Sách bài tập Ngữ Văn 11 Bài 3: Truyện - Cánh diều

Với giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 11 Bài 3: Truyện sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 11.

1 785 30/11/2023


Giải SBT Ngữ Văn 11 Bài 3: Truyện - Cánh diều

I. Bài tập đọc hiểu

Chí Phèo

Câu 1 trang 21 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Nối các phần được đánh số ở cột A với nội dung tương ứng ở cột B để xác định đúng nội dung chính của mỗi phần trong truyện Chí Phèo (Nam Cao).

A

B

1)

a) Chí Phèo ở tù về, đến nhà bá Kiến rạch mặt ăn vạ.

2)

b) Chí Phèo bị thị Nở từ chối.

3)

c) Chí Phèo say rượu “vừa đi vừa chửi,

4)

d) Chí Phèo tuyệt vọng, uất ức đi đòi lương thiện, giết bá Kiến rồi tự sát.

5)

e) Làng Vũ Đại xôn xao sau cái chết của bá Kiến và Chí Phèo, thị Nở thấy thoáng hiện ra cái lò gạch cũ.

6)

g) Chí Phèo thức tỉnh, sống trong tình yêu và sự chăm sóc của thi Nở.

Trả lời:

1) – c, (2) – a, (3) – g; (4) – b), (5) – d, (6) – e.

Câu 2 trang 22 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 3, SGK) Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Vì sao Chí Phèo lại mang dao đi giết bá Kiến và tự sát?

Trả lời:

* Phân tích diễn biến tâm trạng của Chi Phèo sau khi gặp thị Nở đến trước khi giết bá Kiến.

Để thực hiện yêu cầu này, HS đọc hai đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Đoạn 1: từ “Khi Chí Phèo mở mắt” đến “... còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau” và trả lời các câu hỏi để thấy được tâm trạng của Chí Phèo:

+ Chí Phèo có những cảm nhận như thế nào về cuộc sống xung quanh (ánh sáng. âm thanh)?

+ Chí Phèo có những cảm nhận như thế nào về cơ thể mình?

+ Chí Phèo có những suy nghĩ như thế nào về cuộc đời (quá khứ, hiện tại, tương lai)?

+ Chí Phèo thay đổi như thế nào so với ngày hôm qua? Nguyên nhân của sự thay đổi ấy là gì?

+ Phân tích nghệ thuật mà tác giả sử dụng để thể hiện tâm trạng của Chí Phèo khi tỉnh dậy.

Với những câu hỏi trên, HS cần trả lời được:

+ Cảm nhận của Chí Phèo về cuộc sống xung quanh: Hắn nhận thấy ánh sáng “Mặt Trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”, nghe thấy âm thanh “chim hót ríu rít bên ngoài, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá” → “chao ôi là buồn”.

+ Cảm nhận của Chí Phèo về cơ thể mình: Hắn thấy “miệng đắng, người bùn rùn, chân tay không buồn nhấc, ruột gan nôn nao lên một tí, sợ rượu” → “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”.

+ Chí Phèo suy nghĩ về cuộc đời mình: quá khứ xa xôi: “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê, cuốc mướn, vợ dệt vải. Chúng bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng. Khá giả mua dăm ba sào ruộng làm” → “nao nao buồn”; hiện tại: già, cô độc, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời → buồn thay cho đời; tương lai: tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc → “đáng sợ”.

+ Với sự trở lại của giác quan người, cảm xúc người, nhận thức người, “con quỷ dữ làng Vũ Đại” đang thức tỉnh, bắt đầu hồi sinh để trở về kiếp người.

+ Ngòi bút miêu tả và phân tích tâm lí tài tình của Nam Cao: Bằng yếu tố ngoại cảnh, thủ pháp đồng hiện, ngôn ngữ nửa trực tiếp, ngòi bút nhà văn đã lách vào những vi mạch sâu kín nhất của thế giới nội tâm nhân vật, khơi dòng ý thức, tâm lí làm hiện hình các trạng thái cảm xúc phức tạp trong tâm trí con người.

– Đoạn 2: từ “Cũng may thị Nở vào” đến “... hỏi có thị đã” và trả lời các câu hỏ để thấy được tâm trạng của Chí Phèo:

+ Chí Phèo có cảm nhận như thế nào về bát cháo hành?

+ Chí Phèo có những cảm nhận như thế nào về thị Nở?

+ Chí Phèo có những cảm nhận như thế nào về chính mình?

+ Chí Phèo thay đổi như thế nào so với ngày hôm qua? Nguyên nhân của sự thay đổi ấy là gì?

+ Phân tích nghệ thuật mà tác giả sử dụng để thể hiện tâm trạng của Chí Phèo khi gặp lại thị Nở.

Với những câu hỏi trên, HS cần trả lời được:

+ Cảm nhận của Chí Phèo về bát cháo hành: nhìn bát cháo: “mắt hình như ươn ướt”; ngửi bát cháo: “cháo thơm, khói xông lên mũi làm cho nhẹ nhõm”; húp cháo “cháo hành ăn rất ngon, bát cháo làm hắn suy nghĩ nhiều: tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù” → ngạc nhiên, xúc động bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, ăn năn.

+ Cảm nhận của Chí Phèo về thị Nở: trông thị thế mà có duyên, cái mũi đỏ của thị bạnh ra, hắn thấy thế cũng không có gì là xấu; muốn làm nũng với thị như với mẹ “say thị lắm”.

+ Cảm nhận của Chí Phèo về chính mình: hắn hiền, không còn là thằng Chỉ Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người; không còn mạnh nữa, không liều được nữa; lo cho tương lai ốm yếu, cô độc, đói rét → thèm lương thiện, thèm làm hoà với mọi người, muốn được nhận vào xã hội bằng phẳng, thân thiện của người lương thiện, muốn ở một nhà, lấy thị Nở.

– Bát cháo hành vừa là liều thuốc giải cảm vừa là liều thuốc “giải độc” tâm hồn Chí Phèo. Nhờ bát cháo hành chan chứa yêu thương, cảm xúc người và khát vọng người trong Chí đã được thức tỉnh. Vậy là Chí Phèo đã thực sự hồi sinh, đặt chân

lên ngưỡng cửa cuộc sống làm người.

+ Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật (độc thoại, đối thoại nội tâm), sử dụng chi tiết nghệ thuật đặc sắc.

* Vì sao khi bị thị Nở từ chối, Chí Phèo lại mang dao đi giết bả Kiến và tự sát?

HS cần nhận thấy:

- Khi không có cách gì níu giữ được thị Nở, Chí Phèo rơi vào tinh thể tuyệt vọng. Chí vật vã, đau đớn. Tuyệt vọng nên hắn lại uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh lại càng ý thức rõ về nỗi đau thân phận. Vì thế, hắn ôm mặt khóc rung rức và cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Chi tiết này được nhà văn nhắc tại nhiều lần nhằm tô đậm niềm khát khao được yêu thương và bi kịch tinh thần của Chí. Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí đã mang dao đi giết bá Kiến và tự sát.

- Như vậy, Chí đã hành động như một người tỉnh táo với những suy nghĩ sâu sắc. Chí đã nhận ra kẻ thù của mình, người đã đẩy mình vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Cái chết của Chí cũng là tất yếu, vì Chí đã thức tỉnh – nghĩa là anh ta không thể đập phá, chém giết như trước được nữa. Chí muốn lương thiện nhưng không ai cho hắn lương thiện. Kẻ thù của Chí đâu phải chỉ có một mình bá Kiến mà là cả xã hội thối nát và ác độc đương thời. Bởi vậy, Chí phải tìm đến cái chết, chỉ có cái chết mới giúp Chí thoát khỏi kiếp sống của con quỷ dữ. Trước đây, để tồn tại Chí phải bán linh hồn cho quỷ dữ; nay linh hồn trở về, Chí phải đổi cả sự sống của mình. Ở Chí, niềm khao khát được sống lương thiện cao hơn cả tính mạng.

Để phân tích vai trò, ý nghĩa của diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở, HS cần thấy được:

– Nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở đến trước khi giết bá Kiến, nhà văn đã sử dụng nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm li nhân vật (yếu tố ngoại cảnh, thủ pháp đồng hiện, ngôn ngữ nửa trực tiếp, độc thoại và đối thoại nội tâm), lựa chọn chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Qua đó, tác giả khẳng định và tin tưởng vào sức sống bất diệt của bản chất lương thiện ở người nông dân cả khi họ bị bằm nát nhân hình, huỷ hoại nhân tính. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm.

– Cái chết của Chí có ý nghĩa tố cáo mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến không những đẩy người nông dân lương thiện vào con đường bần cùng hoá, lưu manh hoá mà còn đẩy họ vào chỗ chết.

Câu 3 trang 22 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 4, SGK) Theo em, nỗi khốn khổ, tủi nhục lớn nhất của Chí Phèo là gì? Vì sao? Qua nhân vật này, nhà văn thể hiện những tình cảm, tư tưởng nào?

Trả lời:

Những nỗi khốn khổ, tủi nhục của Chí Phèo: bần cùng hoá, lưu manh hoá và đẩy Chí vào chỗ chết / bị cự tuyệt quyền làm người. Trong đó, bị cự tuyệt quyền làm người là nỗi khốn khổ, tủi nhục lớn nhất HS có thể lí giải theo cách hiểu của riêng mình, miễn là lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục.

Qua việc xây dựng nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân phong kiến tàn bạo đã cướp đi của người nông dân lương thiện cả nhân hình lẫn nhân tính; đồng thời, nhà văn đã phát hiện, khăng định và trân trọng bản chất tốt đẹp của những con người này ngay khi tưởng chừng họ đã bị biến thành quỷ dữ.

Câu 4 trang 22 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Theo em, truyện Chí Phèo có những nét đặc sắc nào về nghệ thuật? Chỉ ra biểu hiện cụ thể và tác dụng của những nét đặc sắc về nghệ thuật đó.

Trả lời:

Truyện Chí Phèo có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật:

- Cách mở đầu truyện: Mở đầu truyện là hình ảnh đầy ấn tượng - Chí Phèo vừa đi vừa chửi. Việc chửi bới của Chí chính là phản ứng của hắn với toàn bộ cuộc đời Nó bộc lộ tâm trạng bất mãn của một người ít nhiều ý thức được mình đã bị xã hội phi nhân tính gạt ra khỏi thế giới loài người. Chi tiết này thật đơn giản, nhưng Nam Cao đã nói được với người đọc rất nhiều về kiếp sống cô độc của người nông dân bị tha hoá, không còn được làm người.

- Tạo dựng không gian và thời gian:

+ Không gian: Toàn bộ truyện diễn ra ở làng Vũ Đại. Đây chính là không gian nghệ thuật của tác phẩm này. Làng Vũ Đại có số dân “không quá hai nghìn”, lại “xa phủ, xa tỉnh”; có tôn ti trật tự nghiêm ngặt; đám cường hào ở làng kết bè kéo cánh như một đàn cá tranh mồi; những người dân thấp cổ bé họng, hiền lành suốt đời bị ức hiếp, đè nén, chỉ è cổ làm để nuôi bọn lí hào;... Đây là một không gian sống động, ngột ngạt, đen tối. Qua đó, tác giả đã làm nổi bật mối xung đột giai cấp âm thầm mà quyết liệt ở nông thôn. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

+ Thời gian: Truyện không kết cấu theo trình tự thời gian, lúc đầu đi thẳng vào giữa truyện, sau mới ngược thời gian kể về lai lịch của nhân vật rồi lại quay lại hiện tại. Thời gian trần thuật trong truyện gói gọn trong khoảng thời gian sáu ngày từ lúc Chí Phèo vừa đi vừa chửi và năm ngày ở bên thị Nở đến buổi sáng giết ba Kiến rồi tự sát. Qua đó, nhà văn đã cho thấy sự hồi sinh và nhấn mạnh bi kịch của Chí Phèo. Sử dụng chi tiết: tiếng chửi, bát cháo hành, các chi tiết về ngoại hình, hành động, cử chỉ, lời nói, suy nghĩ / tâm trạng của Chí Phèo,...

– Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật:

nhân vật sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cái nhìn của người kể chuyện; dẫn dắt + Trong truyện, ngôn ngữ kể chuyện là toàn bộ lời giới thiệu, miêu tả đối với người đọc đi vào thế giới của tác phẩm; mách bảo, chỉ dẫn cho người đọc về cách hiểu nhân vật, tình huống và khơi gợi những phản ứng tình cảm của họ. Do vậy, nó gắn liền với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu của tác phẩm. Ngoài ra, trong truyện, nhà văn còn sử dụng dụng ngôn ngữ trấn thuật nửa trực tiếp. Ở đó lời người kể chuyện (lời gián tiếp) có hàm chứa những yếu tố lời trực tiếp như ý nghĩ, cảm xúc, từ ngữ,. của nhân vật. Nam Cao tạo được giọng văn trần thuật độc đáo, kết hợp thật hài hoà giữa đối thoại với độc thoại, giữa lời gián tiếp với lời nửa trực tiếp Do đặc điểm này, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật nhiều khi được lồng ghép vào nhau. Ngôn ngữ truyện vì thế vừa rất linh hoạt, uyển chuyển vừa có tác dụng thể hiện tính cách, tâm lí nhân vật.

+ Ngôn ngữ nhân vật là lời nói trực tiếp của các nhân vật như Chí Phèo, bá Kiến, thị Nở,... Nhưng đôi khi ngôn ngữ của nhân vật cũng được lồng vào ngôn ngữ nửa trực tiếp như trên. Ngôn ngữ của các nhân vật là một phương diện quan trọng thể hiện tính cách, tâm lí của họ, nhất là ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Chí Phèo. Qua đó, nhà văn đã phân tích được một cách sâu sắc tâm lí của nhân vật.

– Ngôi kể và sự thay đổi điểm nhìn:

+ Ngôi kể thứ ba.

+ Điểm nhìn gồm có điểm nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn của nhân vật (Chí Phèo, bá Kiến, thị Nở). Tác dụng của sự thay đổi điểm nhìn: giúp cho nhà văn có khả năng nhập vào các vai, chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên đồng thời, tạo cho tác phẩm nhiều giọng điệu đan xen lẫn nhau, phong phú và biến hoá, làm nên sức hấp dẫn đối với người đọc.

Câu 5 trang 22 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Nêu chủ đề chính và một số chủ đề phụ (nếu có) của truyện Chi Phèo.

Trả lời:

– Chủ đề chính của truyện Chí Phèo: phản ánh được cuộc sống cùng quẫn, đen tối của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám; khơi sâu bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của những người cùng khổ như Chí Phèo; thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nam Cao, nhất là bộc lộ tấm lòng thương cảm sâu xa, thái độ trân trọng thực sự những phẩm chất tốt đẹp của con người.

Một số chủ đề phụ của truyện Chí Phèo: phê phán giai cấp thống trị tàn bạo đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng; phê phán những hủ tục lạc hậu, ca ngợi sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người;...

Câu 6 trang 22 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc đoạn trích truyện Chí Phèo sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

“Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ doạ giết “nó”, và cứ đi. Bây giờ đến ngõ nhà cụ bá. Hắn xông xông đi vào. Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ thấy sao bực mình! Chính thật thì cụ đã đang bực mình. Bởi vì cụ thấy đầu hơi nhức [...] Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu như Chí Phèo. Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hảo. Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người:

- Chí Phèo đấy hở? Lè bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho.

Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:

- Cầm lấy mà cút, đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?

Hắn trợn mắt, chỉ vào mặt cụ: – Tao không đến đây xin năm hào. Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:

– Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.

Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:

– Tao đã bảo tạo không đòi tiền.

– Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?

Hắn dõng dạc:

– Tao muốn làm người lương thiện.

Bá Kiến cười ha hả:

- Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.

Hắn lắc đầu:

- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không!... Chỉ còn một cách là... cái này! Biết không!..

Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứa ra.

Cả làng Vũ Đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi: “Trời có mắt đấy, anh em ạ!”. Người khác thì nói toạc: “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng giết nhau, nào có phải cần đến tay người khác đâu.”. Mừng nhất là họ kì hào ở trong làng. Họ tuôn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lí Cường bằng những con mắt thoả mãn và khiêu khích. Đội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ trước mặt bao nhiêu người: “Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn.”. Ai chả hiểu “người ta” đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: “Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng.”.

Những người biết điều thì hay ngờ vực; họ chép miệng nói: “Tre già măng mọc thằng ấy chiến, còn thắng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu.”.

Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:

Phúc đời nhà này, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo.

Thị cười và nói lảng:

- Hôm qua làm biên bản, lí Cường nghe đầu tốn gần một trăm. Thiệt người lại thiệt của.

Nhưng thị lại nghĩ thầm:

- Sao có lúc nó hiền như đất.

Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng

- Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?

Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua.”.

a) Xác định những điểm nhìn được sử dụng trong đoạn trích.

b) Đoạn trích kế về việc gì?

c) Chí Phèo dõng dạc nói: “Tao muốn làm người lương thiện”. Em hiểu lời nói đó như thế nào?

d) Có người cho rằng Chí Phèo giết bá Kiến vì say rượu. Em có đồng ý không?

e) Hãy lí giải vì sao sau khi giết bá Kiến, Chí Phèo lại tự sát? Cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa như thế nào?

g) Nêu cách hiểu của em về hình ảnh ở cuối tác phẩm: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện tại một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua...”.

Trả lời:

a) Đoạn trích có sự kết hợp giữa điểm nhìn của tác giả với điểm nhìn của các nhân vật bá Kiến, thị Nở.

b) Đoạn trích kế về việc Chí Phèo giết bá Kiến rồi tự sát, thị Nở nghĩ lại việc ăn nằm với Chí Phèo và “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ xa nhà cửa, và vắng người lại qua...”.

c) Câu nói "Tao muốn làm người lương thiện" cho thấy Chí Phèo đã ý thức được bi kịch của mình (bị mất nhân hình, nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người), đồng thời, thể hiện khát khao được sống như một người bình thường lương thiện.

d) Có người cho rằng Chí Phèo giết bá Kiến vì say rượu. Song không phải như vậy, Chí Phèo giết bà Kiến vì Chí đã nhận ra được kẻ thủ của mình, kẻ đã đẩy mình vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

e) Sau khi giết bá Kiến, Chí Phèo tự sát. Đây không phải là hành động mù quáng do say rượu. Chí đã thức tỉnh, không thể đập phá và chém giết như trước; Chỉ muốn làm người lương thiện, nhưng ai cho hắn lương thiện. Kẻ thù của Chí không phả chỉ có mình bá Kiến mà là cả xã hội độc ác và thối nát đương thời. Giết bá Kiến rồi Chí cũng không được yên. Bởi vậy, Chí phải tự kết liễu đời mình. Chỉ có cái chết mới giúp Chí thoát khỏi kiếp sống của con quỷ dữ. Trước đây, để tồn tại, Chí phải bản bộ mặt và linh hồn cho quỷ; đến nay, khi linh hồn đã trở về, Chí phải đổi cả mạng sống của mình. Niềm khát khao được sống lương thiện lớn hơn cả tính mạng Vì thế, cái chết của Chí có ý nghĩa tố cáo xã hội đương thời đã khiến người nông dân lương thiện không những bị bần cùng hoá, lưu manh hoá mà còn bị cự tuyệt quyền làm người và bị đẩy vào chỗ chết.

g) Hình ảnh ở cuối tác phẩm (“Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua...”) có sức gợi rất lớn. Hình ảnh “cái lò gạch cũ” gắn với hình ảnh Chí Phèo ở đầu truyện, khi còn là đứa bé mới sinh được cuốn trong một cái váy đụp vứt ở cái lò gạch bỏ hoang. Ở cuối tác phẩm, hình ảnh này lại xuất hiện, tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, gợi cho người đọc suy nghĩ có thể sẽ có một Chí Phèo con cũng ra đời ở “cái lò gạch cũ” như thế và “nối nghiệp” bố. Như thế, hình ảnh “cái lò gạch cũ có thể được coi như là biểu tượng về sự xuất hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, nếu như xã hội không có những sự thay đổi lớn lao.

Chữ người tử tù

Câu 1 trang 24 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Truyện Chữ người tử tù sử dụng ngôi kể và điểm nhìn nào?

A. Ngôi thứ nhất số ít, người kể chuyện xưng “tôi”; điểm nhìn của người kể chuyện

B. Ngôi thứ nhất số nhiều, người kể chuyện xưng “chúng tôi”; điểm nhìn của người kể chuyện

C. Ngôi thứ nhất số ít, người kể chuyện xưng “tôi”; kết hợp điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của các nhân vật

D. Ngôi thứ ba; kết hợp điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của các nhân vật

Trả lời:

Đáp án D

Câu 2 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 2, SGK) Xác định tình huống truyện. Tình huống ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện đặc điểm của các nhân vật và tạo nên kịch tính cho câu chuyện?

Trả lời:

Tình huống truyện ở đây là cuộc gặp gỡ và mối quan hệ đặc biệt éo le giữa những tâm hồn tri kỉ - cũng là những nhân vật chính trong truyện: Huấn Cao và quản ngục (cùng với thây thơ lại). Nhà văn đã đặt họ vào một tình thế đối địch: một người là tử tù, một người là quản ngục.

Tình huống này đã làm nổi bật tính cách của Huấn Cao, viên quản ngục và tạo nên

kịch tính cho tác phẩm:

- Về tính cách: Huấn Cao tỏ thái độ hiên ngang, bất khuất, thậm chí “khinh bạc” khi tưởng viên quản ngục chỉ là một tên cai ngục thông thường với những nét tính cách tàn bạo, độc ác, ỷ thế, cậy quyền,... Nhưng khi biết quản ngục có “tắm lòng biệt nhỡn liên tài”, “có những sở thích cao quý”,... thì Huấn Cao thay đổi hẳn thái độ. Cũng nhờ tình huống này mà viên quản ngục mới thể hiện rõ tính cách của mình là một người biết trọng cái tài, cái đẹp, cái “thiên lương”, bất chấp luật pháp và trách nhiệm của quản ngục, hết lòng biệt đãi Huấn Cao; là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, “cái thuần khiết” “giữa một đống cặn bã”.

- Về kịch tính: Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, là những người hoàn toàn đối lập nhau: Một người là “đại nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn, bị bắt giam, chịu án chém và đang chờ ngày ra pháp trường; một người là quản ngục, đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Những tưởng quản ngục sẽ giờ “những trò tiểu nhân thị oai” với Huấn Cao nhưng ngược lại, vì say mê cái tài, cái đẹp và nhân cách của Huấn Cao mà quản ngục lại chân thành, cung kính biệt đãi kẻ tử tù. Mặc cho Huấn Cao tỏ thái độ khinh bạc, hằng ngày quản ngục vẫn sai người dâng Huấn Cao rượu thịt và thức nhắm, nói năng với người tù rất mực cung kính. Quản ngục đã bất chấp luật pháp, làm đảo lộn trật tự nhà tù, biến một kẻ tử tù thành một thần tượng để tôn thờ. Còn Huấn Cao, từ chỗ “khinh bạc” quản ngục, “đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục”, “bực mình thêm” đến chỗ “cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, cho quản ngục chữ và khuyên “thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở”, “giữ thiên lương cho lành vững”,... Những điều này tạo nên sự căng thẳng cho diễn biến của câu chuyện, tạo cho truyện kết thúc bất ngờ. Những mâu thuẫn, xung đột giữa hai nhân vật được “hoá giải” nhờ tâm hồn nghệ sĩ, sự trân trọng cái tài, cái đẹp và “thiên lương” trong sáng.

Câu 3 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 3, SGK) Nêu cảm nhận của em về nhân vật Huấn Cao.

Trả lời:

Đặc điểm sau của nhân vật Huấn Cao:

- Là một người tài hoa, nghệ sĩ (có tài viết chữ đẹp).

- Là một người có khí phách hiên ngang (là một trang anh hùng, dũng liệt).

- Là một nhân cách trong sáng, cao cả / có “thiên lương” trong sáng (bản tính tốt lành).

Câu 4 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 6, SGK) Đối lập là biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong các tác phẩm văn học lãng mạn. Hãy chỉ ra các biểu hiện và phân tích tác dụng của biện pháp đó trong truyện ngắn Chữ người tử tù.

Trả lời:

Đối lập được sử dụng ở nhiều phương diện trong truyện

– Về nhân vật, Huấn Cao và viên quản ngục là hai người đối lập nhau trên bình diện xã hội.

Về chi tiết, cảnh cho chữ được tác giả xây dựng bằng thủ pháp đối lập:

+ Việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật nhưng lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hội hám của nhà tù (tưởng đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián). Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hội hám, nhơ bẩn; “thiên lương” cao cả lại toả sáng ở chính nơi mà bóng tối và cái ác đang ngự trị.

+ Người nghệ sĩ tài hoa say mê tộ từng nét chữ chứ không phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào kinh chịu án tử hình. Hình ảnh uy nghi của Huấn Cao đối lập với hình ảnh xo ro của thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và hình ảnh viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”.

+ Trật tự, kỉ cương trong nhà tù bị đảo ngược hoàn toàn: Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan thì khúm núm, vái lạy tù nhân.

Như vậy, giữa chốn tù ngục tàn bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà người tử tù làm chủ. Qua cảnh tượng này, chủ đề của tác phẩm được thể hiện sâu sắc.

Câu 5 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Ý nào dưới đây không phải là triết lí nhân sinh của truyện Chữ người tử tù.

A. “Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khoá và vượt ngục nữa không?”

B. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.”

C. “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt.”

D. “Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng, đúng như lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài.”

Trả lời:

Đáp án A

Câu 6 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu ở bên dưới:

Hương cuội

Đứa cháu đích tôn và lũ cháu ngoại đang loay hoay ngoài sân với những đồ đồng ngũ sự lổng chổng trên đám trấu và tro đẫm nước.

Ông chúng, cụ Kép làng Mọc, cũng đang loay hoay với mấy chục chậu lan xếp thành hàng dưới giàn thiên lý.

Trái với thời tiết, buổi chiều cuối năm gió nồm thổi nhiều.

Cơn gió nồm thổi nhẹ, như muốn nhạo cái ông già kia mặc cả một tấm áo trấn thủ bằng lông cừu trắng. Trời nồm nực, bức đến tắm nước lã được, ông cụ Kép mặc áo lông cừu xứ Bắc! Không, đấy chỉ là một thói quen của cụ Kép. Mỗi khi cụ ra thăm vườn cảnh, trong một năm, trừ những ngày hạ ra không kể còn thì lúc nào cũng khoác tấm áo cừu. Mùa xuân, mùa thu, khí hậu ấm, áo mở khuy. Sang đến đông tuyết, cụ cài hết một hàng khuy nơi áo, thế là vừa. Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý.

Buổi chiều ba mươi Tết năm nay, cả một cái gia đình cũ kỹ nhà cụ Kép đang tới tấp dọn dẹp để ăn tết.

Mợ ấm cả, mợ ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ. Thỉnh thoảng họ ngừng tay để hỏi nhau xem còn thiếu những thực phẩm gì trong cái mâm cơm cúng chiều nay. Lũ con đàn bi bô ngoài sân. Chúng đang đánh bóng ở ngoài sân những lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua và bằng thiếc sông Ngâu.

[…] Cụ Kép cười khà khà. Rồi cụ lại vạch từng gốc rò lan, xem xét tỉ mỉ đến màng hoa, đến rò lan và thân lá. Hết chậu này đến chậu khác.

Tưởng chừng như cháu mình cũng là một người biết đến chuyện chơi cây, hiểu đến thời tiết trong một năm, có đủ những kinh nghiệm, thói tục và thông minh của người lớn, ông già đã nói với cháu bé:

- Tự nhiên, cuối năm lại nổi gió nồm. Cháu có thấy bực mình không? Ông tiếc cho mấy chục chậu lan của ông quá. Nở hết thôi!

Đứa cháu không hiểu đến ý nghĩa câu than phiền của ông già, ngửng bộ mặt ngây thơ lên, hỏi hai ba lần:

- Hoa sắp nở, sao lại tiếc hở ông?

Cụ Kép nhìn lại cái người bé tí hon đứng với mình trong vườn lan, thân cao không vượt khỏi cái lá lan uốn cầu vồng, cụ Kép đãi đứa cháu ngây thơ một nụ cười rất độ lượng, mắt nhấp nháy kính tuổi:

- Nếu không có nồm, thì hoa trong vườn ông còn lâu mới nỏ. Hoa sẽ nở nhằm vào ngày rằm tháng giêng. Đúng vào ngày Tết Nguyên Tiêu. Ông cháu chúng ta sẽ có hoa mà thưởng xuân, cháu đã hiểu chưa? Bây giờ cháu chạy vào gọi bõ già ra đây cho ông bảo.

- Bõ đi ra bờ ao rửa đá cuội từ ban trưa kia ông ạ.

Phải, phía cầu ao trong vườn cụ Kép, một người lão bộc, đang lom khom dúng rổ đá xuống nước ao và sàng sẩy rổ đá như kiểu người ta sàng mẹt gạo. Tiếng đá bị tung lên dập vào nhau kêu sào sạo, khiến lũ cò trắng nghỉ chân trên lũy tre vội bay mất. Bõ già nghỉ tay, nhìn đàn cò sợ hãi bay cao, với nét cười của một người chịu vui sống trong sự an phận.

Bõ ở với cụ Kép đã lâu lắm. Cái hồi cụ Kép còn là một thầy khóa sinh hai mươi tuổi, bõ già đã nếm cơm ở của nhà này rồi. Chính bõ vác lều chõng cho cụ đi thi tú tài. Những việc lớn nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết. […]

Ở đây, không ai nỡ nói nặng bõ. Và, đến những việc nặng, mọi người đều tránh cho bõ già. Công việc thường trong một ngày, có nhiều hôm chỉ thu vào việc chuyên trà tàu và thay bã điếu cho cụ Kép. Thậm chí trong những ngày cuối năm bận rộn như hôm nay, mà bõ già cũng không phải mó tay vào việc gì cả. Làm lợn gói giò chả, vo gạo, đồ đậu xanh làm bánh chưng, làm dầu đèn, lau bàn thờ, nhất nhất không việc gì phải qua tay bõ. Mãi đến trưa hôm ba mươi Tết, cụ Kép mới bảo bõ già đi rửa mấy trăm hòn đá cuội trắng. Nghe thấy bõ già nhận lấy cái việc rất ngộ nghĩnh đó, cả nhà đều cười. Thứ nhất là lũ trẻ con. Cụ Kép vẫn nghiêm trang dặn người bõ già:

- Bõ đem đá ra bờ ao rửa cho sạch. Lấy bẹ dừa mà kỳ cho nhẵn, cho trắng tinh ra. Xong rồi, lựa những viên đá tròn bỏ vào một cái rổ. Những viên đá xù xì, không tròn trĩnh, để một rổ khác.

Bõ già tỏ ý hiểu:

- Thưa cụ, con biết rồi. Cụ lại sắp cho dọn một bữa rượu "Thạch lan hương". Nhưng sao năm nay, lại soạn đá sớm quá? Thưa cụ, con nhớ mọi năm cứ hạ cây nêu xong rồi mới đem cuội ra ngâm kia mà...

- Thế bõ không thấy giời đổi gió nồm đấy à? Thế bõ không biết năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm sao? Tôi đã cho ngâm thóc để lấy mầm nấu kẹo mạch nha từ mấy hôm nay rồi.

Bõ già gật gật...

Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ trong nhà cụ cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia, cụ cũng muốn có một vườn cảnh để sớm chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu giá trị tinh thần; nhưng nghĩ mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn tay không có lợi khí mới, thì riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa. Cụ Kép thường nói với lớp bạn cũ rằng có một vườn hoa là một việc dễ dàng, những đủ thời giờ mà săn sóc đến hoa mới là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng. Như thế mới phải đạo, cái đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được lên một khoảnh vườn, khuân hoa cỏ các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đày chúng ra mưa nắng với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay thì chơi hoa làm gì cho thêm tội.

Đến hồi gần đây, biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ Kép mới gây lấy một vườn lan nho nhỏ. Giống lan gì cũng có một chậu. Tiểu kiều, Đại kiều, Nhất điểm, Loạn điểm, Yên tử v.v... Chỉ trừ có giống lan Bạch ngọc là không thấy trồng ở vườn. Không phải vì lan Bạch ngọc đắt giá mỗi giò mười đồng bạc, mà cụ Kép không trồng giống hoa này. Trong một buổi uống trà đêm, cụ Kép nói với một người bạn đến hỏi cụ về cách thức trồng cây vườn hoa:

- Tôi tự biết không chăm được lan Bạch ngọc. Công phu lắm, ông ạ. Gió mạnh là gẫy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch ngọc thì đẹp lắm. Nhưng những giống nhẹ nhàng ấy thì yểu lắm. Chăm như chăm con mọn ấy. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngay. Những vật quý ấy không ở lâu bền với người ta. Lan Bạch ngọc hay ưa hơi đàn bà. Trồng nó ở vườn các tiểu thư thì phải hơn.

Thiếu hẳn loài Bạch ngọc, cụ Kép đã cho trồng nhiều giống Mặc lan, Đông lan, Trần mộng. Giống này khỏe, đen hoa và rò đẫy, hoa có khi đậu được đến nửa tháng và trong mươi ngày, nếu chủ vườn có quên bón tưới, cũng không lụi.

Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở.

Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn.

Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ già đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Cụ Kép dặn bõ già phải cẩn thận xem lửa kẻo lơ đễnh một chút là khê mất nồi kẹo.

Hai ông ấm, con trai cụ Kép, người lớn tuổi đứng đắn như thế, mà lại ngồi gần đấy, phất giấy vào những nan lồng. Thực là hai đứa trẻ con đang ngồi nghịch với lồng bàn giấy. Họ trịnh trọng ngồi dán hồ, vuốt giấy. Ông cụ Kép đứng kèm bên, mỗi lúc lại nhắc:

- Này Cả, thầy tưởng miệng lồng bàn, con nên đan to hơn miệng chậu. Con chạy ra, lấy cái que đo lại lợi chậu xem. Nếu rộng thì hỏng hết. Đo lợi chậu Mặc lan thôi.

Hai ông ấm, ngồi phất được đến mười cái lồng bàn giấy. Họ rất vui sướng vì họ tin đã làm toại được sở thích của cha già. Cụ Kép co ro chạy từ nồi mạch nha, qua đám lồng bàn giấy, đến cái rổ đá cuội đã ráo nước thì cụ ngồi xổm xuống, ngồi lựa lấy những viên đá thật trắng, thật tròn, để ra một mẹt riêng. Ông ấm cả, ông ấm hai lễ mễ bưng những chậu Mặc lan vào trong nhà. Cả ba ông con đều nhặt những hòn cuội xấu nhất, méo mó, xù xì trải xuống mặt đất những chậu lan gần nở. Mỗi lần có một người đụng mạnh vào rò lan đen, cụ Kép lại xuýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình.

Nồi kẹo đã nấu xong nhưng phải đợi đến gần cuối canh hai kẹo mới nguội.

Bây giờ thêm được bõ già đỡ một tay nữa, cả ba ông con đều lấy những hòn cuội để riêng ban nãy ra mẹt, đem dúng đá cuội vào nồi kẹo, quấn kẹo bọc kín lấy đá, được viên nào liền đem đặt luôn vào lồng chậu hoa. Những viên đá bọc kẹo được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót lên nền đất chậu hoa.

Úp xong lồng bàn giấy lên mười chậu Mặc lan thì vừa cúng giao thừa.

Ba ông con, khăn lượt áo thâm lạy trước bàn thờ đặt ngoài trời. Năm nay, trời giao thừa lành.

Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa.

Bõ già đã bày ra giữa sân bốn cái đôn sứ Bát Tràng mầu xanh quan lục. Trước mặt mỗi đôn, bõ già đặt một án thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu da lươn lớn có nút lá chuối khô. Bõ già xếp đặt trông thạo lắm. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai:

- Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Vả lại uống vào chiều tối. Đốt đèn lồng, treo ở ngoài vườn, trông vào bữa rượu hoa, đẹp lắm cậu ạ.

Ông ấm hai vui chuyện, hỏi bõ già:

- Này bõ già, tôi tưởng uống rượu nhấm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha thì có thú vị gì. Chỉ thêm xót ruột.

- Chết, cậu đừng nói thế, cụ nghe thấy cụ mắng chết. Cậu không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như thịt cá đâu. Mấy vò rượu này, là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách về, cụ mắng đến phát thẹn lên. Cậu đậy nút lại không có rượu bay!

Phía ngoài cổng, có tiếng chó sủa vang.

Bõ già nhìn ra thấy bốn cụ tiến vào đã quá nửa lòng ngõ duối. Cụ nào cũng cầm một cây quạt thước, chống một chiếc gậy tre càng cua hay trúc đùi gà. Uống xong tuần nước, cụ Kép mời ba cụ ra sân uống rượu. Bõ già vòng tay vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một.

Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bõ già đánh hơi mũi: những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ vào khoảng không trong vắt như có ý theo dõi luồng hương thơm đang thấm nhập dần vào các lớp khí trời. Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.

- Dạ, xin rước các cụ.

Dứt tiếng cụ Kép, tất cả bốn cụ đề úp lòng bàn tay vào nhau thi lễ và giơ tay chỉ thẳng vào giữa mời nhau ai cao tuổi xin nhắp chén trước đi. Tiệc rượu bắt đầu. Bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng thèm say lắm.

- Trời lạnh thêm chút nữa, uống Thạch lan hương mới đúng phép, chủ nhân ạ!

Đáp lời cụ Cử Lủ, cụ Kép vuốt râu cười nói:

- Chính thế. Nhưng đệ sợ chờ được lạnh đến, thì hoa vườn nhà tàn mất. Trông kẹo mạch nha không đông, còn dính vào lớp đá lót, đệ cũng biết là không được khéo lắm. Trời nồm biết làm thế nào.

- Này cụ Kép, kẹo đá thơm ngon đấy. Chỉ hiềm có mùi ung ủng pha vào hương lan. Chắc kẹo nấu bén nồi, khê và thêm không được đông nên mới có tạp vị nhiễm vào.

Sau mấy câu phê bình về tiệc rượu, tỏ ra mình là người biết thưởng thức những vị thanh lương đạm bạc, bốn cụ đều xoay câu chuyện sang phía thơ văn.

Cụ Tú người cùng làng với cụ Kép mở đầu câu chuyện làm thơ.

- Sớm nay, đệ đã khai bút rồi. Đệ nghĩ dược một đôi câu đối. Để các cụ chữa cho mấy chữ. Chiều nay sẽ viết luôn vào giấy hồng điều để xin phép dán thêm vào cổng nhà.

Ba cụ cùng cạn chén một lúc, cùng nói một lúc:

- Cụ Tú hãy cạn luôn ba chén rồi hãy đọc đôi câu đối mới. Câu đối của cụ còn ai mà hạch nổi chữ nào. Cụ nói gì mà khiêm tốn vậy... Chúng tôi xin nghe.

Chờ cụ Tú dặng hắng lấy giọng, mỗi cụ đều bỏ vào mồm những viên kẹo mạch nha đá cuội ướp hương lan. Những nhân đá đánh vào răng kêu lách cách. Mỗi ông già đọc một đôi câu đối.

Rồi chén rượu ngừng là một lời thơ ngâm trong trẻo. Cứ thế cho tàn hết buổi chiều.

Mấy cụ đều khen lẫn nhau là thơ hay. Trong cái êm ấm của buổi chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một người lão bộc. Bõ già, chiều mồng một Tết tự nhiên mặt sáng tỏ hẳn lên. Cái đẹp của tiệc rượu ngâm thơ lây cả sang người bõ.

Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.

Những vò rượu vợi dần. Trong lòng đĩa sứ đựng nhân đá, hòn cuội cao dần lên, bõ già đưa thêm mãi những đĩa sứ vào bàn rượu.

Từ phía đầu làng, dội về mấy tiếng pháo lẻ loi. Lũ cháu nhỏ, nấp sau cột nhà, muốn chạy ra xin bõ già phát cho chúng những hòn cuội đã nhắm rượu xong rồi kia.

(Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, NXB Văn học, Hà Nội, 2004)

a) Xác định đề tài và chủ đề chính của văn bản.

b) Văn bản trên kể câu chuyện gì? Xác định ngôi kể và điểm nhìn của văn bản.

c) Nhân vật chính trong câu chuyện này là ai? Nhân vật đó có đặc điểm gì?

d) Chi tiết nào trong văn bản để lại cho em ấn tượng sâu sắc? Lí giải cụ thể.

e) Giải thích ý nghĩa nhan đề “Hương cuội” của văn bản. Qua văn bản, nhà văn thể hiện tình cảm, tư tưởng nào?

Trả lời:

a) Đề tài: viết về những giá trị / nét đẹp trong nếp sống và sinh hoạt của con người thời xưa (ở đây là thú chơi hoa lan và uống rượu với kẹo mạch nha bọc đá cuội khi Tết đến). Chủ đề chính: Ca ngợi thú chơi thanh cao, tao nhã của những người như cụ Kép và trân trọng những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc thời xưa

b) Văn bản trên kể câu chuyện về gia đình cụ Kép chuẩn bị đón Tết, nhất là việc cụ chăm hoa lan và chuẩn bị làm kẹo mạch nha bọc đá cuội để đãi bạn bè,

Ngôi kể: ngôi thứ bại điểm nhìn của văn bản: kết hợp giữa điểm nhìn của tác giả

và của nhân vật (chủ yếu là của cụ Kép).

c) Nhân vật chính trong câu chuyện này là cụ Kép. Một số đặc điểm của nhân vật: là một “nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng”, “là một kẻ chọn nhầm thế kỉ với hai bàn tay không có lợi khí mới” “riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình cũng chưa xong”; có thủ vai mông nướu, ngâm thơ, thường hoa, lấy cai chỉ tình ra mà đối đãi với giống hoa có . nhưng thủ vai thanh cao, tạo nhà, giá gìn nền nếp gia phong.

a) HS lựa chọn một hoặc một số chi tiết mà mình ấn tượng sâu sắc và có lí giải cụ thể. Cần chỉ ra xem chi tiết đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc thể hiện đặc điểm của nhân vật chính và tư tưởng của nhà văn.

e) Nhan đề “Hương cuội"; hương thơm của kẹo mạch nha bọc đá cuội; hương vị của thủ chơi thanh cao, tạo nhà. Qua văn bản, nhà văn thể hiện sự ca ngợi nét văn hoả tạo nhà, lịch sự trong sinh hoạt của các nhà nhỏ xưa nói riêng, ca ngợi những nét đẹp của văn hoá cổ truyền dân tộc nói chung; giản tiếp thể hiện lòng yêu nước kín đáo của tác giả.

Tấm lòng người mẹ

Câu 1 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đoạn trích Tấm lòng người mẹ sử dụng ngôi kể và điểm nhìn nào?

A. Ngôi thứ nhất số ít, người kể chuyện xưng “tôi”; điểm nhìn của người kể chuyện

B. Ngôi thứ nhất số nhiều, người kể chuyện xưng “chúng tôi”; điểm nhìn của người kể chuyện

C. Ngôi thứ nhất số ít, người kể chuyện xưng “tôi”; kết hợp điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của nhân vật Phăng-tin

D. Ngôi thứ ba; kết hợp điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của nhân vật Mác-gơ-rít

Trả lời:

Đáp án C

Câu 2 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 3, SGK) Trong đoạn trích, Phăng-tin rơi vào hoàn cảnh nào? Nàng đã làm những gì? Những việc làm đó nói lên điều gì ở con người nàng?

Trả lời:

- Hoàn cảnh / cảnh ngộ của Phăng-tin: khốn khổ, bi đát, bất hạnh (nghèo, ốm đau, xa cách con gái, bị chủ nợ giày vò, bị vợ chồng Tê-nác-đi-ê lừa gạt, bị nhân tình hành hạ,...)

- Phăng-tin phải bán tóc, bán răng và bán thân để gửi tiền nuôi con.

- Những việc làm ấy cho thấy nàng rất thương con, hi sinh tất cả vì con. Phăng-tin là một trong “những người khốn khổ” nhất mà tác phẩm khắc hoạ.

Câu 3 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 4, SGK) Đoạn trích thể hiện quan điểm, tư tưởng nào của tác giả? Hãy lí giải cụ thể.

Trả lời:

- Thấu hiểu, đồng cảm, thương xót cho hoàn cảnh của Phăng-tin; ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử ở người phụ nữ này.

- Phê phán xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái (qua các nhân vật vợ chồng Tê-nác-đi-ê, chủ nợ,...).

Câu 4 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Câu hỏi 5, SGK) So sánh nhân vật Chí Phèo (trong Chi Phèo) của Nam Cao và nhân vật Phăng-tin (trong Những người khốn khổ) của Huy-gô để thấy sự giống nhau và khác nhau trong việc viết về những con người khốn khổ, tủi nhục của hai nhà văn này.

Trả lời:

Các nhân vật giống nhau về cảnh ngộ bất hạnh, về khát vọng sống lương thiện, về kết cục của số phận; khác nhau về những biểu hiện cụ thể của mỗi khía cạnh đó.

Câu 5 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Nêu chủ đề chính và chủ đề phụ (nếu có) của đoạn trích Tấm lòng người mẹ.

Trả lời:

Chủ đề chính của đoạn trích Tấm lòng người mẹ: Thể hiện sự thấu hiểu, cảm, thương xót của tác giả đối với hoàn cảnh của Phăng-tin, ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử ở người phụ nữ này; phê phán xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái.

Câu 6 trang 33 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới.

Giăng Van-giăng

Giăng Van-giăng (Jean Valjean) sinh ra ở một gia đình nông dân nghèo xứ Ban (Brie). Lúc nhỏ, anh ta chẳng được học hành gì. Lớn lên, anh làm nghề xén cây ở Pha-vơ-rôn (Faverolles). Mẹ anh là bà Gian Ma-chi-ơ (Jeanne Mathieu), cha là ông Giăng Van-giăng hoặc là Vo-la Giảng (Voilà Jean), có lẽ do chung quanh gọi đùa là Vo-la Giăng mà thành tên ấy.

Giăng Van-giăng tính hay tư lự mà không buồn: Chỉ những người giàu tình cảm mới như thế. Nói đúng ra, nhìn bề ngoài thì thấy anh ta cũng là đủ và chẳng có gì xuất sắc.

Cha mẹ anh mất từ hồi anh còn nhỏ dại. Mẹ anh chết vì một cơn sốt xuống sữa mà không biết cách thuốc thang. Cha anh trước cũng làm nghề xén cây, sảy chân nên thiệt mạng. Van-giăng chỉ còn một người chị goá chồng, trên tay bảy đứa con dại, vừa trai vừa gái.

Bà chị ấy đã nuôi Giăng và lúc sinh thời ông anh rể, Giăng vẫn ăn ở trong nhà chị. Lúc anh rể chết, lũ con, đứa lớn nhất mới lên tám, đứa út mới đầy năm. Giăng năm ấy vừa đúng hai mươi lăm tuổi. Thế là Giăng thay anh rể đi làm giúp chị nuôi các cháu. Rất là giản dị: Anh coi đó là một bổn phận phải làm, nhưng vẫn cầu nhàu vì bản tính. Cả thời trai trẻ, anh làm quần quật suốt ngày mới tìm nổi cái ăn nên chẳng nghe nói anh ta có nhân tình nhân ngãi gì, vì thời giờ đâu mà nghĩ đến chuyện yêu đương. Tối đến, đi làm về mệt nhoài, anh lẳng lặng ngồi ăn xúp. Bà chị thỉnh thoảng lại chọn những miếng ngon trong đĩa anh, miếng thịt, lát mỡ, cái nõn cải, lấy đút cho con. Còn anh, anh để tóc xoã cả ra quanh đĩa, che kín cả mặt, cứ cắm đầu ngồi ăn, mặc kệ, làm như không thấy gì.

Ở Pha-vơ-rôn, gần nhà Van-giăng, phía bên kia đường đi, có nhà chị tá điền Ma-ri Cơ-lốt (Marie Claude). Lũ trẻ nhà Van-giăng ngày nào cũng ăn đói. Đôi khi, chúng chạy sang nhà chị ta, nói dối là mẹ sai sang vay ít sữa rồi đem nhau lại chỗ sau hàng rào hoặc ở đầu ngõ, tranh giằng nhau húp vội húp vàng làm sữa đổ cả ra quần áo. Bà Van-giăng mà biết được thói vụng trộm ấy thì mỗi đứa cũng được trận đòn. Giăng có nóng nảy, cau có, nhưng lại giấu chị, đến trả chỗ tiền sữa cho chị Ma-ri Cơ-lốt và như thế là các cháu khỏi phải đòn.

Về mùa xén cây, anh kiếm được mỗi ngày hai mươi bốn xu. Hết mùa, anh ra đi gặt thuê, làm mướn, chăn bỏ, khuân vác, gặp việc gì làm được thi làm. Phần bà chị cũng cố gắng làm lụng, nhưng một nách bảy đứa con đại thi làm được mấy nên Cảnh nhà thật thiểu não, quanh năm túng thiếu và mỗi ngày một nghèo ngặt them.

Một năm, trời làm rét quá, Giăng không có việc làm. Trong nhà không có lấy một mẩu bánh. Đúng y như thế. Không một mẫu bánh mà những bảy đứa trẻ thay.

Một buổi tối Chủ nhật, trong nhà lão Mô-be Y-da-bộ (Maubert Isabeau) chủ hàng bánh mì trước nhà thờ Pha-vơ-rôn đã dọn dẹp sắp đi ngủ. Chợt thấy có tiếng đập mạnh ở chỗ mặt ngoài cửa hàng có chăng lưới thép và lắp kính. Lão chạy ra và kịp thấy một cánh tay thò qua chỗ kính vỡ và dây thép đứt, đang vơ lấy một chiếc bánh và lôi ra ngoài. Lão vội chạy ra, tên ăn trộm sải chân chạy trốn; lão đuổi theo và tóm được. Tên trộm đã vứt bánh đi nhưng cánh tay có máu me đầm địa. Thi ra chính là Giăng Van-giăng.

Việc ấy xảy ra năm 1795. Giăng bị đưa ra toà truy tố về tội “ăn trộm ban đêm có phá cửa trong một nhà có người ở”. Anh lại có một khẩu súng săn và bắn rất giỏi, thỉnh thoảng vẫn đi bắn trộm chim chóc trong rừng. Điều ấy làm hại anh thêm. Đối với kẻ đi săn trộm chim muông, người ta vẫn có thành kiến là đúng, vì kẻ đi săn trộm cũng như người buôn lậu thì không xa bọn kẻ cướp là mấy. Có điều nhân tiện cũng nên nói rằng giữa hạng người này và bọn giết người cướp của đáng ghê tởm ở thành thị vẫn khác nhau một trời một vực. Kẻ săn trộm chim sống trong rừng, tay buôn hàng lậu sống ở trên núi hoặc dưới biển. Thành thị làm cho con người thổi tha, do đó, trở nên độc ác. Còn núi rừng, biển cả thì có tạo ra những con người man rợ, có phát triển phần hung dữ, nhưng không thủ tiêu phần nhân tính họ. Toà án tuyên bố Giăng Van-giăng có tội. Luật lệ đã rành rành ra đấy, không có cách gì khác. Trong xã hội văn minh của chúng ta có những giờ phút đáng sợ, là những lúc luật pháp tuyên án đầy người ta vào một cuộc trầm luân. Còn gì thê thảm bằng cái phút giây mà xã hội lánh xa và dứt khoát vứt bỏ một con người biết suy nghĩ! Giăng Van-giăng bị kết án năm năm khổ sai.

Ngày 22 tháng 4 năm 1796, người ta loan báo khắp Pa-ri tin chiến thắng Mông-tơ-nốt (Montenotte) của đạo quân đánh ở Ý. Thông điệp của Hội đồng Đốc chính gửi cho Viện Ngũ Bách" ngày 2 tháng hoa nở2 năm Cộng hoà thứ tư, gọi người tổng chỉ huy đạo quân ấy là Buy-ô-na-pác (Buonaparte).

Cùng ngày ấy, ở nhà ngục Bi-xết (Bicêtre), người ta đã xích trong một dây xích tù thật lớn, Giăng Van-giăng bị khoá vào dây xích đó. Một người lính canh ngục cũ, năm nay đã gần chín mươi tuổi, còn nhớ như in con người đáng thương ấy bị cảm vào cuối dây người thứ tư ở góc phía bắc sân nhà ngục. Anh ta ngồi bệt xuống đất như mọi người khác. Chừng như anh ta cũng không hiểu tình cánh mình ra làm sao nữa, chỉ biết là kinh khủng quá. Trong ý nghĩ lờ mờ của con người ù ù cạc cạc với tất cả mọi việc như anh, có lẽ anh cũng mang máng thấy rằng trong việc đó có cái gì quá đáng.

Trong khi người ta quai mạnh búa để tán chiếc định trên cái gông cổ phía sau gáy, anh khóc lên, nghẹn ngào không nói nên lời, chốc chốc mới thốt được một câu: “Tôi làm nghề xén cây ở Pha-vơ-rôn.”. Rồi anh vừa nức nở và giơ tay lên, hạ xuống bảy lần, mỗi lần mỗi hạ thấp hơn, trông như anh đang lần lượt sờ đầu bảy đứa trẻ lớn nhỏ khác nhau. Trông cử chỉ ấy, người ta đoán biết anh đã làm điều phi pháp gì đó cũng là vì miếng cơm manh áo của bảy đứa bé con.

Anh bị giải đi Tu-lông (Toulon). Hai mươi bảy ngày ròng rã trên một chiếc bò, xiềng xích luôn mang trên cổ. Đến Tu-lông, anh thay áo tù khổ sai. Cả quãng đời của anh trước đây đều bị xoá mờ, xoá mờ cả tên tuổi; anh không còn là Giăng Van-giăng nữa, anh là con số 24 601. Còn bà chị anh rồi ra sao? Bảy đứa bé rồi sao? Ai là người chăm lo cho cái gia đình ấy? Cái cây non đã cưa mất gốc, nắm lá sẽ thế nào?

Thì ra chuyện đời vẫn cứ thế. Những con người đáng thương ấy, những sinh linh của Chúa ấy, từ đây không nơi nương tựa, không kẻ dìu dắt, không chỗ trú chân, lang thang trôi dạt, rồi biết đâu sẽ không mỗi người mỗi ngả, dần dần vào cái đám sương mù lạnh lẽo đã chìm đắm bao nhiêu kiếp người cô đơn, cái cõi tối tăm thê lương đã làm mất bóng bao nhiêu cuộc đời bất hạnh trong bước đường âm u của nhân loại! Họ bỏ làng ra đi. Cái gác chuông ở nơi gọi là làng quê cũ quên họ đi. Cái bờ ruộng ở nơi gọi là cánh đồng làng quên họ đi. Sau vài ba năm trong tù, ngay cả Giăng Van-giăng cũng quên nốt họ đi. Vết thương trong lòng anh đã thành sẹo. Thế là hết. Trong cả thời gian ở Tu-lông, chỉ có mỗi một lần anh được nghe tin tức bà chị. Hình như là vào khoảng cuối năm thứ tư sau khi anh vào tù. Cũng không rõ tin tức ấy đã đưa đến bằng cách nào. Chỉ biết có người trước kia có quen anh ở quê nhà một lần có gặp bà chị. Bà ở Pa-ri, trong một xóm nghèo gần nhà thờ Xanh Xuyn-pít (Saint Sulpice), phố Gianh-đơ-rơ (Geindre). Bà chỉ còn đem theo có mỗi một đứa con, thằng con trai út. Còn sáu đứa kia hình như chính bà cũng không biết chúng ở đâu nữa. Sáng sáng, bà đến một xưởng in ở phố Xa-bô (Sabot), nhà số 3, làm việc gấp giấy và đóng sách. Mùa đông, trời chưa sáng, sáu giờ đã phải có mặt. Trong xưởng có một trường học. Đứa bé lên bảy, bà đem theo gửi học ở đấy. Có điệu, sáu giờ bà đã vào xưởng mà đến bảy giờ trường mới mở cửa, nên thắng bé phải chờ ngoài sân ngót giờ đồng hồ, phải, ngót giờ đồng hồ ngoài trời mùa đông trong lúc còn tối mịt. Người ta không muốn cho nó vào xưởng, bảo là làm vướng bận công việc. Thợ thuyền sáng sớm qua đó, thấy thằng bé ngồi xổm ngoài hè, ngủ gà ngủ gật, có khi thiếp đi trong xó tối, gập người trên chiếc giỏ mây. Gặp hôm trời mưa, bà cụ gác cổng thương hại, nhặt nó vào trong túp lều của bà. Trong lều độc có một cái phản, cái guồng quay sợi và hai cái ghế gỗ. Thằng bé ngủ lăn ra ở một xó nhà tay ôm con mèo cho đỡ rét. Đến bảy giờ, trường mở cửa, nó mới vào học.

Người ta nói với anh có bấy nhiêu. Nhưng lúc anh nghe mấy lời ấy, thì dường như trong phút giây, trong chớp mắt, có cánh cửa sổ nào bỗng dưng đã mở toang cho anh nhìn thoáng thấy cuộc đời của mấy người thân yêu, rồi sau đó lại khép lại. tối tăm, mù mịt. Từ đó, anh chẳng còn nghe tin tức gì về những người thân yêu ấy nữa. Mà cũng chẳng bao giờ anh thấy lại họ, chẳng bao giờ anh còn gặp họ. Ở những đoạn tiếp theo của câu chuyện thương tâm này, ta cũng không còn tìm thấy họ nữa.

Vào khoảng cuối cái năm thứ tư ấy thì đến lượt Giăng Van-giăng vượt ngục Ở chốn lao tù sầu thảm này, bọn đồng cảnh vẫn thường giúp đỡ nhau việc đó. Anh trốn ra được và lang thang hai ngày ngoài cánh đồng. Nếu tự do nghĩa là sau lưng thon thót, thấy cái gì cũng sợ, từ mái nhà toả khói, người đi qua đường, tiếng cho có người truy nã, lúc nào cũng phải ngoái cổ nhìn lại, hơi có tiếng động là giật mình sủa, tiếng ngựa phi, tiếng chuông đồng hồ, đến ban ngày vì ban ngày người ta nom rõ, ban đêm vì ban đêm không trông thấy gì, đên con đường lớn, cái lối mòn, đến bụi cây, giấc ngủ, cũng đều sợ tuổt thì hai ngày ấy, anh ta được tự do. Đến tối ngày thứ hai thì anh ta bị bắt lại, sau ba mươi sáu tiếng đồng hồ chẳng ăn chẳng ngủ Sau đó, toà án thuỷ quân phạt thêm ba năm khổ sai. Năm thứ sáu lại đến lượt được vượt ngục; anh nằm ngay cơ hội nhưng trốn không trót lọt. Điểm danh thấy thiều, người ta bản phát súng đại bác báo hiệu và đến đêm thì lính tuần tìm được trốn dưới chiếc vỏ tàu đang đóng dở. Lúc bị bắt, anh chống cự lại với lính coi ngục Thế là cái tội vừa vượt ngục vừa kháng cự kẻ thừa hành ấy, theo hình luật đặc biệt. phải xử giam thêm năm năm nữa, trong đó có hai năm phải đeo xiềng đội. Cộng là mười ba năm. Đến năm thứ mười lại đến lượt anh trốn nữa và anh cũng không lỡ cơ hội. Nhưng lần này cũng không may gì hơn. Lại ba năm nữa, thành mười sáu năm. Sau cùng hình như đến năm thứ mười ba, anh lại thử một lần chót nữa nhưn chỉ ra ngoài được bốn tiếng đồng hồ thì bị bắt lại. Ba năm nữa với bốn tiếng đồng hồ ấy. Cả thảy mười chín năm. Anh vào tù từ năm 1796 mà mãi đến tháng Mười năm 1815, anh mới được thả ra. Như thế chỉ vì anh đập một miếng kính và lấy một cái bánh mì.

Đến đây cần mở một dấu ngoặc. Trong khi xét về hinh luật và việc luật pháp đầy đoạ con người, lần thứ hai tác giả lại gặp một vụ trộm bánh mì xuất phát điểm của một kiếp trầm luân. Cơ-lốt Gơ (Claude Gueux) đã lấy trộm một chiếc bánh. Giảng Van-giăng cũng lấy trộm một chiếc bánh. Một thống kê tại Anh cho biết trong năm vụ trộm, có bốn vụ trực tiếp do đói mà ra.

Lúc vào tù, Giăng Van-giăng run sợ, khóc lóc, đến khi ra, anh thành người thân nhiên, trợ như đá. Lúc vào, lòng anh tuyệt vọng, nay ra, lòng anh đen tối. Cái gì đã xảy ra trong tâm hồn anh?

(V. Huy-gô, Những người khốn khổ, NXB Văn học, Hà Nội, 1999)

a) Nội dung chính của đoạn trích Giăng Van-giăng là gì?

b) Tìm và phân tích các chi tiết nói về không gian, thời gian. Những chi tiết đó có ý nghĩa như thế nào?

c) Nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích là người như thế nào? Nhận xét về cách giới thiệu nhân vật của nhà văn. Bút pháp tương phản được nhà văn sử dụng như thế nào qua nhân vật này?

d) Đoạn trích được trần thuật theo điểm nhìn nào? Tác dụng của điểm nhìn ấy là gì?

e) Nội dung đoạn trích cho em hiểu được những gì về bối cảnh xã hội – văn hoá Pháp thời bấy giờ

Trả lời:

a) Nội dung chính của đoạn trích Giăng Van-giăng: giới thiệu về nhân vật trung tâm của bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ là Giăng Van-giăng (xuất thân tính cách, những nỗi thống khổ mà Giăng Van-giăng đã từng trải qua,...) để làm nổi bật chủ đề tư tưởng của truyện.

b) – Các chi tiết nói về không gian: nơi Giăng Van-giăng sinh ra và lớn lên (xứ Bờ-ri, Pha-vơ-rôn), nơi anh làm việc và nơi anh bị giam cầm,...

- Các chi tiết nói về thời gian: lúc Giăng Van-giăng còn nhỏ và khi lớn lên; năm 1795, khi Giăng bị đưa ra toà truy tố về tội ăn trộm, sự kiện chính trị xảy ra

năm 1796,...

Tất cả các chi tiết đó góp phần thể hiện hoàn cảnh và tính cách của Giăng Van-giăng: một người nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, bị tù đày cũng chỉ vì “đập một miếng kính và lấy một cái bánh mì” để mang về cho các cháu đang đối khát. Anh khao khát được tự do nhưng không may mắn, bị tù khổ sai trong một thời gian rất dài.

c) – Nhân vật Giăng Van-giăng là người giàu tình yêu thương và trách nhiệm; chịu nhiều nỗi thống khổ (tù khổ sai). Tù đày đã làm thay đổi Giăng: “Lúc vào tù, Giăng Van-giăng run sợ, khóc lóc, đến khi ra, anh thành người thản nhiên, trợ như đá. Lúc vào, lòng anh tuyệt vọng, nay ra, lòng anh đen tối.”.

Nhận xét về cách giới thiệu nhân vật của nhà văn: Nhà văn giới thiệu trực tiếp về nguồn gốc xuất thân của nhân vật; miêu tả và kể các sự kiện xảy ra trong cuộc đời nhân vật; để nhân vật thể hiện mình qua các hành động; bày tỏ cảm nghĩ về nhận vật. Đây là cách giới thiệu nhân vật mang tính truyền thống.

– Bút pháp tương phản được nhà văn sử dụng qua việc xây dựng nhân vật Giăng Van-giăng: tương phản giữa xã hội đầy những bất công, hoàn cảnh sống nghèo khổ

với tính cách của Giăng Van-giăng.

d) – Điểm nhìn của người kê chuyện (tác giả) và nhân vật (Giăng Van-giăng).

– Tác dụng: Tham khảo nội dung gợi ý về các truyện Chí Phèo (Nam Cao) và Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) ở trước.

e) Xã hội Pháp đang có những biến động dữ dội, vẫn có nhiều bất công ngang trái, pháp luật cứng nhắc (một người chỉ vì lấy trộm một chiếc bánh mi cho các cháu đang bị đói phải đi tù tổng cộng 19 năm).

II. Bài tập tiếng Việt

Bài tập tiếng Việt trang 37, 38, 39

Câu 1 trang 37 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Bài tập 1, SGK) Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ nói được ghi lại trong đoạn trích sau:

Bây giờ, cụ mới lại gần hắn khẽ lay mà gọi:

- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm thế?

Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tạo mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lãm; người ta bảo cụ hơn người cũng bởi cái cười:

– Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?

Rồi, đổi giọng cụ thân mật hỏi:

– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

(Nam Cao)

Trả lời:

Đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích thể hiện qua các khía cạnh sau:

– Sử dụng nhiều ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ (lim dim mắt; rên lên,...).

– Ngôn ngữ đối thoại, có người nói, người nghe.

– Sử dụng nhiều từ ngữ dễ hiểu, biểu cảm (anh Chị ơi!; đấy thôi,...). Sử dụng nhiều câu tỉnh lược (Lại say rồi!, Về bây giờ thế?,...).

Câu 2 trang 38 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: (Bài tập 3, SGK) Hãy phân tích sự khác nhau về tình huống giao tiếp và cách sử dụng từ ngữ của ngôn ngữ nói trong hai đoạn trích sau. Cách sử dụng từ ngữ xưng hô của các nhân vật trong các đoạn trích cho biết điều gì?

a) – Chi Phèo đấy hở? Lè bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho.

Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:

– Cầm lấy mà cút, đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?

Hắn trợn mắt, chỉ vào mặt cụ:

– Tao không đến đây xin năm hào.

Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:

– Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.

Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:

– Tao đã bảo tao không đòi tiền.

– Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì? Hắn dõng dạc:

– Tao muốn làm người lương thiện.

Bá Kiến cười ha hả:

- Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.

Hắn lắc đầu:

– Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không!... Chỉ còn một cách là... cải này! Biết không!...

(Nam Cao)

b) – Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!

– Ờ cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?

– Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiếng tiếc.

(Nguyễn Tuân)

Trả lời:

a) Sử dụng nhiều lớp từ khẩu ngữ, nhiều câu tỉnh lược, câu cảm thán, cách xưng hô không cân xứng về vị thế giao tiếp, thiếu tính chuẩn mực; tình huống giao tiếp là cuộc đối thoại căng thẳng, dễ gây xung đột bằng những từ ngữ đối thoại tiêu cực.

b) Sử dụng từ khẩu ngữ tỉnh thái (chà chà...); ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ (chặc lưỡi); cách xưng hô thứ bậc trên dưới rõ ràng về vị thế giao tiếp, có tính chuẩn mực (dạ bẩm; thầy, tôi); tinh huống giao tiếp là cuộc đối thoại trang nhã, lịch sự, tích cực.

Câu 3 trang 39 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Từ ngữ nào trong đoạn trích sau đây cho thấy đó là dấu hiệu biểu đạt của ngôn ngữ nói?

– Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa?

– Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả, tôi sẽ đi làm và nộp sau. Ông chủ bĩu môi, nói:

– Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả, tôi sẽ đem ra toà đó.

Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ:

– Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy cậu liệu liệu mà

đi làm ăn chứ?

– Vâng, tôi vẫn định thế

– Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Vậy cậu ra giúp vai chính. Vì phi cậu, không còn ai xứng đáng.

– Diễn vở mới thì phải học, thưa ngài?

– Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.

– Trong nửa tháng! Chà!

(Nguyễn Công Hoan)

Trả lời:

Đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích thể hiện qua các khía cạnh sau:

– Sử dụng nhiều ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ (bĩu môi; Chà,...),

– Ngôn ngữ đối thoại, có người nói, người nghe.

– Sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm (Thôi, biết bao lần rồi!; Chà!....).

– Sử dụng nhiều câu tỉnh lược, câu đặc biệt (Sao!; Trong nửa tháng! Chà)

Câu 4 trang 39 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ viết có trong đoạn trích sau:

“Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ “phát minh” được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ “teencode” kia chẳng bao lâu sẽ “chết yểu”, không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém”. (Phạm Văn Tình)

Trả lời:

Đặc điểm của ngôn ngữ viết trong đoạn trích thể hiện qua các khía cạnh sau:

– Sử dụng phương tiện ngôn ngữ viết (chữ viết).

– Ngôn ngữ độc thoại chỉ có người nói / người viết; người nghe / người đọc vắng mặt trên văn bản.

– Không sử dụng ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ (các yếu tố kèm ngôn ngữ).

– Không sử dụng ngữ chuyên ngành mang phong cách ngôn ngữ khoa học.

III. Bài tập viết

Bài tập viết và nói - nghe trang 40, 41, 42, 43

Câu 1 trang 40 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Dưới đây là bài viết triển khai cho đề bài: Từ hình ảnh đồng tiền trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), em hãy bàn về đồng tiền trong cuộc sống hiện nay. Em hãy đọc bài viết ở cột bên trái và thực hiện các yêu cầu nêu ở cột bên phải:

(1) Nguyễn Du là tác gia lớn của nền văn học dân tộc. Và Truyện Kiểu là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Có thể nói nó đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật dưới ngòi bút của một nghệ sĩ thiên tài. Bên cạnh những thành công trong xây dựng hình tượng, thể hiện tư tưởng, Nguyễn Du đã phản ánh một cách chân thực và sống động thế lực đồng tiền bẩn thỉu, làm điêu đứng, đảo lộn cả xã hội như một cách lí giải cho những tồn tại trong xã hội xưa.

Câu nào trong phần (1) nêu vấn đề của bài viết?

(2a) Trước hết, đồng tiền là mục đích sống, mục đích hành động của rất nhiều hạng người trong xã hội. Vì tiền, con người sẵn sàng chà đạp lên công lí, luật pháp, đạo nghĩa, thậm chí chà đạp lên cả hạnh phúc và cuộc sống của người khác.

Một ngày lạ thói sai nha

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.

“Chẳng quá” như một lí giải lạnh lùng và quá đỗi vô tình. “Tiền” trở thành một lí do chính đáng, như là đương nhiên nó phải thế, không trái lại được. Cả xã hội chạy theo đồng tiền, đảo điên vì tiền. Đồng tiền làm mưa làm gió, đồng tiền đứng trên kỉ cương, có thể biến những con người đức hạnh như Kiều trở thành hàng hoá. Đồng tiền cũng biến con người thành ác quỷ. Xã hội đầy rẫy những quân vô loài, những kẻ tàn ác và bị đồng tiền làm cho mất hết cả nhân tính. Bọn chúng đều không có mối quan hệ gì với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống những mắt xích để tạo ra một thứ thiên la địa võng, vây bủa chà đạp lên tất cả những gì thanh sạch, đức hạnh, lương thiện,... Vì vậy, tài năng, đức hạnh như Thuý Kiều dù có vùng vẫy thế nào cũng không thoát khỏi thân phận gái thanh lâu. Người anh hùng như Từ Hải thì lại bị coi là giặc cỏ. Ngược lại, ác độc, thủ đoạn như Hồ Tôn Hiến lại làm tới chức quan Tổng đốc trọng thần. Vì cái lợi của mình, vì đồng tiền, tất cả bọn lang sói vô loài không cho con người quyền sống yên ổn. Con người muốn tự do yêu đương chân chính thì giữa đường đứt gánh, gương vỡ bình tan. Cha mẹ, anh em, con cái muốn sum họp lại gặp sấm sét bất kì, tai bay vạ gió, phút chốc gây nên cảnh sinh li tử biệt.

Đem thân ngọc mình vàng an phận thủ thường thì ngọc nát vàng phai, cam phận tôi đòi thì lại “Một phen mưa gió tan tành một phen”. Mong nương nhờ cửa Phật, hứng giọt nước cảnh dương thì cửa từ bi nào giấu được cảnh trầm luân khổ ải... Tất cả khổ đau đó do ai đã gây ra? Chẳng phải do đồng tiền mà nên sao?

Hơn nữa, đóng tiền còn là phương tiện giải quyết mọi vấn đề, vướng mắc trong cuộc sống:

Có ba trăm lạng việc này mới xong

Để cứu được cha và em, gia đình Thuý Kiều phải bỏ ra ba trăm lạng để nộp cho bọn lính lệ. Như vậy, ở đây tiền giải quyết cả việc xử kiện, tiền đứng trên cán cân công lí, thay thế pháp luật. Không chỉ có thế, tiền còn là sức mạnh đảo lộn, đổi thay mọi giá trị trong cuộc sống:

Trong tay đã sẵn đồng tiền.

Mặc lòng đổi trắng thay đen khó gì?

“Trắng – đen” không phân định được, đúng sai không rõ ràng bởi đứng giữa hai thái cực ấy là thế lực đồng tiền. Tiền nghiêng về phía nào thì bên đó sẽ giành được phần thắng. Hơn thế, đồng tiền còn làm lu mờ, thậm chí cướp đi tất cả những giá trị của con người. Tài sắc, phẩm hạnh của Thuý Kiều không được coi trọng, nó chỉ đáng giá là những món hàng để người ta mặc sức trao đổi, mua bán, “Cò kè bớt một thêm hai”. Đau xót làm sao... Qua tất cả những điều đó, bản chất, bộ mặt của xã hội phong kiến đã dần dần hiện lên. Đó là xã hội phong kiến cuối thế kỉ XVIII thối nát, mục ruỗng với thể chế chính trị rối loạn, tham tàn, tầm văn hoá của con người thì thấp kém. Bởi thế, con người mới bị đồng tiền mê hoặc, quyến rũ, trở nên tha hoá, biến chất, xấu xa, nhẫn tâm và thậm chí không còn mang trái tim loài người. Cuối cùng thì vẫn là người dân yếu đuối, cô độc trong xã hội ấy gánh chịu tất cả những nỗi xót xa, thống khổ của kiếp người.

Đọc lướt phần (2a), (2b) và cho biết: Bài văn có mấy luận điểm?

Ở phần (2a), người viết nêu những lí lẽ nào? Xác định các câu lí lẽ.

Dẫn chứng ở phần (2a) được lấy từ đâu?

(2b) Nhưng không chỉ trong xã hội phong kiến. Đồng tiền trong đời sống luôn là một vấn đề nóng hổi, thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Từ thời xa xưa cho đến bây giờ, đồng tiền vẫn luôn phát huy vai trò quan trọng của nó. Tiền là tài sản vật chất có giá trị ngang với các thứ tài sản vật chất khác. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, rõ ràng đồng tiền đã bộc lộ tất cả những mặt xấu xa, thối nát của nó. Tuy nhiên, trong cuộc sống, nếu đồng tiền thực sự chỉ có mặt xấu xa thì sao nó có thể tồn tại đến ngày nay? Hãy tưởng tượng xem một thế giới không có đồng tiền sẽ tối tệ thế nào? Lúc ấy, khi đi ra ngoài, giả dụ bạn muốn mua một thứ gì đó, bạn phải quay trở về nhà để mang một thứ khác ra trao đổi. Mà có khi sẽ chẳng còn những dịch vụ mua bán đó nữa, con người sẽ lùi về hàng vạn năm trước sống cuộc sống tự cung, tự cấp. Khi đó mỗi người sẽ là một “lãnh chúa” trong “lãnh địa” của chính mình, không liên quan, giao thiệp với thế giới bên ngoài mình. Ngày đó biết đâu Bill Gate (Bin Ghết) sẽ tới cầu xin sự giúp đỡ của bạn!... Vậy bạn đã thấy cuộc sống cần có đồng tiền như thế nào chưa? Rõ ràng, tiền là một phương tiện có ích để thoả mãn những nhu cầu chính đáng của con người. Hơn nữa, nó còn là phép thử để bộc lộ bản chất, tầm văn hoá của con người. Trong thực tế, có những người sử dụng đồng tiền như một phương tiện để thực hiện lí tưởng, khát vọng, tạo lập sự nghiệp. Điều đó là hoàn toàn chính đáng. Song cũng có người sử dụng đồng tiền để mua chuộc, khống chế người khác, hoặc coi tiền là mục đích sống. Họ lại giống các nhân vật phản diện trong Truyện Kiều, có thể trở nên tàn bạo, hèn kém, xấu xa. Cách sử dụng đồng tiền như thế sẽ mở đầu cho một lối sống không đẹp, sống ích kỉ, sống tầm thường,... Không ít kẻ vì tiền mà bán rẻ anh em, bạn bè, cha mẹ, bán rẻ chính tâm hồn mình, lương tâm mình cho quỷ dữ. Họ sẵn sàng ra tay trộm cắp, cướp của, giết người,... Đây cũng là vấn đề nan giải của cuộc sống hiện nay.

Tuy nhiên, nếu đồng tiền đó là kết quả của mồ hôi, công sức lao động, là thành quả của những cống hiến, thì ta cần biết quý trọng, biết sử dụng đúng mức để giá trị của nó được phát huy.

Tôi đã từng nghe kể một câu chuyện. Một ông bố, khi đến cuối đời, muốn dạy cho con giá trị đích thực của đồng tiền, biết quý trọng đồng tiền chân chính tự mình làm ra, nên bắt con trai rời nhà đi làm ăn, mang tiền về. Người mẹ thương con, trong phút chia tay đã đưa cho con tiền. Thế là anh ta cầm số tiền đó đi, tiêu gần hết rồi mang số còn lại về đưa cho bố. Nhưng không ngờ ông đã thẳng tay ném số tiền đó xuống nước. Thấy thái độ thản nhiên của người con, ông đã khẳng định đó không phải là những đồng tiền do anh làm ra và đuổi anh đi. Trong lần ra đi này, anh ta lỡ tiêu hết số tiền mẹ đưa. Vì vậy, anh ta phải làm việc rất vất vả, chật vật để có tiền mang về cho bố. Nhưng lần này cũng vậy, ông bố ném ngay số tiền đó vào lửa. Không ngại nóng, bỏng, anh ta thò ngay tay vào móc số tiền đó ra.

Qua câu chuyện trên, có thể thấy rõ rằng, chỉ khi đóng tiền là do chính bàn tay ta tạo nên thì nó mới được đặt đúng vị trí và nhìn nhận đúng giá trị của nó. Mặt khác, cũng không nên vì thấy đồng tiền quý giá mà ta phải quỵ lụy, phụ thuộc và quá mê muội trước giá trị của nó. Điều đó sẽ làm ta đánh mất đi bản thân, mất đi tự do, nhầm lẫn về những giá trị thực của cuộc sống.

(3) Tóm lại, chúng ta hãy cố gắng hết mức có thể để trả lại cho đồng tiền giá trị thực của nó, đừng đổ oan cho nó. Để làm được điều ấy, chúng ta cần rèn luyện bản lĩnh, tích luỹ hiểu biết, tích cực sống, tích cực làm việc để bằng nội lực của chính mình đứng cao hơn đồng tiền.

(Bài viết của Đỗ Thu Hà, in trong Dạy và học nghị luận xã hội, Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), NXB Giáo dục Việt Nam)

Phần (2b) nêu những lí lẽ nào? Những câu nào nêu lí lẽ ở phần này?

Dẫn chứng ở phần (2b) được lấy từ đâu?

Người viết kể câu chuyện này nhằm mục đích gì?

Mục đích của phần (3) là gì?

Trả lời:

- Câu văn: Bên cạnh những thành công trong xây dựng hình tượng, thể hiện tư tưởng, Nguyễn Du đã phản ánh một cách chân thực và sống động thế lực đồng tiền bẩn thỉu, làm điêu đứng, đảo lộn cả xã hội như một cách lí giải cho những tồn tại trong xã hội xưa.

- Bài văn có 2 luận điểm.

- Ở phần (2a), nêu lí lẽ: Đồng tiền là mục đích sống, mục đích hành động của rất nhiều người trong xã hội. Cả xã hội chạy theo đồng tiền, đảo điên vì tiền,….

- Dẫn chứng ở phần (2a) được lấy trong “Truyện Kiều”.

- Phần (2b) nêu lí lẽ: Đồng tiền trong đời sống luôn là 1 vấn đề nóng hổi, thu hút sự chú ý của tất cả mọi người,…

- Dẫn chứng ở phần (2b) được lấy trong “Truyện Kiều”.

- Người viết kể câu chuyện này nhằm mục đích là dẫn chứng để chứng minh cho ý kiến nếu đồng tiền là mồ hôi, công sức lao động, là thành quả của những cống hiến thì ta cần biết quý trọng, biết sử dụng đúng mức để giá trị của nó được phát huy.

- Mục đích của phần (3): Tổng kết vấn đề, nêu lên bài học bản thân.

Câu 2 trang 43 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Để viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, em cần chú ý những gì?

Trả lời:

Để viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, các em cần chú ý:

- Phân tích đề bài và xác định vấn đề có ý nghĩa đặt ra trong văn bản.

- Đọc kĩ văn bản văn học được nêu trong đề.

- Tìm ý và lập dàn ý cho bài viết. Cần nêu được ít nhất hai ý lớn:

(1) Giới thiệu và phân tích vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

(2) Bàn luận về vấn đề xã hội đó trong đời sống.

Trong hai ý trên, ý (2) là trọng tâm của bài viết. Vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học ở ý (1) chỉ là đề tài để người viết bàn bạc, trao đổi, mở rộng, nâng cao ở ý (2).

- Thể hiện rõ thái độ, tình cảm khi bàn luận về vấn đề đã nêu. Vận dụng được kiến thức và những trải nghiệm của cá nhân người viết.

Câu 3 trang 43 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Cho đề bài sau:

Từ truyện “Hương cuội” (Nguyễn Tuân), em hãy bàn về một (hoặc một số) thái độ cần có của chúng ta đối với những giá trị văn hoá của dân tộc.

a) Dựa vào mục 2. Thực hành trong SGK (trang 94), em hãy tìm ý và lập dàn ý cho đề bài trên.

b) Chọn một ý trong dàn ý đã lập được để viết thành một đoạn văn, xác định người em “đóng vai” để viết, người đọc giả định, sử dụng cách xưng hô và giọng điệu cho phù hợp.

Trả lời:

a) Tìm ý và lập dàn ý

Để tìm ý và lập dàn ý cho đề bài “Từ truyện Hương cuội (Nguyễn Tuân), em hãy bàn về một (hoặc một số) thái độ cần có của chúng ta đối với những giá trị văn hoá của dân tộc”, HS cần đọc kĩ lại văn bản, hướng dẫn trong SGK về cách viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cũng như các tài liệu tham khảo nếu có.

– Tìm ý: HS đặt ra các câu hỏi sau đây để tìm ý:

+ Giá trị văn hoá của dân tộc là gì?

+ Truyện Hương cuội của Nguyễn Tuân đề cập những giá trị văn hoá nào? Những giá trị ấy có ý nghĩa gì? Nhà văn đã thể hiện thái độ gì đối với những giá trị đó?

+ Chúng ta có những giá trị văn hoá nào? Những giá trị đó có ý nghĩa như thế nào?

+ Chúng ta cần có những thái độ như thế nào để giữ gìn và phát huy ý nghĩa của những giá trị đó trong cuộc sống hôm nay?

– Lập dàn ý: HS tham khảo cách sắp xếp ý của bài viết như sau:

Mở bài: Giới thiệu truyện Hương cuội (Nguyễn Tuân) và nêu thái độ cần có của em đối với những giá trị văn hoá của dân tộc.

Thân bài:

+ Giải thích: giá trị văn hoá của dân tộc.

+ Những giá trị văn hoá của dân tộc được đề cập trong truyện Hương cuối của Nguyễn Tuân; ý nghĩa của những giá trị đó; thái độ của nhà văn đối với những giá trị đó.

+ Một số giá trị văn hoá nổi bật của dân tộc ta và ý nghĩa của chúng.

+ Thái độ cần có của chúng ta để giữ gìn và phát huy ý nghĩa của những giá trị đó trong cuộc sống hôm nay.

Kết bài: Khẳng định lại thái độ tích cực của nhà văn Nguyễn Tuân đối với những giá trị văn hoá của dân tộc và nhấn mạnh thái độ cần có của chúng ta ngày nay về vấn đề này.

b) HS chọn một ý trong dàn ý đã lập được để viết thành một đoạn văn, xác định rõ người mình “đóng vai” để viết, người đọc giả định, sử dụng cách xưng hô và giọng điệu cho phù hợp.

Câu 4 trang 43 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc lại văn bản Giăng Van-giăng (trích Những người khốn khổ – Huy-gô), xác định một vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản đó và viết bài văn bàn về vấn đề ấy.

Trả lời:

Gợi ý một số vấn đề xã hội trong văn bản Giăng Van-giăng (trích Những người khốn khổ – V. Huy-gô): tình yêu thương giữa con người với con người; số phận của người nghèo; công bằng xã hội, sự vô cảm của con người...

Câu 5 trang 43 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Để thảo luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học được hiệu quả, em cần chú ý những gì?

Trả lời:

Khi thảo luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, các em cần chú ý:

- Lựa chọn vấn đề thảo luận như đã gợi ý trong phần Viết ở trên.

- Tìm hiểu kĩ nội dung vấn đề cần thảo luận.

- Xác định rõ những người thảo luận với mình là ai để có cách trình bày phù hợp (có thể có người nghe giả định).

- Xác định thời lượng trình bày ý kiến của bản thân.

- Chuẩn bị dàn ý cho phần trình bày ý kiến của bản thân, tránh viết thành văn để đọc.

- Chuẩn bị các phương tiện như tranh, ảnh, video,…và máy chiếu, màn hình (nếu có).

- Các ý kiến nêu ra trong cuộc thảo luận có thể trái ngược nhau. Người nghe cần nắm được ý kiến và quan điểm của người nói; nêu được nhận xét, đánh giá về nội dung và cách thức nói; đặt câu hỏi về những điểm cần làm rõ. Người nói và người nghe cần tranh luận một cách hiệu quả và có văn hóa.

Câu 6 trang 43 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Trong số những văn bản truyện mà em đã đọc hoặc đã học, em thấy văn bản nào đặt ra một vấn đề xã hội mà em cho là sâu sắc? Hãy tìm ý và lập dàn ý cho bài nói của em để thảo luận về vấn đề đó.

Trả lời:

a) Chuẩn bị

- Đọc kĩ đề bài, xác định vấn đề cần bàn luận, các thao tác lập luận cần sử dụng, phạm vi dẫn chứng.

- Đọc lại truyện Chí Phèo (Nam Cao), tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhân vật trong truyện, đặc biệt là mối quan hệ giữa Chí Phèo và thị Nở, thấy được vai trò của thị Nở đối với quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.

- Đọc thêm sách, báo và các nguồn tư liệu khác, kết hợp với quan sát và trải nghiệm để thấy được những biểu hiện và sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người; ghi chép lại những thông tin cần thiết.

b) Tìm ý và lập dàn ý

- Tìm ý: Dựa vào những gợi ý đã nêu ở ý 1.2, mục 1. Định hướng và kết quả chuẩn bị trên đây, tiến hành tìm ý cho bài viết theo suy luận từ khái quát đến cụ thể bằng những gợi dẫn như sơ đồ sau:

Trong số những văn bản truyện mà em đã đọc hoặc đã học, em thấy văn bản nào

- Lập dàn ý cho bài viết bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:

Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề.

Thân bài: Lần lượt nêu các luận điểm làm sáng tỏ cho sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người theo sơ đồ trên.

Kết bài: Khẳng định tình yêu thương là một phẩm chất cần có của con người trong cuộc đời.

c) Viết

- Viết bài văn theo dàn ý đã lập.

- Trong khi viết, các em cần chú ý một số điểm đã nêu trong mục 1. Định hươngs.

- Chú ý diễn đạt chặt chẽ, có cảm xúc; dùng từ ngữ chính xác và viết đúng chính tả, ngữ pháp;…

* Bài viết mẫu tham khảo

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao từ xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán, thể hiện tài năng nghệ thuật của Nam Cao. Cũng từ sáng tác này, chúng ta còn được chứng kiến một điều kì diệu trong cuộc sống, sức mạnh của tình yêu giữa con người với con người.

Đọc những đoạn đầu tiên của tác phẩm, người đọc khó có thể hình dung được sẽ có kế nhân vật chính của truyện – một con người bao nhiêu năm đắm mình trong men rượu, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại lại có thể thức tỉnh cả phần và linh hồn nhờ vào tình yêu chớm nở. Khó hình dung hơn nữa khi Chí lại được đánh thức bởi mụ đàn bà xấu ma chê qủy hờn, một người ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Và không thể tin nổi khi chính người đàn bà xấu xí ấy lại mang trong mình lòng tốt bình thường mà cả làng Vũ Đại không ai khác có được. Bát cháo hành nóng hổi với những cử chỉ của thị Nở đã đánh thức trong Chí phần “người” lương thiện bị vùi lấp lâu nay. Con người ấy mới hôm qua còn đi uống rượu say, chửi cả làng, chửi cả đứa sinh ra, rạch mặt ăn vạ, la làng khắp xòm mà lại có thể tỉnh táo nhận ra được những điều đơn giản, nhịp sống thường ngày, có thể khóc, có thể sống dậy những cảm xúc tê dại bấy lâu nay, có thể yêu và khao khát, mong muốn được trở lại cuộc sống lương thiện, mơ về một gia đình hạnh phúc. Điều đáng nói hơn, đánh thức Chí không phải là sức mạnh của quyền lực từ bá Kiến, cũng không phải là sức mạnh được mang đến từ những người dân làng Vũ Đại mà là lòng yêu thương ngây thơ, thuần phác trong con người thị Nở.

Từ câu chuyện thức tỉnh của Chí Phèo, có thể thấy tình yêu thương giữa người với người là sức mạnh có khả năng cảm hoá, giáo dục con người một cách nhanh chóng, mạnh mẽ. Trong thực tế cuộc sống, nhiều lần chúng ta đã bắt gặp sức mạnh đó, ở người thầy hết lòng yêu thương học trò, dù đó là đứa học trò ngỗ ngược, ở người cảnh sát trại giam luôn cảm thông và sẵn sàng giúp đỡ các phạm nhân cải tạo. Tình cảm yêu thương chân thành đã lay động và kêu gọi thức tỉnh phần lương tri bị vùi khuất phía sau bao tội lỗi, cứu vớt bao con người khỏi sa xuống vực thẳm đau thương. Tình yêu thương đưa thế giới này thoát khỏi bao thảm họa diệt chủng, ươm lại trong con người niềm tin vào tương lai tươi sáng. . . .

Có nhiều cách để giành lại hạnh phúc, công bằng cho con người nhưng nếu yêu thương có thể hàn gắn mọi đau thương, xoá mờ mọi tội lỗi thì tại sao chúng ta không nhân nó lên trong mọi trái tim, không phát huy sức mạnh của nó? Cũng như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết rằng:

Có gì đẹp trên đời hơn thế?

Người yêu người, sống để yêu nhau

Tồn tại và ngày càng phát triển – đó là quy luật của sự sống. Để phát triển, trong cuộc chiến giữa chính và tà, những thế lực phi nghĩa sẽ phải đầu hàng trước sức mạnh chính nghĩa. Nhấn con người chìm đắm trong khổ đau là bóng tối, cái ác. Vậy thì kéo con người lên khỏi bờ vực, đưa con người ra ánh sáng, lương thiện phải là tình yêu thương. Như vậy, sự tồn tại của tình yêu thương, sức mạnh của tình yêu giữa con người với con người là tất yếu, là vô địch. Chúng ta có quyền tin vào sự trường tồn mãi mãi của sức mạnh này.

Có thể thấy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không lý tưởng hóa tình yêu bằng sự lãng mạn, thơ mộng và thi vị mà ông tập trung ngòi bút vào miêu tả tình yêu rất đỗi chân thực. Cũng chính nhờ ngòi bút ấy, mà ta thấy được sức mạnh của tình yêu được thể hiện theo một cách khác, một tình yêu lên một bậc cao mới ý nghĩa hơn, cao thượng hơn và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ hơn. Tình yêu ấy không những làm cho Chí Phèo – Thị Nở bừng tỉnh giữa cuộc đời đầy mê muội mà còn làm cho người đọc có cái nhìn mới tình yêu. Rằng tình yêu rất cao đẹp nhưng luôn đi liền với thực tế hiện tại. Tình yêu và cuộc sống phải hài hòa với nhau mới có thể tạo thành một tình yêu viên mãn và trọn vẹn.

Xem thêm lời giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 11 bộ sách Cánh diều hay, chi tiết khác:

Bài mở đầu

Bài 1: Thơ và truyện thơ

Bài 2: Thơ văn Nguyễn Du

Bài 4: Văn bản thông tin

Ôn tập và tự đánh giá cuối học kì 1

1 785 30/11/2023


Xem thêm các chương trình khác: