão lại bắt đầu leo lên dốc rồi trên đỉnh dốc lão ngã xuống và nằm một lát với cột buồm vắt qua vai. Lão cố ngồi dậy. Nhưng điều đó là quá khó và lão ngồi đó với cột buồm trên vai và nhìn ra đường. Một con mèo đi ngang qua đường phía xa để làm cái gì đó và lão già ngắm nhìn nó. Rồi lão chỉ ngắm nhìn con đường mà thôi.

Cuối cùng lão đặt cột buồm xuống và đứng dậy. Lão nhấc cột buồm đặt lên vai và bắt đầu bước đi. Lão đã phải ngồi xuống nghỉ năm lần trước khi đến được lán của mình.

Vào trong lán, lão dựa cột buồm vào tường. Trong bóng tối lão tìm thấy một chai nước và uống một ngụm. Rồi lão nằm xuống giường. Lão kéo chăn trùm lên đôi vai rồi phủ lên lưng, chân và lão nằm sấp mặt lên đống báo mà ngủ với hai cánh tay duỗi thẳng và lòng bàn tay ngửa lên.

Lão vẫn đang ngủ khi thằng bé ngó qua của vào buổi sáng. Gió thổi mạnh đến nỗi những chiếc thuyền trôi nổi không ra khơi được và thằng bé đã ngủ dậy muộn và di đến lớn của lão như nó vẫn đến mỗi sáng. Thằng bé nhìn thấy ông lão đang thở và rồi nó nhìn thấy hai bàn tay của lão và nó bắt đầu khóc. Nó lặng lẽ đi ra ngoài để lấy chút cà phê và nó cứ khóc suốt cả dọc đường.

Nhiều ngư dân vây quanh chiếc thuyền để xem thủ đang buộc vào mạn thuyền và một ngư dân lội xuống nước, ống quần xắn lên, dùng một sợi dây đo chiều dài bộ xương Thằng bé không đi xuống đó. Nó đã đến đó rồi và một trong những ngư dân đang trông chiếc thuyền cho nó. “Ông lão thế nào rồi?”, một người hét lên. “Đang ngủ”, thằng bé đáp. Nó không để tâm đến chuyện họ nhìn thấy nó khóc. “Đừng để ai làm phiền ông ấy”. “Nó dài mười tám feeti từ mũi đến đuôi”, người đang đo bộ xương kêu lên.

“Cháu tin là thế”, thằng bé nói.

Nó đi đến Thể-rếch-xơ và hỏi mua một lon cà phê.

“Nóng với nhiều đường và sữa.”

“Còn gì nữa không?”

“Không ạ. Rồi cháu sẽ xem ông ấy có ăn được gì không”

“Quả là một con cá ra trò”, chủ khách sạn nói. “Chưa từng có con cá nào như vậy. Hai con cá cháu bắt được hôm qua cũng rất được đấy.”. “Chết tiệt mấy con cá của cháu”, thằng bé nói và nó lại bắt đầu khóc.

“Cháu có muốn lấy đồ uống gì không?”, chủ khách sạn hỏi.

“Không ạ”, thằng bé nói. “Bảo với họ đừng quấy rầy Xan-ti-a-gô (Santiago), cháu sẽ quay lại.”

“Bảo ông ấy là bác rất tiếc nhé.”

“Cảm ơn bác”, thằng bé nói.

Thằng bé mang lon cà phê nóng lên lán của ông lão và ngồi kế bên cho đến khi lão tỉnh dậy. Có một lúc hình như lão sắp thức giấc. Nhưng rồi lão lại chìm vào giấc ngủ say và thằng bé băng qua đường để xin một ít củi hâm nóng cà phê.

Cuối cùng ông lão đã tỉnh dậy.

“Đừng ngồi dậy”, thằng bé nói. “Uống cái này đi.”

Cậu rất một ít cà phê vào cốc.

Ông lão cầm lấy và uống hết.

“Chúng đã đánh bại ông Ma-nô-lin (Manolin) a”, lão nói. “Chúng thật sự đánh bại ông”

“Nó không đánh bại được ông. Không phải là con cá ấy.”

“Không. Thật đấy. Là lúc sau đó ấy”

“Pê-đri-cô (Pedrico) đang trông coi thuyền và các thứ. Ông muốn làm gì với cái đầu ạ?”

“Để Pê-đri-cô băm nó ra làm mồi bẫy cá.”

“Còn lưỡi kiếm?

“Nếu cháu muốn thì cứ giữ lấy nó.”

“Cháu muốn”, thằng bé nói. “Bây giờ chúng là phải lên kế hoạch cho những Bảy Bảo chúng là phải tên việc khác.”

“Họ có tìm ông không?

“Tất nhiên rồi. Cùng với đội bảo vệ bờ biển và máy bay nữa.”

“Đại dương thì rất rộng lớn và chiếc thuyền thì nhỏ và khó nhìn ra được”, ông lão nói. Lão nhận ra thật dễ chịu khi có ai đó để nói chuyện cùng thay vì chỉ nói với chính mình và với biển cả. “Ông nhớ cháu”. Lão nói. “Cháu đã bắt được gì thế?”

“Một con vào ngày đầu tiên. Một con vào ngày thứ hai và hai con vào ngày thứ ba.”

“Giỏi đấy.”

“Bây giờ chúng ta lại đi câu cùng nhau.”

“Không. Ông không may mắn. Ông không còn vận may nữa.”

“Chết tiệt với cái vận may”, thằng bé nói. “Cháu sẽ mang vận may của cháu theo."

“Mọi người ở nhà cháu sẽ nói sao?”

“Cháu không quan tâm. Hôm qua cháu đã bắt được hai con. Nhưng giờ thì chúng ta sẽ đi câu cùng nhau vì cháu còn phải học nhiều thứ lắm.”

“Chúng ta phải tìm một cây lao độ thật sắc bén và phải luôn luôn giữ nó trên thuyền. Cháu có thể làm lưỡi dao từ một cái nhíp của xe Ford cũ. Chúng ta có thể đem nó đến Coa-na-ba-cô-a (Guanabacoa) để mài. Nó phải thật sắc bén và không luyện quá lửa để khỏi bị gãy. Dao của ông gãy rồi.”

“Cháu sẽ tìm một con dao khác và sẽ mang mài cái nhíp”

“Biển động mất mấy ngày nhỉ?”

“Có thể là ba ngày. Có thể hơn.”

“Cháu sẽ thu xếp mọi thứ”, thằng bé nói. “Ông cụ chữa cho tay lành lại đã.”

“Ông biết cách chăm sóc chúng mà. Vào ban đêm ông khạc ra thứ lạ lùng gì đó và cảm thấy như có cái gì trong lồng ngực vỡ ra.”. “Chữa cả cái đó nữa”, thằng bé nói.

“Nằm xuống đi, ông ơi, và cháu sẽ mang cho ông cái áo sạch. Và thứ gì đó để ăn.”

“Mang cho ông bất kì tờ báo nào trong lúc ông đi vắng nhé”, lão nói.

“Ông phải bình phục thật nhanh vì có nhiều thứ cháu phải học và ông có thể dạy cháu mọi thứ. Ông có đau nhiều không?

“Nhiều lắm”, lão nói.

“Cháu sẽ mang thức ăn và báo đến", thằng bé nói. “Nghỉ ngơi di ông ạ. Cháu sẽ đi ra hiệu thuốc mua thuốc chữa tay của ông nữa.”

“Nhớ bảo Pê-đri-cô rằng cái đầu là của anh ấy.”

“Vâng. Cháu nhớ rồi.”

Khi thằng bé ra khỏi cửa và đi xuống con đường mòn rải đá san hô nó lại tiếp tục khóc.

Chiều hôm đó có một bữa tiệc của nhóm khách du lịch ở Thê-rếch-xơ và khi nhìn xuống làn nước giữa những lon bia rỗng và những xác cá, một người phụ nữ trông thấy bộ xương sống to lớn màu trắng với một cái đuôi khổng lồ ở phần cuối cứ nổi lên và đung đưa theo thuỷ triều khi gió đông thổi qua vùng biển cuộn sóng bên ngoài lối vào bến cảng.

“Cái gì thế kia?”. Cô hỏi người bồi bàn và chỉ vào bộ xương sống dài của con cá khổng lồ giờ chỉ còn là rác rưởi chờ thuỷ triều cuốn đi.

“Ti-bu-ron (Tiburon)”, người bồi bàn nói. “Cá mập”

Anh ta định giải thích về chuyện đã xảy ra.

“Tôi không biết là cá mập lại có bộ đuôi phom dáng đẹp để như vậy

“Anh cũng thế”, người đàn ông đi cùng cô ta nói.

Phía ngoài đường, trong cái lán của mình, ông lão lại đang ngủ tiếp. Lão vẫn ngủ trong tư thế úp mặt xuống và thằng bé ngồi bên cạnh nhìn lão ngủ. Lão đang mơ về những con sư tử.

(Linh Nguyễn dịch, http://nguvan.hnue.edu.vn, ngày 06/5/2023)

1 112 12/11/2024


Xem thêm các chương trình khác: