TOP 5 mẫu Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (2025) SIÊU HAY

Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học lớp 9 Kết nối tri thức gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.

1 25 06/01/2025


Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học

5+ Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (điểm cao)

Đề bài: Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học.

Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (mẫu 1)

Vào một buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn nhuốm vàng cả cánh đồng lúa chín, tôi đang tản bộ trên con đường làng yên bình. Cảnh vật xung quanh thật đẹp, gợi nhớ đến những trang văn cổ điển mà tôi từng đọc. Bỗng nhiên, phía trước tôi xuất hiện một cô gái xinh đẹp, dáng vẻ thanh thoát, y phục thướt tha. Cô có đôi mắt sáng ngời, gương mặt thanh tú nhưng lại phảng phất nỗi buồn sâu lắng. Tôi chợt nhận ra, đó chính là Thúy Kiều, nhân vật chính trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.

Tim tôi như ngừng đập trong giây lát. Làm sao có thể gặp được Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lại lắm truân chuyên? Tôi tiến lại gần, cúi chào cô một cách kính trọng.

- Thưa cô, cô có phải là Thúy Kiều không? Tôi đã đọc về cô trong "Truyện Kiều" và vô cùng ngưỡng mộ tài năng cũng như lòng nhân hậu của cô.

Thúy Kiều mỉm cười, đôi mắt long lanh nhưng đầy u buồn:

- Vâng, tôi là Thúy Kiều. Cảm ơn anh đã nhớ đến tôi. Cuộc đời tôi đúng là nhiều khổ đau và oan trái, nhưng cũng nhờ đó mà tôi hiểu rõ hơn về nhân tình thế thái.

Tôi ngồi xuống bên cạnh cô, lòng đầy cảm xúc. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện, cô kể lại những biến cố trong cuộc đời mình. Giọng cô nhẹ nhàng, như gió thoảng qua đồng lúa, mang theo những câu chuyện buồn đau nhưng cũng đầy nhân ái và bao dung.

- Tôi sinh ra trong một gia đình gia giáo, có cha mẹ hiền từ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Cuộc sống yên bình trôi qua cho đến khi gia đình tôi gặp nạn. Vì muốn cứu cha và em trai, tôi đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh, chấp nhận cuộc đời lưu lạc.

Tôi nghe mà lòng quặn thắt, cảm nhận nỗi đau và sự hy sinh của cô. Thúy Kiều tiếp tục kể về những ngày tháng bị lừa gạt, rồi bị đẩy vào lầu xanh của Tú Bà, về mối tình với Từ Hải và cả những ngày tháng đau khổ khi bị Hồ Tôn Hiến lừa dối.

- Nhưng dù trải qua biết bao khó khăn, tôi vẫn luôn giữ lòng mình thanh cao và không bao giờ từ bỏ hy vọng về một ngày đoàn tụ với gia đình.

Tôi cảm phục trước nghị lực phi thường và lòng nhân hậu của Thúy Kiều. Cô không chỉ là một người con gái xinh đẹp mà còn là biểu tượng của đức hy sinh và lòng trung trinh.

- Thưa cô Kiều, cuộc đời cô đã trải qua nhiều gian truân, nhưng cô vẫn giữ được tấm lòng nhân hậu và trong sáng. Đó là điều mà nhiều người cần học hỏi.

Thúy Kiều mỉm cười, ánh mắt như sáng lên:

- Cuộc đời là bể khổ, nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta sống đúng với lòng mình, giữ được niềm tin và hy vọng, thì dù có trải qua bao nhiêu khó khăn, chúng ta vẫn sẽ tìm thấy hạnh phúc.

Khi mặt trời đã lặn hẳn, Thúy Kiều đứng dậy, chuẩn bị rời đi. Tôi cúi đầu chào tạm biệt cô, lòng đầy lưu luyến:

- Cảm ơn cô Kiều, cuộc trò chuyện này đã cho tôi thêm nhiều bài học quý giá. Mong cô sẽ luôn bình an và hạnh phúc.

Thúy Kiều gật đầu, nụ cười nhẹ nhàng như ánh trăng soi rọi:

- Cảm ơn anh. Chúc anh luôn gặp nhiều may mắn và bình an trong cuộc sống.

Tôi nhìn theo bóng dáng Thúy Kiều dần khuất trong ánh hoàng hôn, lòng đầy những suy ngẫm và cảm xúc. Cuộc gặp gỡ tưởng tượng với Thúy Kiều đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu đậm, nhắc nhở tôi về giá trị của lòng nhân ái, sự hy sinh và niềm tin vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (mẫu 2)

Vào một buổi chiều mùa hạ, khi tôi đang dạo chơi bên bờ sông, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi nghĩ về những câu chuyện cổ xưa đầy bi thương. Bỗng nhiên, tôi thấy một người đàn ông đứng lặng lẽ bên bờ sông, ánh mắt đăm chiêu nhìn ra xa. Người đàn ông đó trông quen thuộc, như một hình ảnh từ những câu chuyện truyền thuyết. Tôi tiến lại gần, không thể tin vào mắt mình: đó chính là Trương Sinh, nhân vật trong "Chuyện người con gái Nam Xương".

Tôi chào anh:

- Chào anh, anh có phải là Trương Sinh không? Tôi đã nghe rất nhiều về câu chuyện của anh và nàng Vũ Nương.

Trương Sinh quay lại, ánh mắt buồn bã, khẽ gật đầu. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh, cảm nhận nỗi buồn man mác trong không gian.

- Anh có thể kể lại câu chuyện của mình không? - Tôi nhẹ nhàng hỏi.

Trương Sinh thở dài, bắt đầu kể. Giọng anh trầm lắng, như dòng sông lặng lẽ chảy qua bao năm tháng.

- Ngày xưa, tôi là một chàng trai xuất thân từ gia đình khá giả. Tôi lấy Vũ Nương làm vợ, một người phụ nữ xinh đẹp và hiền hậu. Cuộc sống của chúng tôi rất hạnh phúc, cho đến khi tôi phải lên đường đi lính.

Anh ngừng lại, đôi mắt nhìn xa xăm như đang hồi tưởng lại những ký ức đau buồn.

- Khi trở về, tôi nghe con trai kể rằng mỗi đêm đều có một người đàn ông đến chơi với mẹ nó. Lòng tôi đầy nghi ngờ và ghen tuông. Tôi đã không tin tưởng Vũ Nương, đã nghi oan cho nàng. Trong cơn giận dữ, tôi đã đuổi nàng ra khỏi nhà.

Giọng anh nghẹn lại, tôi cảm nhận được nỗi đau và hối hận trong từng lời nói.

- Vũ Nương, trong tuyệt vọng, đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Chỉ khi nàng đã mất, tôi mới biết rằng mình đã sai. Bóng người đàn ông mà con trai tôi thấy thực ra chỉ là cái bóng của Vũ Nương khi nàng đùa giỡn cùng con bên ánh đèn.

Anh cúi đầu, giọng nói trầm xuống:

- Tôi đã sống trong sự hối hận suốt quãng đời còn lại. Mỗi ngày, tôi đều đến bờ sông này, mong tìm lại chút hình bóng của nàng, nhưng tất cả đã quá muộn.

Tôi cảm thấy lòng mình nặng trĩu, không biết nói gì để an ủi anh. Câu chuyện của Trương Sinh là một bài học về sự tin tưởng và tình yêu. Những hiểu lầm và nghi ngờ đã dẫn đến bi kịch, khiến anh phải sống trong nỗi đau khổ và hối hận suốt đời.

- Anh Trương Sinh, cuộc sống là một chuỗi những thử thách và sai lầm. Điều quan trọng là chúng ta học được gì từ những sai lầm đó. Anh đã nhận ra lỗi lầm của mình, điều đó cũng có nghĩa là anh đã trưởng thành hơn.

Trương Sinh ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt dường như dịu lại đôi chút. Anh khẽ gật đầu:

- Cảm ơn cậu. Tôi sẽ cố gắng sống tốt hơn, để chuộc lại phần nào lỗi lầm của mình.

Chúng tôi ngồi lặng lẽ bên bờ sông, cùng ngắm nhìn ánh hoàng hôn đang dần buông xuống. Cuộc gặp gỡ với Trương Sinh đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ. Câu chuyện của anh là một lời nhắc nhở về sự quý giá của niềm tin và tình yêu, về tầm quan trọng của việc thấu hiểu và chia sẻ trong mối quan hệ.

Rời bờ sông, tôi mang theo những suy ngẫm và bài học từ cuộc gặp gỡ đặc biệt này. Cuộc sống là một hành trình dài, và chúng ta cần phải học cách yêu thương và tin tưởng lẫn nhau để không phải hối tiếc về sau.

Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (mẫu 3)

Một buổi sáng mùa thu, tôi quyết định lên đường đến Sapa, mong muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng và cái đẹp hoang sơ của thiên nhiên. Khi xe lửa dừng lại ở ga Lào Cai, tôi bắt đầu chuyến hành trình dài đến đỉnh núi. Con đường uốn lượn qua những cánh rừng xanh mướt, qua những thửa ruộng bậc thang vàng rực trong nắng.

Trên đường, tôi tình cờ gặp một anh thanh niên độ chừng 27, 28 tuổi, dáng người cao gầy, khuôn mặt rám nắng và đôi mắt sáng ngời. Anh mặc một chiếc áo khoác dày, đôi giày vải đã sờn và mang theo một chiếc ba lô nhỏ. Tôi chào hỏi và anh đáp lại bằng nụ cười thân thiện. Sau một lúc trò chuyện, tôi mới biết anh là người làm công tác khí tượng trên đỉnh núi Yên Sơn, một công việc lặng lẽ nhưng vô cùng quan trọng.

- Anh sống một mình trên đỉnh núi suốt nhiều năm qua, không thấy cô đơn sao? - Tôi hỏi.

Anh cười, ánh mắt trở nên xa xăm:

- Ban đầu thì cũng có chút cô đơn, nhưng dần dần tôi thấy quen. Công việc của tôi là ghi chép và báo cáo các số liệu khí tượng, một việc tuy lặng lẽ nhưng có ý nghĩa lớn. Hơn nữa, tôi yêu thiên nhiên, yêu sự tĩnh lặng và yên bình của nơi này. Mỗi ngày, tôi đều nhìn thấy những điều kỳ diệu mà thiên nhiên mang lại.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình lên đỉnh núi. Anh dẫn tôi qua những con đường mòn, những khung cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Khi đến trạm khí tượng, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn nằm giữa những tán cây xanh, tôi cảm nhận được sự ấm áp và yên bình.

- Mời anh vào nhà, tôi sẽ pha một ấm trà nóng. - Anh nói.

Trong căn nhà nhỏ gọn gàng, chúng tôi ngồi xuống và thưởng thức ly trà thơm. Tôi ngắm nhìn những thiết bị khí tượng được sắp xếp ngăn nắp và những cuốn sổ ghi chép đầy chữ.

- Anh làm công việc này từ bao giờ? - Tôi tò mò hỏi.

- Từ khi tôi ra trường, cũng được gần 5 năm rồi. Lúc đầu tôi cũng không nghĩ mình sẽ gắn bó lâu như vậy, nhưng rồi tôi nhận ra đây là công việc tôi yêu thích và cảm thấy có ích.

Anh kể về những ngày tháng sống và làm việc trên đỉnh núi, những kỷ niệm vui buồn và cả những khó khăn mà anh đã trải qua. Tôi càng lắng nghe, càng cảm phục lòng nhiệt huyết và tình yêu thiên nhiên của anh.

Buổi chiều, khi mặt trời bắt đầu lặn, anh dẫn tôi lên một đỉnh cao để ngắm hoàng hôn. Ánh nắng vàng rực rỡ chiếu xuống những thửa ruộng bậc thang, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Anh nói:

- Mỗi ngày, tôi đều chứng kiến khoảnh khắc này. Đây là phần thưởng lớn nhất cho công việc lặng lẽ của tôi.

Tôi đứng lặng người, cảm nhận sự yên bình và vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên. Chuyến gặp gỡ với anh thanh niên làm công tác khí tượng đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu đậm. Tôi hiểu rằng, dù công việc có lặng lẽ và đơn độc đến đâu, nếu ta có tình yêu và đam mê, ta sẽ tìm thấy niềm vui và ý nghĩa trong cuộc sống.

Rời Sapa, tôi mang theo những kỷ niệm đẹp và bài học quý giá từ anh thanh niên, người đã chọn cho mình một con đường khác biệt nhưng đầy ý nghĩa. Những bước chân anh vẫn đều đặn trên đỉnh Yên Sơn, ghi lại những thay đổi nhỏ nhất của thiên nhiên, đóng góp vào sự phát triển và hiểu biết của nhân loại.

Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (mẫu 4)

Mỗi nhân vật văn học đều ghi lại trong tôi nhiều ấn tượng khác nhau. Khi câu chuyện về họ khép lại, lòng tôi lại gợi mở ra nhiều suy nghĩ. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” có lẽ là người gây cho tôi nhiều ám ảnh nhất. Nỗi ám ảnh ấy theo tôi cả vào giấc mơ.

Trong mơ, tôi thấy mình đang ở một ngôi làng nhỏ miền trung du, mấy chục ngôi nhà đứng cạnh nhau. Không điện đường, không khói bụi ồn ào, tất cả bình yên trong treo trông như làng quê nhiều năm về trước. Tôi mơ màng bước đi trên con đường đất nhỏ. Dưới gốc đa xù xì, người đứng người ngồi, trò chuyện râm ran. Xa xa có cánh đồng lúa rộng bao la, đàn cò bay lượn trắng cả một vùng…

Tôi lang thang hết đoạn đường dài, đến khi chân mỏi định tìm một nơi nghỉ tạm. Bất ngờ tôi nhìn thấy một ông cụ khoảng chừng sáu mươi tuổi, dáng người mảnh khảnh ngồi trong quán nước vừa hút thuốc lào vừa uống nước chè, miệng chóp chép ra điều đắc ý lắm. Càng nhìn, tôi càng thấy giống dáng vẻ ông Hai mà nhà văn Kim Lân miêu tả. Không lẽ tôi đi vào giấc mơ gặp ông Hai? Nghĩ vậy, tôi mạnh dạn bước tới chỗ quán nước, hỏi ông:

- Cháu chào ông ạ! Ông có phải ông Hai người làng chợ Dầu không ạ?

Nghe tôi nhắc tới làng chợ Dầu, ông liền ngẩng mặt nhìn tôi, hai mắt sáng rỡ:

- Đúng rồi cháu, ông là người làng chợ Dầu. Cháu là ai? Cũng là người làng tản cư lên ư? Sao ông lại chưa thấy cháu bao giờ?

Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ, ông đúng là ông Hai thật. Nhưng nơi này không phải làng của ông mà là nơi tản cư. Tôi lễ phép đáp lại câu hỏi của ông:

- Dạ cháu từ nơi khác đến đây. Cháu có nghe nói đến làng chợ Dầu nên muốn hỏi ông vài điều ạ.

- Cháu ngồi xuống đây, uống miếng nước rồi ông cháu mình nói chuyện. - Nghe nhắc tới làng của mình, ông Hai phấn khởi ra mặt, ông rót cho tôi một chén nước rồi bảo tôi ngồi xuống.

Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu, đành hỏi ông làng Chợ Dầu của ông cách đây bao xa, làng có giống như nơi này không. Ông như chỉ chờ có vậy, nói một hơi dài không nghỉ, ông khoe:

- Làng ông có phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều phát thanh cả làng đều nghe thấy. Làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, buồn không hề dính tới gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. – Mắt ông sang lên, nói rành mạch không sai một chữ, giống như ông đã ghi nhớ hết, chỉ cần có ai hỏi là ông có thể nói ngay.

Dừng một lát, như nhớ ra điều gì đó, ông lại nói:

- Chết! Còn cái dinh cơ cụ thượng làng ông. Có lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy. Có cái tượng đá ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày, bát tiên quá hải bằng người sứ. Cả cái cọc sắt cắm vào cái bầu rượu có đắp 4 con giơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần là cột thu lôi, thu cả sấm sét vào. Khiếp lắm!

Ông mải mê khoe mãi, khoe hết mọi thứ trong làng ông. Nhân lúc ông dừng lại uống nước, tôi liền hỏi:

- Làng tốt như vậy, sao ông lại tản cư đến đây ạ?

Không hào hứng như trước đó, khuôn mặt ông như trầm hẳn xuống, ông không trả lời tôi ngay mà hướng ánh mắt ra xa, chậm rãi nói:

- Kháng chiến nổ ra, ông cũng không muốn xa làng, muốn ở lại cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến bảo vệ làng. Nhưng sau cùng, ông vẫn phải mang theo gia đình đi tản cư. Ông nhớ làng, nhớ cả những ngày tháng cùng anh em đào đường đắp ụ, mệt nhưng mà vui lắm… Nhớ làng nên ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Ông vừa mới từ nơi đó ra đây ngồi thì gặp cháu.

Cảm nhận được nỗi nhớ nặng trĩu qua giọng nói của ông, tôi vừa thương vừa khâm phục tình yêu làng của ông. Để ông không quá đau lòng khi nhớ làng mà vẫn chưa thể trở về, tôi vội hỏi:

- Hẳn là có nhiều tin tức thắng trận từ làng lắm đúng không ạ?

- Có chứ cháu, tin quân ta giết địch, rồi tin thằng bé nhỏ tuổi dám bơi ra giữa hồ cắm cờ của ta. Nghe mà ruột gan ông cứ múa hết cả lên. – Nét mặt ông lại rạng rỡ hẳn lên. Có lẽ tình yêu làng tha thiết đã hun đúc lên tình yêu nước mãnh liệt trong ông

Tôi thấy ông lại lặng người đi, không hiểu vì sao cũng không dám lên tiếng hỏi. Một lát sau đó, ông lại tiếp tục kể:

- Cách đây ít lâu, ông nghe tin dữ từ làng Chợ Dầu. Hôm ấy, ông gặp tốp người tản cư từ Gia Lâm, người ta nói cả làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Cảm giác đó vẫn còn nguyên, cổ họng nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cố hỏi lại nhưng người ta vẫn khăng khăng đó là sự thật. Sau đó, người ta nói gì ông cũng không nghe rõ, cúi mặt mà đi về.

Ông Hai yêu làng như vậy, ngày nào cũng chờ mong tin tức về làng, đến khi nghe tin lại là tin như thế. Chắc hẳn khi ấy, ông đau đớn bàng hoàng lắm. Tôi chỉ nghĩ thầm trong lòng mà không dám ngắt lời ông. Dù là chuyện đã qua và không phải sự thật nhưng nỗi đau khi ấy nhớ lại vẫn làm ông nghẹn ngào:

- Khoảng thời gian đó rất khó khăn. Ông không tin người làng lại đổ đốn ra đến vậy. Nhưng không có lửa làm sao có khói? Nhìn lũ con ông lại càng đau đớn hơn, nếu là thật chẳng phải chúng là trẻ con làng Việt gian sao? Rồi ông lại hay tin người làng Chợ Dầu đi đến đâu là đuổi đến đó. Gia đình ông cũng là người làng Chợ Dầu, lại đang tản cư. Mụ chủ nhà hôm ấy cũng tới đuổi khéo. Ông bế tắc không biết làm thế nào cho phải…

- Ông có nghĩ sẽ quay về làng không ạ? – Tôi hỏ

Ông Hai lại nhấp thêm một ngụm chè:

- Suy nghĩ ấy có thoáng qua, nhưng làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Thằng con út ông ấy vậy mà thông minh lắm, những ngày tin làng theo giặc đồn ra, xấu hổ nhục nhã ông nào dám đi đâu. Ở nhà, ông thủ thỉ nói chuyện với nó, thằng bé muốn về làng nhưng nó ủng hộ cụ Hồ. Tâm bố con ông là vậy, bên trên cụ Hồ, an hem soi xét cho bố con ông.

Đoạn, nét mặt ông vui tươi hẳn lên:

- Nhưng may mắn cháu ạ, mấy hôm sau, tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính. Bọn Tây nó đốt nhà ông, ông chủ tịch làng ông lên tận nơi cải chính. Ông vui quá cháu ạ.

Tôi thấy nước mắt ông tràn qua kẽ mắt, thầm cảm động lòng yêu làng của ông. Dù ông nói phải thù vì làng theo Tây mất rồi, nhưng ông vẫn chưa từng thôi hy vọng tin tức kia là giả, làng của ông vẫn là làng kháng chiến. Tôi định hỏi tiếp thì nghe thấy tiếng loa phát thanh ở xa, ông Hai đứng dậy rồi chạy đi. Tôi gọi với theo thì chỉ nghe tiếng ông vọng lại:

- Chắc là có tin ta thắng trận, ông phải ra xem mới được…

Tôi choàng tỉnh. Nhìn bầu trời đầy sao bên ngoài cửa sổ tôi mới hay mình ngủ quên trên bàn học, quyển sách giáo khoa mở đúng truyện ngắn “ Làng”. Dù chỉ là một giấc mơ nhưng tôi vẫn cảm nhận được tình cảm yêu làng, yêu nước đáng quý của ông Hai. Ông chính là đại diện cho tầng lớp nông dân yêu nước, kháng chiến giành độc lập dân tộc, đáng trân trọng, ngợi ca.

Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (mẫu 5)

“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Và cũng là câu chuyện khiến em thích thú nhất. Câu chuyện về người con gái nhân cách, đẹp người đẹp nết nhưng bạc mệnh. Ước mơ của em đó là một lần được gặp nhân vật Vũ Nương để tâm sự với cô về cuộc đời đầy bể dâu trầm luân của nàng. Và hôm nay giấc mơ của em đã thành sự thật. Em đã được gặp người phụ nữ đó trong một giấc mơ tuyệt đẹp để nghe nàng kể về cuộc đời đầy bi ai của mình.

Đó là một giấc mơ vô cùng chân thực. Em đã gặp được nàng Vũ Nương trong câu chuyện bằng xương bằng thịt thực sự chứ không phải mơ hồ qua con chữ nữa. Lúc đó em thấy mình như đi lạc vào một thủy cung, xung quanh chỉ toàn những cung điện nguy nga đồ sộ. Bỗng thấy có một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp nhưng ánh mắt hiện lên vẻ u buồn, sầu bi.

Em tiến lại gần nàng và quan sát “ồ người con gái này sao quen vậy? Liệu có phải là người mà mình đã biết không?”. Nghĩ vậy em mạnh dạn tiến lên bắt chuyện: “Chào chị chị có phải là Vũ Nương không?” – Đáp lại em là cái nhìn đầy nghi hoặc của nàng, rồi nàng lẳng lặng gật đầu. Em cũng đáp lại: “Em đã được đọc câu chuyện “Người con gái Nam Xương” của tác giả Nguyễn Dữ nói về cuộc đời của chị và em rất mong được một lần lắng nghe chị kể về mình”. Vũ Nương đưa mắt nhìn em rồi trầm ngâm “Em thực sự muốn nghe câu chuyện của ta sao?”

– Vâng ạ! Em đáp lại.

Đến lúc này em mới kịp chiêm ngưỡng hết khuôn mặt chị. Đó phải nói là một người con gái vô cùng xinh đẹp mới chỉ ngoài 20 tuổi ở nàng hiện lên vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng nhưng cũng ẩn chứa sâu trong đôi mắt là sự buồn rầu, và đầy suy tư.

Vũ Nương tiến về phía chiếc bàn đá và ngồi xuống em cũng lặng lẽ theo sau. Rồi nàng thong thả kể:

Cuộc đời của ta là một câu chuyện rất dài và đầy u buồn. Ta sinh ra trong một gia đình nghèo bố mẹ làm nông nghiệp. Lớn lên ta có chút dung mạo hơn người nên được Trương Sinh con trai một gia đình hào phú giàu có để ý. Sau đó ta theo chàng về làm vợ. Năm đó binh lửa chiến tranh khắp nơi trai tráng phải tòng quân ra chiến trường. Ta gạt nước mắt tiễn chồng ra trận khi đang mang trong mình giọt máu của hai người.

Ta chẳng có mơ ước gì cao sang chồng được chiến công lẫy lừng hay gì hết chỉ mong hết chiến tranh chàng về đoàn tụ với gia đình với mẹ con ta là vui mừng lắm rồi. Nói rồi nàng khẽ gạt giọt nước mắt trên khóe mi. Ôi sao thấy Vũ Nương thật vô cùng nhỏ bé, nàng cũng chỉ là một người phụ nữ nhỏ bé có một khao khát vô cùng thực tế đó là ước mơ về một mái nhà với vợ chồng, con cái đầy đủ.

Nói rồi nàng tiếp tục câu chuyện: Sau khi Trương Sinh đi tòng quân mẹ chồng ta ở nhà vì khóc thương con mà sinh bệnh dẫu ta có chạy chữa trăm ngàn phương thuốc, khấn bái bao nơi cửa phật cũng không thuyên giảm. Rồi một thời gian bệnh nặng bà qua đời. Trước lúc nhắm mắt bà còn dặn ta “Con đối xử tốt với mẹ chồng con quyết không phụ con”. Mẹ chồng mất một tay ta vừa chăm con nhỏ lại vừa lo ma chay cúng lễ đầy đủ chu toàn, Một lòng cầu mong ngày sum họp gia đình.

Con trai ta là đứa bé ba tuổi tên Đản. Thằng bé cũng giống như bao đứa trẻ khác mới tập nói nên thấy con nhà người khác gọi tiếng cha về cũng hỏi ta cha nó đâu. Mỗi đêm ru con ngủ ta thường chỉ bóng mình trên vách và thì thầm với nó “Cha Đản về kìa”. Thằng bé cười khúc khích. Nhìn con trẻ lòng ta càng chua xót, càng mong binh lửa mau tan để chồng về đoàn tụ.

Thế nhưng cái ước mơ đó quá xa xỉ với ta. 3 năm sau Trương Sinh trở về từ chiến trận. Mừng mừng tủi tủi ta những tưởng từ đây cuộc đời ta sẽ vui vẻ hạnh phúc bên chồng con thế nhưng nó cũng là sự khởi nguồn cho mọi bi kịch đau thương.

Trong một lần dỗ con trai, dưới ánh đèn dầu thằng bé ngây ngô chỉ vào cái bóng mình trên vách và nói với cha nó là “Cha Đản lại về kìa”. Trương Sinh tức giận không nói nên lời gặng hỏi thì thằng bé ngây ngô đáp: “Tối nào cũng thấy cha nó về”. Trương Sinh không hỏi han mà thẳng thừng trách móc ta vô tình, quên nghĩa. Quá đau buồn ta liền trẫm mình xuống dòng sông Hoàng Giang tự tử để rửa hết nỗi oan.

Tuy ta thương xót con, giận chồng nhưng ta không biết làm sao để chàng tin mình. Mặc dù sau đó chính cái bóng trên tường đã minh oan cho ta, Trương Sinh cũng lập đàn giải oan cho ta thế nhưng suốt những ngày tháng sống dưới thủy cung ta vẫn không nguôi thương nhớ chồng con. Nói rồi Vũ Nương bật khóc nức nở. Còn em chỉ biết lặng lẽ nhìn người con gái bạc mệnh chịu tiếng đời.

Trước khi từ biệt Vũ Nương quay sang nói với em rằng: “Ta cảm ơn em đã đồng cảm và thấu hiểu cho kiếp người của ta. Ta không trách ai cả chỉ trách mình phận mỏng không giữ nổi hạnh phúc gia đình”. Rồi nàng biến mất.

Lúc ấy cũng là lúc tiếng chuông báo thức vang lên em chợt tỉnh giấc mộng và cũng chuẩn bị cho kịp giờ đi học. Nhưng câu chuyện của Vũ Nương vẫn còn ám ảnh em mãi. Vũ Nương một người con gái tài hoa nhưng mệnh bạc. Tuy kiếp đời ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người con dâu, một người vợ và một người mẹ. Thế nhưng nàng chịu tiếng oan của cuộc đời. Trương Sinh chỉ là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến bi kịch cuộc đời nàng còn nguyên nhân gián tiếp là do chiến tranh đã đẩy cuộc đời nàng vào bi kịch.

1 25 06/01/2025