TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 8 15/01/2025


Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây

Đề bài:Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây của Phạm Tiến Duật.

Dàn ý Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây

1. Mở bài

- Tác giả, tác phẩm:

+Nói đến Phạm Tiến Duật “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại” là nói đến "nhà thơ lớn thời chống Mỹ” với phong cách nghệ thuật độc đáo, giàu chất lính. Thơ ông là tiếng nói sôi nổi, lạc quan, ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình đồng đội, tình quê hương đất nước với giọng điệu trẻ trung, tinh nghịch mà sâu sắc. Trong tâm hồn của người chiến sĩ tài hoa, lãng tử ấy có sẵn niềm say mê được hoà mình vào không khí của những ngày sục sôi đánh Mỹ.

+ Bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” ra đời năm 1969 tại Quảng Bình. Ngay khi mới ra đời, bài thơ đã luôn có mặt trong túi áo của mỗi người lính trên tuyến lửa. Khi bài thơ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thì chất thơ, chất nhạc quyện chặt với nhau, nâng cánh cho nhau vang vọng khắp các chiến trường, thôi thúc hàng triệu trái tim Việt Nam xông pha nơi tiền tuyến, giết giặc lập công, giải phóng đất nước.

2. Phân tích

a. Phân tích nội dung

Bài thơ “ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” của Phạm Tiến Duật đã phản ánh chân thực hiện thực đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, khốc liệt của dân tộc ta.

+ Bài thơ ra đời năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn cam go, ác liệt khi đế quốc Mỹ liên tục rải bom xuống tuyến đường Trường Sơn nhằm ngăn chặn con đường tiếp tế của hậu phương cho tiền tuyến.

+ Hiện thực ấy đã khiến cả dân tộc tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mĩ đặc biệt là thế hệ trẻ. Hơn ai hết nhà thơ Phạm Tiến Duật – người lính đã trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại này nên ông đã ghi lại được hiện thực cuộc sống chiến tranh hết sức sống động với một tình yêu lớn: Tình yêu Tổ quốc.

Từ hiện thực cuộc sống đất nước những năm kháng chiến chống Mỹ chất thơ được “nảy nở” thể hiện ở tình yêu Tổ quốc trong lòng người chiến sĩ.

- Bài thơ “ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” của Phạm Tiến Duật được sáng tác trên cảm hứng lịch sử, được ngân lên từ tiếng lòng, tình cảm đằm thắm, sức sống mãnh liệt và niềm tin tất thắng trong tâm hồn của những người lính Trường Sơn thuở ấy.“Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” thực sự là một bản tình ca trong chiến tranh.

+ Mở đầu là lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau nhưng phải chịu sự ngăn cách vời vợi vì ở hai đầu của dãy Trường Sơn hùng vĩ, hiểm trở và bởi nhiệm vụ thời chiến với bao thử thách và khốc liệt:

"Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

…………………………………..

Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây”.

+ Trên đường hành quân ra mặt trận, dẫu đầy cam go luôn rình rập, nhà thơ vẫn dành cho mình những phút riêng tư, gửi nỗi nhớ, niềm thương về "em", người bạn gái đang hành quân bên sườn đông dãy Trường Sơn. + Nhà thơ đã lấy không gian để đo nỗi nhớ của mình, nỗi nhớ “ em” lan toả ra cả không gian của đại ngàn Trường Sơn. Cùng chung dải rừng nhưng xa nhau vời vợi…Giữa hai chiều không gian đông – tây của Trường Sơn đã có sự kết nối với nhau thành một miền ký ức sâu thẳm đó là tình yêu của người lính đầy trong sáng và tình tứ. Nó đã làm nên những hương vị ngọt ngào để tiếp thêm sức mạnh, chiến đấu và chiến thắng cho những người chiến sĩ.

+ Khát vọng cống hiến vì lẽ sống cao đẹp đã giúp cho “anh” và “ em” đi vào chiến trường khói lửa với tâm thái thanh thản. Chính giữa bộn bề gian khổ của đời lính, những câu thơ vút lên tươi rói chất liệu hiện thực khiến người đọc vừa thú vị, vừa cảm động.

Một dãy núi mà hai màu mây

……………………………..

Như Đông với Tây một dải rừng liền.

+ Với biện pháp tu từ so sánh “Hai phía của dãy Trường Sơn cũng như hai con người (anh và em), hai miền đất nước (Nam và Bắc), hai hướng (Đông và Tây) của một dải rừng cùng với biện pháp tương phản: mây, mưa, nắng,... dù có khác nhau về vị trí địa lí, về khí hậu, thời tiết, màu mây ….dẫu trên cùng một dãy núi nhưng tình người, tình đồng đội,tình bạn chiến đấu, tình dân tộc, trước sau vẫn son sắt, gắn bó keo sơn, bền chặt thủy chung. Họ cách xa nhau về vị trí địa lý nhưng lòng vẫn hướng về nhau, “anh” gửi tình thương về bên “em”, quan tâm lo lắng cho “em”

Trường Sơn tây anh đi, thương em

………………………………………

Rau hết rồi, em có lấy măng không.

+ Dẫu bom đạn kẻ thù có cày xới cả dãy Trường Sơn song “anh” vẫn giữ cho mình những khoảnh khắc riêng tư. Những vật vô tri, vô giác như mưa, nắng, khe, măng… đều cùng tham dự vào diễn biến tình yêu. Và đó cũng chính là dòng bộc lộ cảm xúc tha thiết và nhớ nhung của đôi lứa đang yêu. Cảnh vật xung quanh như cũng hiểu thêm về tâm trạng của lứa đôi, của con người.Trong “ anh” và “ em”, tình yêu nam nữ và tình yêu đất nước hòa quyện vào nhau, thống nhất trong nhau. Nó trở thành động lực, thành hành trang nâng bước chân người chiến sĩ trên dặm dài hành quân.

+ Tuy là những chất liệu đời thường nhưng chính tình yêu của những người chiến sĩ đã làm cho bức tranh hiện thực ấy thêm phần thi vị. Ở đó không phải sự xù xì gân guốc của chiến trường mà là sự chân thành, đằm thắm, mến yêu.

Em thương anh bên tây mùa đông

……………………………………

Chắc em lo đường chắn bom thù

+ Con đường Trường Sơn là con đường vận tải huyết mạch đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh. Trong trái tim người lính trẻ, tình yêu lứa đôi và tình yêu đất nước hòa quyện, tiếp thêm sức mạnh để người chiến sĩ vượt qua tất cả gian nan, có được niềm tin sắt son vào tương lai. Gắn bó với núi rừng Trường Sơn, với những đồng đội ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, với bom đạn, “ em” và “anh” vẫn luôn lạc quan, tin tưởng, nhìn mọi thứ, kể cả những góc khuất và bi kịch của cuộc chiến qua một lăng kính hồn nhiên, vô tư đến lạ thường:

"Đông sang Tây không phải đường thư

……………………………………………..

Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”.

+ Cái hay của thơ Phạm Tiến Duật là nhà thơ không chỉ nói lên tình cảm của riêng cá nhân mình mà đã nói lên được tiếng nói của một thế hệ, của dân tộc và cảm xúc lớn của thời đại hồi bấy giờ. Điều này được thể hiện cô đọng ở phần kết của bài:

"Từ nơi em gửi đến nơi anh

……………………………….

Đông Trường Sơn nối tây Trường Sơn".

+ Từ “bên em” và “bên anh” tuy xa cách thăm thẳm nhưng được nối kết bằng “những đoàn quân trùng trùng ra trận” trong bầu không khí sục sôi, hào hùng. Lòng yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, niềm tin chiến thắng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng một tượng đài anh dũng, bất khuất. Tình yêu của “ anh” với “em” và tình yêu đất nước như cuồn cuộn, hoà quyện hóa thành mạch sống dâng trào trong trái tim người lính Trường Sơn, trong mỗi trái tim người dân đất Việt. Trường Sơn trong trái tim của mỗi chúng ta luôn chứa đựng tình cảm lớn lao và cũng rất đỗi thiêng liêng, là huyết mạch của con đường tiến về giải phóng miền Nam, là những đoàn quân từ Bắc vào Nam trùng trùng điệp điệp, là cuộc hành quân lớn của hậu phương chi viện cho tiền tuyến với tất cả tình cảm máu thịt một nhà.

+ Con đường Trường Sơn là con đường đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh, song vượt lên trên tất cả những gian nan đó là niềm tin sắt son, là ý chí sắt đá, là động lực thôi thúc tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho miền Nam thân yêu.

=> Bài thơ là tiếng nói trái tim đang được ngọn lửa yêu nước nung nấu. Chính cuộc sống đã sản sinh ra ngọn lửa trong trái tim người sáng tác. Đối với những người chiến sĩ Trường Sơn từng chiến đấu và hy sinh một thời, thì đây là bài hát bất tử, là nghĩa tình đồng đội và niềm tự hào mỗi khi họ cùng nhau hát về Trường Sơn hùng vĩ, anh hùng. . .Mấy chục năm bom đạn khói lửa chiến tranh đã lùi xa, có biết bao bài thơ, bài ca mới ra đời và cũng được nhiều người ưa thích, song bài thơ, bài hát “Trường Sơn đông - Trường Sơn tây” vẫn là một bài ca “ đi cùng năm tháng”, có sức sống lâu bền, rất nhiều người thuộc lòng, yêu thích.

b. Phân tích hình thức nghệ thuật đặc sắc.

+ Thi phẩm viết theo thể thơ tự do, giàu chất nhạc, dễ nhớ, dễ thuộc làm toát lên vẻ đẹp tươi trẻ, chất trữ tình lãng mạn bay bổng hoà quyện với chất sử thi hào hùng.

+ Cấu trúc dễ nhớ, dễ thuộc, bình dị, mang âm hưởng đời thường và đậm chất lính, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca,cảm xúc đong đầy. + Ngôn từ tự nhiên như lời người lính thường hay nói mà vẫn rất thơ. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nghệ thuật tương phản: mây, mưa, nắng…

+ Điểm đặc biệt trong bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” chính là nhà thơ đã thành công trong việc cách tân để phù hợp với không khí của cuộc chiến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhân vật trữ tình được đặt trong một phông nền lớn của đồng đội…

+ Bài thơ đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp nâng cánh bằng những giai điệu tuyệt đẹp, ca từ trong sáng,tiết tấu dễ hát, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca. Bởi vậy thi phẩm cùng với nhạc phẩm như một cặp song sinh đã và sẽ mãi mãi đi cùng năm tháng, được nhiều thế hệ yêu thích.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của bài thơ.

- Cảm xúc hoặc lời nhắn gửi tới mọi người.

Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (mẫu 1)

"Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" là một trong những bài thơ nổi tiếng trong thơ ca kháng chiến chống Mỹ của tác giả Phạm Tiến Duật. Với hình ảnh Trường Sơn - dãy núi hùng vĩ, đoạn thơ khắc họa cuộc sống gian khổ của những người lính trên chiến trường miền Nam trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Bằng những hình ảnh sinh động, lời thơ giản dị nhưng sâu sắc, tác phẩm đã để lại ấn tượng mạnh mẽ về sức mạnh của tình đồng đội, lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến trong cuộc kháng chiến giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Trong đoạn thơ, tác giả đã khắc họa rõ nét hình ảnh Trường Sơn - nơi chiến đấu gian khổ, hiểm nguy nhưng cũng đầy lạc quan, tình yêu thương, sự gắn bó của những người lính. Đoạn thơ được viết dưới hình thức đối thoại, giữa hai người lính với những lời thăm hỏi, hỏi đáp mang đậm chất tình đồng đội. Cả hai người lính đều phải đối mặt với những khó khăn trong chiến đấu, nhưng vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.

Hình ảnh "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" gợi lên không gian chiến tranh rộng lớn, với những dãy núi hùng vĩ, hiểm trở. Đây cũng là nơi mà những người lính đi qua, mang trong mình khát vọng giải phóng đất nước, dẫu biết rằng con đường phía trước đầy cam go nhưng vẫn luôn kiên cường vượt qua.

Một trong những yếu tố nổi bật trong đoạn thơ là hình ảnh tình đồng đội. Cả hai người lính trong cuộc đối thoại đều thể hiện sự quan tâm, hỏi thăm nhau về sức khỏe và tình hình chiến đấu, điều này tạo nên một không khí thân tình, đậm chất quân đội. Câu hỏi “Bố láo hay là bạn thằng nào” không chỉ là một câu hỏi thể hiện sự gần gũi, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về sự gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa những người lính, họ không chỉ là đồng đội mà còn là những người anh em ruột thịt.

Tình đồng đội trong đoạn thơ còn được thể hiện qua cách nhắc đến những khó khăn, gian khổ. Dù phải đối mặt với những thử thách, nhưng những người lính vẫn giữ vững niềm tin vào chiến thắng. Họ luôn hy vọng vào một ngày mai tươi sáng khi chiến tranh kết thúc, đất nước được hòa bình và thống nhất.

Về mặt nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngôn ngữ rất giản dị, dễ hiểu nhưng lại rất súc tích và giàu hình ảnh. Những câu thơ ngắn gọn, trong sáng đã lột tả được hết vẻ đẹp của tình đồng đội, tình yêu quê hương, đất nước. Hình ảnh "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" không chỉ là một không gian chiến trường mà còn là hình ảnh tượng trưng cho những gian khổ mà người lính phải trải qua.

Đặc biệt, cách sử dụng điệp ngữ "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" tạo ra nhịp điệu lặp lại, làm tăng tính hùng tráng cho bài thơ, đồng thời làm nổi bật sự gắn bó giữa hai miền đất nước, hai chiến trường Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Hình ảnh này không chỉ phản ánh không gian mà còn khẳng định sự bền bỉ, kiên cường của người lính trong suốt cuộc chiến tranh.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng lối thơ tự do với vần điệu linh hoạt, nhịp điệu không gò bó, tạo ra sự tự nhiên và gần gũi trong từng câu chữ. Điều này khiến bài thơ dễ đi vào lòng người, làm tăng thêm sự chân thực và mạnh mẽ của cảm xúc.

Tóm lại, đoạn thơ "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" của Phạm Tiến Duật không chỉ là một bức tranh sinh động về cuộc sống của người lính trong chiến tranh mà còn thể hiện tình đồng đội sâu sắc, niềm tin vào chiến thắng và khát vọng hòa bình. Với ngôn từ giản dị, hình ảnh mạnh mẽ, bài thơ đã khắc sâu trong lòng người đọc những cảm xúc về lòng yêu nước, lòng quả cảm và sự hy sinh thầm lặng của những người lính nơi chiến trường Trường Sơn.

Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (mẫu 2)

Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây là một sáng tác của nhà thơ Phạm Tiến Duật, được viết hồi cuối năm 1969 tại một làng nhỏ ở bên bờ sông Son của tỉnh Quảng Bình. Đây là một ngôi làng nghèo mà nền nếp. Cái làng ấy cũng cách không xa cổng đường 20 xe ngang qua dãy núi Trường Sơn. Và bài thơ này đã truyền lửa cho bao nhiêu thế hệ. Cũng chính là bài thơ thành công khi đã chuyển tải được mạch cảm xúc của thời đại và của cả một thế hệ trẻ, cả dân tộc thời ấy.

Phạm Tiến Duật là một nhà thơ tiêu biểu cho phong cách người lính trong kháng chiến chống Mỹ. Từ cảm hứng đến giọng điệu đều được cất lên từ đôi cánh lãng mạn và giàu nhiệt huyết. Ở đó ta cảm nhận được một niềm vui phơi phới của những người chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ.

Nhà thơ cũng đã từng gửi gắm một phần tuổi trẻ của mình trên chiến trường. Ông là người của binh đoàn 559 – Binh đoàn Trường Sơn và cũng đã sông những ngày trong những năm tháng ấy. Đó cũng chính là lý do tại sao nhà thơ lại viết được những vần thơ sâu sắc tới vậy. Với góc nhìn hiện thực gần gũi ông đã thành công trong việc khắc họa những hình ảnh ấy.

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.

Hình ảnh anh và em trong bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây là hai trong số những cư dân chiến sĩ Trường Sơn. Họ đã ngày đêm vật lộn với mưa bom bão đạn quân thù để chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ mà tổ quốc giao phó. Tuy là những chất liệu thường nhưng chính tình yêu của những người chiến sĩ đã làm cho bức tranh ấy thêm phần thi vị hơn. Ở đó không phải sự xù xì gân guốc của chiến trường mà đã chân thành, đằm thắm hơn.

Trường Sơn tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không.

Những vật vô tri vô giác như mưa, nắng, khe, măng… đều cùng tham dự vào diễn biến tình yêu. Và đó cũng chính là dòng bộc lộ cảm xúc tha thiết và nhớ nhung của đôi lứa đang yêu. Bởi cảnh vật xung quanh như cũng hiểu thêm về tâm trạng của lứa đôi, của con người ấy.

Điểm đặc biệt trong bài thơ Trường Sơn đông Trường Sơn tây chính là nhà thơ đã thành công trong việc cách tân để phù hợp với không khí của cuộc chiến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao thơ ông lại có sự hòa quyện giữa cái chung và cái riêng cá nhân. Chính vì vậy nhân vật trữ tình được đặt trong một phông nền lớn của đồng đội và đám đông tập thể. Đó là những da diết riêng tư không được tách rời với hơi thở và nhịp sống của cả một thế hệ.

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ðông Trường Sơn nối tây Trường Sơn.

Ở đây ông đã thành công trong việc nhìn nhận lại cuộc chiến với những khía cạnh khác với một tâm thế khác. Giữa hai chiều quá khứ đã có sự kết hợp với thành một miền ký ức sâu thẳm. Để rồi khi những năm tháng chiến tranh đã trôi qua nhưng không gian của Trường sơn đó đã là ngôi nhà của tình yêu của bao nhiêu sự hò hẹn… đó cũng chính là tình yêu của người lính đầy trong sáng và ngây thơ, tình tứ. Cũng chính là tình yêu của những người chiến sĩ, nó đã cho họ những hương vị ngọt ngào để thêm sức mạnh, chiến đấu và chiến thắng.

Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây là một bài thơ, một bài ca hay có sức sống lâu bền trong lòng công chúng. Đối với những người chiến sĩ Trường Sơn lúc bấy giờ thì đây là bài hát bất tử. Cũng chính là tình đồng đội, niềm tự hào khi nghĩ về Trường Sơn hùng vĩ. Đó chính là cái hay và là giá trị mà bài thơ này mang lại. Qua bài thơ này, Phạm Tiến Duật đã thành công trog việc khắc họa và thắp sáng ngọn lửa lý tưởng và sáng ngời của người lính thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (mẫu 3)

Phạm Tiến Duật là Nhà thơ cách mạng của nền Văn học hiện đại Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964 nhưng sau đó không tiếp tục với nghề dạy học mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều tác phẩm và để lại nhiều bài thơ nổi tiếng như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Vầng trăng và những quầng lửa, Gửi em cô thanh niên xung phong... Thơ của Phạm Tiến Duật là tiếng nói ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình đồng đội, tình yêu quê hương đất nước với giọng điệu sôi nổi, lạc quan và có chút gì đó tinh nghịch nhưng cũng rất sâu sắc.

Bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây của nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác cuối năm 1969, tại tỉnh Quảng Bình. Ngay khi mới ra đời, bài thơ đã luôn có mặt trong túi áo của mỗi người lính trên tuyến lửa. Khi bài thơ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thì chất thơ, chất nhạc quyện chặt với nhau, nâng cánh cho nhau vang vọng khắp các chiến trường, thôi thúc hàng triệu trái tim Việt Nam xông pha nơi tiền tuyến, giết giặc lập công, giải phóng đất nước.

Mở đầu bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là lời tự tình của đôi lứa yêu nhau nhưng phải chịu sự ngăn cách vời vợi của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, của thời chiến chinh ly loạn và khốc liệt:

“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”

Bằng cấu trúc dễ nhớ, dễ thuộc, bình dị, mang âm hưởng đời thường và đậm màu chất lính, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca. Nó đã truyền lửa vào trái tim của mỗi người ra trận. Những vần thơ ấy đã thành công về nghệ thuật, cảm xúc đong đầy. Tuy vậy, cái hay hơn có lẽ là nó đã nói lên được cảm xúc lớn của thời đại, của cả một thế hệ trẻ, của cả dân tộc thời ấy.

Mặc dù đã hoàn thành khóa học ngành Sư phạm. Thay vì làm một thầy giáo dạy học nhưng Phạm Tiến Duật lại xin vào quân ngũ với mong ước tha thiết được đi vào chiến trận. Khát vọng đi Bộ đội của Nhà thơ cách mạng này được chấp nhận khi ông trúng tuyển vào Tiểu đoàn Pháo cao xạ Tây Bắc. Trong tâm hồn của người đàn ông đích thực đầy lãng tử ấy đã có sẵn ham muốn được dịch chuyển:

“Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Hết rau rồi, em có lấy măng không”

Phạm Tiến Duật hăm hở xin chuyển về Cục Vận tải quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần chỉ vì muốn được đắm mình trong cuộc chiến, được tận mắt chứng kiến và nếm trải sự tàn khốc của chiến tranh. Niềm đam mê tự do sáng tạo, cống hiến cho dân tộc cháy bỏng đã làm cho dấu chân Phạm Tiến Duật thật sự cất bước nhẹ nhõm vào chiến trường đầy cam go.

Yêu nước là thế song nhà thơ vẫn giữ cho mình một khoảnh khắc riêng tư. Đó là nỗi nhớ về em, người bạn gái đang hành quân bên sườn Đông dãy Trường Sơn. Trong con người Phạm Tiến Duật, tình yêu nam nữ và tình yêu đất nước hòa quyện vào nhau. Nó trở thành động lực, hành trang nâng bước chân người chiến sĩ.

Có thể nói, cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và con đường Trường Sơn huyền thoại đã sinh ra một Phạm Tiến Duật thứ hai nhưng lại là con người duy nhất có sức mạnh thống soái và định hình một tính cách, một số phận Phạm Tiến Duật.

Chính cuộc sống thời khói lửa đau thương, mất mát đã thắp lên ngọn lửa trong trái tim người sáng tác. Và không chỉ riêng mình nhà thơ viết “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng chí, đồng đội cùng viết chung với nhà thơ Phạm Tiến Duật, tạo nên một bài thơ vừa hài hòa, vừa đẹp đẽ, vừa có giá trị.

Gắn bó với núi rừng Trường Sơn, với những người lính ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, đối mặt với bom đạn, chết chóc, Phạm Tiến Duật luôn có một tinh thần lạc quan. Ông nhìn mọi thứ kể cả những thực tế nghiệt ngã, những góc khuất và những bi kịch của cuộc chiến qua một lăng kính hồn nhiên, tếu táo đến lạ thường:

“Đông sang Tây không phải đường như
Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Đông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”

Chiếc xe như một chiến hữu dũng cảm, như một người bạn thân, chung thủy sống chết đã rong ruổi cùng Phạm Tiến Duật trên những dặm dài đường rừng Trường Sơn. Chiếc xe chở Phạm Tiến Duật đi tác chiến trên những trận địa vừa dứt tiếng súng hay nằm vắt vẻo cùng với chủ nhân trên những chiếc xe tải chở vũ khí đạn dược vào chiến trường:

“Từ nơi em đưa đến nơi anh
Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn”

Sự yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, niềm tin chiến thắng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng một tượng đài anh dũng, bất khuất. Từ bên em và bên anh xa cách thăm thẳm nhưng rồi lại được nối kết bằng một đoàn hùng binh nối tiếp nhau ra trận địa trong một bầu không khí sục sôi, oai hùng, lẫm liệt. Tình yêu giữa anh với em và tình yêu nước Việt như cuồn cuộn, hóa thành mạch sống dâng trào trong tâm tư người lính Trường Sơn.

Cho đến bây giờ, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây vẫn là một bài thơ hay, có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Đối với những người chiến sĩ Trường Sơn từng chiến đấu và hy sinh một thời thì coi đây là bài thơ bất tử, là nghĩa tình đồng đội và niềm tự hào mỗi khi họ cùng nhau nhắc về Trường Sơn hùng vĩ, anh hùng.

Bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là một đúc kết từ thực tiển của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ được sáng tác trên cảm hứng lịch sử, được ngân lên bằng tiếng lòng, tình cảm đằm thắm, sức sống mãnh liệt và niềm tin tất thắng trong tâm hồn của những người lính Trường Sơn thuở ấy.

Phân tích bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (mẫu 4)

Bài thơ "Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây" của Phạm Tiến Duật là một tác phẩm thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và sự sáng tạo của tác giả trong việc miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của dãy Trường Sơn. Thông qua cấu tứ và hình ảnh sinh động, bài thơ đã mang đến cho người đọc một cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam.

Về cấu tứ, bài thơ được chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn là một bức tranh sinh động về dãy Trường Sơn. Cấu trúc này tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các đoạn, giúp người đọc dễ dàng hình dung và cảm nhận được toàn cảnh của dãy núi hùng vĩ này. Đặc biệt, mỗi đoạn đều bắt đầu bằng cấu trúc "Trường Sơn Đông..." và "Trường Sơn Tây...", khiến bài thơ trở nên nhịp nhàng, gọn gàng và dễ nhớ.

Về hình ảnh, bài thơ sử dụng những hình ảnh sinh động, mang tính tổng quát để tạo nên một bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của dãy Trường Sơn. Trong đó, hình ảnh "Trường Sơn Đông trùng điệp ngút ngàn" thể hiện vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của dãy núi; "Trường Sơn Tây mây trắng phơ phơ" tạo cảm giác thanh thoát, nhẹ nhàng; "Sông Hồng cuộn chảy ngút ngàn" thể hiện sức sống và sự bất tận của thiên nhiên; "Núi rừng xanh ngắt một màu" mang lại cảm giác bình yên, hài hòa. Những hình ảnh này không chỉ mang tính tả thực mà còn chứa đựng những ẩn dụ, liên tưởng sâu sắc về vẻ đẹp, sức sống và sự hài hòa của thiên nhiên Việt Nam.

Tóm lại, bài thơ "Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây" của Phạm Tiến Duật thể hiện tài năng và sự sáng tạo của tác giả trong việc miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của dãy Trường Sơn. Thông qua cấu tứ chặt chẽ và những hình ảnh sinh động, bài thơ đã mang đến cho người đọc một cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam.

1 8 15/01/2025