Bước vào đời - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12 - Kết nối tri thức

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Bước vào đời Ngữ văn lớp 12 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 12. Mời các bạn đón xem:

1 85 12/11/2024


Tác giả tác phẩm: Bước vào đời - Ngữ văn 12

I. Tác giả văn bản Bước vào đời

Bước vào đời - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

- Đào Duy Anh (1904 – 1988) quê ở huyện Thanh Oai, Hà Nội, là học giả có những đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu.

- Ông tham gia phong trào yêu nước, cách mạng và các hoạt động dịch thuật, nghiên cứu từ rất sớm.

II. Tìm hiểu văn bản Bước vào đời

1. Thể loại

- Tác phẩm Bước vào đời thuộc thể loại: hồi kí.

2. Xuất xứ

- Theo Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB Hà Nội, 2020, tr.9 – 12.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

4. Bố cục Bước vào đời

- Phần 1 (từ đầu đến …quan lại tham dự): giới thiệu về bản thân mình.

- Phần 2 (tiếp theo đến …cõi văn minh): khi "Tôi" được gặp cụ Phan Bội Châu.

- Phần 3 (đoạn còn lại): sức ảnh hưởng của những nhân vật lịch sử đối với cá nhân “tôi”.

5. Tóm tắt Bước vào đời

Văn bản "Bước vào đời" là đoạn trích hồi kí kể về bước đầu quá trình nhận ra điều bản thân muốn làm cũng như việc định hướng cho tương lai chính mình của nhân vật "tôi". "Tôi" là một nhà giáo dạy ở trưởng tiểu học tỉnh lị Quảng Bình, anh luôn chăm chỉ dạy học và đọc sách với mong muốn mở mang kiến thức và kiếm được công việc tốt hơn ở nơi trung tâm văn hóa chính trị có cuộc sống sinh hoạt rộng rãi hơn tỉnh hẻo lánh nơi anh làm việc chỉ với mấy chục người công chức của bốn năm cơ quan lệ thuộc. Nhân vật "Tôi" thường đọc báo, anh đọc được những thông tin mang tính chất chính trị - xã hội như Nguyễn An Ninh du học ở Pháp về cho ra tờ báo tiếng chuông rạn hay tin Phan Châu Trinh bị an trí ở Pa-ri trong mười lăm năm trở về. Rồi nhiều tờ báo chính trị khác cũng được Hội Quảng tri Đồng Hới ở nơi anh sống và làm việc quyết định mua thêm khiến cho lòng anh muốn đi thật xa. "Tôi" còn kể lại về quá trình gặp được cụ Phan Bội Châu, cuộc gặp gỡ lắng nghe lời chia sẻ của cụ đã khiến cho việc rời khởi mảnh đất nhỏ bé đến nơi rộng lớn trong anh ngày càng bền vững. Tôi đi Sài Gòn viết bài, được tham gia, lắng nghe các cuộc vận động bầu cử, gặp gỡ cụ Huỳnh Thúc Kháng, mấy người công chức, quan lại từ chức để hoạt động kinh tế và chính trị, về lễ tang Phan Châu Trinh được cử hành long trọng, lễ truy điệu ở nhiều tỉnh. Đến cuối bài viết thì "Tôi" nói về việc đọc bài tế của cụ Phan Bội Châu viết trong lễ tuy điệu cùng bao nhiêu câu đối ca tụng nhà chí sĩ ái quốc khiến cho ý chí, ngọn lửa nhân vật tôi bùng cháy muốn đi xa hơn.

6. Giá trị nội dung

- Đoạn trích "Bước vào đời" kể về sự kiện tác giả gặp gỡ cụ Phan Bội Châu lần đầu tiên vào một buổi trưa cuối năm tại Đồng Hới. Đây là một sự kiện quan trọng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn tác giả và có ảnh hưởng lớn đến khuynh hướng tư tưởng của ông sau này.

7. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tinh tế: miêu tả không gian – thời gian, khắc họa hình ảnh con người,…

- Ngôn ngữ giản dị, gần gũi.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Bước vào đời

1. Sự kiện và điểm nhìn trong văn bản

- Sự kiện và điểm nhìn:

+ Sự kiện: Đoạn trích kể về sự kiện tác giả nhận được tin Phan Châu Trinh qua đời, khi tác giả đang là một thanh niên 18 tuổi.

+ Điểm nhìn: Tác giả kể câu chuyện từ điểm nhìn của ngôi thứ nhất (nhân vật "tôi").

- Ý nghĩa của việc lựa chọn điểm nhìn:

+ Giúp thể hiện tình cảm chân thực, sâu sắc của tác giả đối với sự kiện và nhân vật Phan Châu Trinh.

+ Tạo sự gần gũi, đồng cảm giữa người đọc và tác giả.

+ Giúp người đọc hiểu rõ hơn về tâm tư, tình cảm của một thanh niên yêu nước trong giai đoạn lịch sử.

Bước vào đời - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

2. Tính phi hư cấu của hồi kí trong văn bản

* Tính phi hư cấu của hồi ký "Bước vào đời" được thể hiện qua các yếu tố sau:

- Nội dung chân thực, chính xác:

+ Tác giả kể lại một sự kiện có thật đã xảy ra trong cuộc đời mình, đó là lần đầu tiên gặp gỡ cụ Phan Bội Châu tại Đồng Hới vào một buổi trưa cuối năm.

+ Những chi tiết về thời gian, địa điểm, nhân vật và sự kiện trong câu chuyện đều được miêu tả một cách cụ thể, rõ ràng, có căn cứ xác thực.

+ Tác giả không hư cấu hóa hay thêm thắt những chi tiết hoang đường, viễn tưởng vào câu chuyện.

- Sử dụng ngôn ngữ khoa học, logic:

+ Tác giả sử dụng ngôn ngữ khoa học, logic để trình bày sự kiện một cách khách quan, trung thực.

+ Ông không sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, bóng bẩy hay những biện pháp tu từ để tô vẽ cho câu chuyện thêm ly kỳ, hấp dẫn.

+ Lời văn của tác giả giản dị, dễ hiểu, phù hợp với nội dung và mục đích của thể loại hồi ký.

-Thể hiện quan điểm cá nhân một cách rõ ràng:

+ Mặc dù là một tác phẩm phi hư cấu, nhưng "Bước vào đời" vẫn thể hiện rõ quan điểm cá nhân của tác giả.

+ Tác giả bày tỏ sự ngưỡng mộ, kính trọng đối với cụ Phan Bội Châu - một vị anh hùng dân tộc, một nhà nho uyên thâm.

+ Đồng thời, tác giả cũng thể hiện niềm tự hào về bản thân khi được gặp gỡ và trò chuyện với cụ Phan Bội Châu.

- Có giá trị lịch sử và văn hóa:

+ "Bước vào đời" không chỉ là một câu chuyện cá nhân của tác giả mà còn có giá trị lịch sử và văn hóa.

+ Tác phẩm cung cấp cho người đọc những thông tin quý giá về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu, một nhân vật lịch sử quan trọng của Việt Nam đầu thế kỷ XX.

+ Đồng thời, tác phẩm cũng góp phần phản ánh bức tranh xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

+ Nhờ có sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố trên, tác giả Đào Duy Anh đã thành công trong việc thể hiện tính phi hư cấu của hồi ký "Bước vào đời". Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa, góp phần giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.

3. Sức ảnh hưởng của Phan Bội Châu

- Sức ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu đối với những thanh niên giàu tinh thần dân tộc thời đó được thể hiện như sau:

+ Cụ Phan Bội Châu là một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà nho uyên thâm, một nhà thơ lỗi lạc.

+ Cụ Phan Bội Châu đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

+ Cụ Phan Bội Châu đã sáng lập phong trào Duy Tân, khởi xướng phong trào Đông du, góp phần quan trọng vào việc thức tỉnh tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

+ Cụ Phan Bội Châu là tấm gương sáng về lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và ý chí kiên cường.

+ Cụ Phan Bội Châu đã chịu nhiều hy sinh, gian khổ trong cuộc đấu tranh chống Pháp, nhưng không bao giờ khuất phục trước kẻ thù.

+ Cụ Phan Bội Châu là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam noi theo.

+ Cụ Phan Bội Châu đã truyền cho những thanh niên giàu tinh thần dân tộc lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

- Sau khi gặp gỡ cụ Phan Bội Châu, "tôi" "nhận thức được trách nhiệm của mình đối với thế hệ trẻ" và quyết tâm "thực hiện hoài bão 'bước vào đời'".

+ "Tôi" tin tưởng rằng "sẽ có ngày đất nước ta được độc lập, tự do" và "dân tộc ta sẽ sánh vai với các cường quốc năm châu".

- Nhờ có sự ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu và những nhân vật lịch sử khác, nhiều thanh niên Việt Nam thời đó đã hăng hái tham gia vào phong trào yêu nước, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

- Đoạn trích "Bước vào đời" là một lời nhắn nhủ quý giá của tác giả Đào Duy Anh đối với thế hệ trẻ. Chúng ta cần học tập và rèn luyện để trở thành những người có ích cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.

IV. Đọc văn bản Bước vào đời

Bước vào đời

(Trích Nhớ nghĩ chiều hôm)

Đào Duy Anh

Đến buổi xế chiều của cuộc đời, những đêm khó ngủ tôi thường nhớ lại những ngày mình mới vào đời, không thể không nhớ đến cái sự kiện có thể nói là đã định hướng cho cả cuộc đời của tôi từ trước đến sau, tức là cuộc đón tiếp cụ Phan Bội Châu ở Đồng Hới một buổi trưa cuối năm 1925.

Tôi dạy ở trường tiểu học tỉnh lị Quảng Bình, từ năm 1923 chỉ biết chăm chỉ dạy học và đọc sách mà học thêm để mở mang tri thức, mong một ngày kia có thể kiếm được công việc gì khác ở một nơi trung tâm văn hoá chính trị có cuộc sinh hoạt rộng rãi hơn tỉnh hẻo lánh này. Ở đây thành phần trí thức chỉ vẻn vẹn mấy chục người công chúc của bốn năm cơ quan lệ thuộc chính phủ thực dân và chưa đến mười người quan lại của hai dinh Bố chính, Án sát lệ thuộc vào triều đình Việt Nam.

Ngoài thì giờ làm việc ở công sở, ngày nghỉ và ban tối, người ta thường rủ nhau lụm năm tụm bảy mà đánh bạc, chỉ lác đác có mấy người qua lại trụ sở Hội Quảng trị) để uể oải giả xem vài tờ báo hằng ngày cho đỡ buồn, hay ngày nghỉ và buổi chiều tụ tập ở quanh sân quần vợt do Hội Quảng tri mới xây được để trao đổi chuyện phiếm hằng ngày mà chờ phiên mình chơi. Ngoài ra còn có một nhóm văn nghệ nhỏ thỉnh thoảng họp nhau ngâm thơ và dạy nhau đánh đàn, nhóm ấy có cả thành phần công chức và thành phần quan lại tham dự.

Ở cái bầu không khí êm đềm uể oải ấy, mãi đến năm 1925 mới thỉnh thoảng được các báo xuất bản ở Hà Nội và Sài Gòn đem đến một vài tin tức có tính chất chính trị gây nên một ít chấn động nhẹ nhàng, ví như tin Nguyễn An Ninh du học ở Pháp về cho ra tờ báo Tiếng chuông rạn (La cloche felée) để đả kích chế độ thực dân, tin Phan Châu Trinh bị an trí ở Pa-ri trong mười lăm năm trở về Sài Gòn được đồng bào hoan nghênh nhiệt liệt, tin Phan Bội Châu bốn tẩu cách mạng ở nước ngoài hai chục năm bỗng bị bọn mật thám bắt ở Thượng Hải đem về Hà Nội giam ở nhà lao Hoả Lò.

Sau những sự kiện ấy báo chí ở Hà Nội và Sài Gòn bỗng đổi hướng mà chú trọng bình luận về chính trị. Hội Quảng trị Đồng Hới quyết định mua thêm báo chí, chỉnh đốn tủ sách và phòng đọc cho nên trụ sở của Hội cũng được người ta và có thể nói là có sức hấp dẫn mạnh hơn những đám đánh bạc, chỉ còn họp được những tay cờ bạc bất trị chẳng biết đến trời đất ở ngoài thế giới của thần đỏ đen. Đến mùa đông năm 1925, những tin tức của báo Hà Nội đăng hằng ngày về cuộc xử án Phan Bội Châu ở trước Hội đồng Đề hình không thể không lôi cuốn sự chú ý hăm hở của giới trí thức Đồng Hới, đã bắt đầu nhận thấy ngoài những người công chức và quan lại ngoan ngoãn làm việc hằng ngày để bảo vệ nổi gạo, còn có những người không sợ cái sống nguy hiểm của đời hoạt động cách mạng. Những bài biện hộ của hai trạng sư Bộ-na (Bona) và La-rơ (Larre) cùng những lời tự biện của Phan Bội Châu lại tới đông hơn trước, vạch lại trước mắt mọi người những bước đường cách mạng của cụ ở trong nước, ở Nhật Bản và ở Trung Quốc trong suốt phần tư đầu thế kỉ XX.

Cuộc xử án Phan Bội Châu biến thành cuộc xử án chế độ thực dân có tác dụng nhắc cho quốc dân biết rằng trong khi thực dân Pháp và bọn quan lại tay sai hoành hành áp bức bóc lột nhân dân ta, thì có những nhà ái quốc mà Phan Bội Châu là người tiêu biểu nhất, hi sinh tất cả để đi tìm đường cách mạng cứu nước cứu dân. Cái tin Phan Bội Châu bị kết án tử hình khiến quốc dân sôi lòng căm phẫn và trong cả nước nổi lên phong trào đòi “ân xá” Phan Bội Châu, buộc Chính phủ Pháp phải dùng chính sách mị dân cử một đảng viên Đảng Xã hội làm Toàn quyền để thực hiện việc “ân xá”. Để hạn chế ảnh hưởng của nhà ái quốc vĩ đại, chính phủ thực dân muốn đem an trí cụ ở Huế, nơi mà tình hình chính trị trầm trầm và sự tồn tại của triều đình bù nhìn khiến chúng tưởng có thể dễ hạn chế tầm ảnh hưởng của cụ hơn.

Chúng có biết đâu rằng sự có mặt của cụ Phan ở đây là đủ nhắc nhở cho quốc dân, nhất là giới thanh niên, nhận thức nhiệm vụ của mình phải làm thế nào để tiếp tục được sự nghiệp cách mạng mà ông cha mình còn bỏ dở.

Phan Bội Châu được “ân xá”, chính phủ thực dân định đưa ngay cụ từ nhà lao Hoả Lò thẳng về Huế, không dám để cho cụ tự do ở Hà Nội tiếp xúc nhân dân. Nhưng trước sự đấu tranh của nhân dân Hà Nội, chúng phải để cho cụ Phan được tự do ngay ở Hà Nội và dùng xe riêng do nhân dân Hà Nội chuẩn bị mà về Huế. Trên đường đi thế nào xe cũng phải nghỉ trưa ở Đồng Hới, được tin ấy chúng tôi, một số những người tích cực ở Đồng Hới, bàn nhau lấy danh nghĩa Hội Quảng trị để đón tiếp cụ và mời cụ dùng cơm trưa. Thế là lòng khao khát được thấy cụ Phan của chúng tôi đã được thoả mãn.

Sau khi dùng cơm trưa xong với một số ít đại biểu, cụ Phan đến dự cuộc đón tiếp thân mật ở hội quán Hội Quảng trị. Mặc dầu có một số hội viên dè dặt sợ bọn cầm quyền người Pháp chú ý không dám tham dụ, số người đến dự cuộc đón tiếp, cả công chức và nhân dân, ngồi chật cả phòng hội quán. Cụ Phan mặc áo dài Trung Quốc, bộ áo cụ vẫn mặc trong thời hoạt động ở nước ngoài. Người cụ cao lớn vượt lên trên cử loạ, cái trán cao, cái đầu hỏi, cái mặt chữ điền với lông mày rậm và chòm râu đen, khiến thấy rõ phong thái của một bậc vừa hiền giả vừa chí sĩ, mà hai mắt sáng quắc ở sau cặp kính trắng gọng đen có vẻ rất dịu hiền nhìn mọi người một cách rất trìu mến, cho thấy được cả tấm lòng thương nhớ của nhà ái quốc đã xa cách đồng bào mấy chục năm nay.

Giọng nói của cụ sang sáng như chuộng nổi lên giữa bầu không khí lặng phắc khiến mọi người như nín thở mà hớp lấy từng lời. Ngoài cái ấn tượng, cái cảm xúc mà từ nhỏ đến bây giờ tôi chưa từng có, tôi không nhớ rõ cụ đã nói những gì, duy còn mường tượng cụ có nhắc đến tập sách cụ viết ở hải ngoại, đề là Dư cửu niên lại sở trì chi chủ nghĩ có chương Súc chủng đãi thời, để khuyên chúng tôi là hội viên Hội Quảng tri nên học cho nhiều để hấp thụ nhiều kiến thức mới mà nước nhà sẽ phải cần đến để bước lên cõi văn minh.

Đêm hôm ấy tôi thao thức không ngủ được. Tôi vốn không có ý ở mãi Đồng Hới mà chôn vùi tuổi thanh niên của mình trong cái nghề gọi là “gõ đầu trẻ” ở một nơi hẻo lánh như thế, nhưng còn chờ thi bằng Tú tài để có thể cầm tay được cái lợi khí tương đối khá mà kiếm ăn, rồi mới đi tìm việc làm ở Hà Nội hay Sài Gòn. Đến bây giờ thì cảm thấy mình không chờ được nữa mà phải thoát ngay chốn ao tù để tìm nơi trời cao biển rộng hơn. Tôi quyết định đi Sài Gòn để viết báo. Ngoài những báo La cloche felée bấy giờ đã bị đóng cửa, nhờ các báo chữ Pháp tiến bộ ở Sài Gòn như báo L'Echo Annanti toi" của Nguyễn Phan Long tôi được biết qua tình hình ngôn luận ở Sài Gòn mà nhận thấy nó có phần hấp dẫn hơn tình hình ngôn luận ở Hà Nội còn bị đè nén dưới ách kiểm duyệt. Thi thoảng tôi được một người bạn đang dạy học tư ở Sài Gòn gửi cho một số báo Việt Nam hồn xuất bản ở Pa-ri. Tiếp đó, cuộc vận động bầu cử Viện Nhân dân đại biểu ở Trung Kì dẫn đến cuộc thắng lợi của các phần tử tiến bộ lại làm vững thêm quyết tâm của tôi. Trong số những vị dân biểu tiến bộ ấy có những nhà Nho ái quốc mới từ Côn Lôn về. Đứng đầu là cụ Huỳnh Thúc Kháng và mấy người công chức và quan lại từ chức để ra hoạt động kinh tế và chính trị trong số những người này có ông Nguyễn Đơn Quý [Nguyễn Đan Quế] người Thanh Hoá tôi được quen từ hồi trước, ông này vốn làm huấn đạo, đã không nhận đổi sang làm công chức sau khi chính phủ thực dân bỏ nền giáo dục chữ Hán, tự nguyện từ chức về nông thôn ở Sóc Sơn huyện Vĩnh Lộc, tự tay cày bừa vỡ đất hoang để làm ăn như một người nông dân thường, chú không phải vỡ dồn điền mà bóc lột nông dân đâu. Sau ông tham gia Việt Nam Cách mạng đồng chí hội, trở thành Đảng Tân Việt từ năm 1928.

Tiếp sau nữa lại đến lễ tang Phan Châu Trinh được cử hành long trọng và rầm rộ ở Sài Gòn cùng lễ truy điệu cử hành ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và nhiều tỉnh khác kể cả Đồng Hới nhỏ bé của chúng tôi. Được đọc bài văn tế của cụ Phan Bội Châu viết trong dịp truy điệu cùng bao nhiêu câu đối ca tụng nhà chí sĩ ái quốc ấy, ở Đồng Hới chúng tôi cũng nhân cơ hội ấy mà có những trao đổi ý kiến về tình hình chính trị hiện thời. Những câu của bài văn tế như:

Cá chậu chim lồng vơ vẩn thế, ủng công danh thôi cất lối tầm thường. Rồng mây cọp gió lạ lùng chị, miền thanh khí thủ hô người trùng ngoại. Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng vui ghê. Một ngòi lông mà trống mì chiêng, của dân chủ khêu đèn thêm sáng chói, lại thúc giục lòng tôi muốn di xa.

(Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB Hà Nội, 2020, tr. 9 – 12)

1 85 12/11/2024


Xem thêm các chương trình khác: