Chương V Nghị định 43/2014/NĐ-CP: Đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Số hiệu: | 43/2014/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 15/05/2014 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2014 |
Ngày công báo: | 04/06/2014 | Số công báo: | Từ số 561 đến số 562 |
Lĩnh vực: | Bất động sản | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Tiếp tục thu hồi đất dự án trước 01/07/2014
Trung tuần tháng 05 vừa qua, Chính phủ đã ban hành quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai thông qua Nghị định 43/2014/NĐ-CP.
Theo đó, UBND tỉnh có trách nhiệm rà soát và xử lý việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư như sau:
Tiếp tục cho phép thực hiện những dự án đã có văn bản chấp thuận đầu tư hoặc thông báo thu hồi gửi đến từng người có đất bị thu hồi hay văn bản cho phép chủ đầu tư thỏa thuận với người có đất bị thu hồi được ban hành trước ngày 01/07/2014.
Riêng đối với những dự án thỏa điểu kiện trên nhưng không phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện thì sẽ bị hủy bỏ.
Những dự án thuộc diện được phép thu hồi đất nhưng chủ đầu tư không thể thỏa thuận được với người sử dụng đất thì UBND sẽ trực tiếp thu hồi phần diện tích đó.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/07/2014 và thay thế những nghị định cũ như 181/2004/NĐ-CP, 84/2007/NĐ-CP, 88/2009/NĐ-CP ...
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Các giấy tờ khác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai có tên người sử dụng đất, bao gồm:
1. Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980.
2. Một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị số 299-TTg ngày 10 tháng 11 năm 1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước đang quản lý, bao gồm:
a) Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã xác định người đang sử dụng đất là hợp pháp;
b) Bản tổng hợp các trường hợp sử dụng đất hợp pháp do Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã hoặc cơ quan quản lý đất đai cấp huyện, cấp tỉnh lập;
c) Đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất đối với trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này.
3. Dự án hoặc danh sách hoặc văn bản về việc di dân đi xây dựng khu kinh tế mới, di dân tái định cư được Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
4. Giấy tờ của nông trường, lâm trường quốc doanh về việc giao đất cho người lao động trong nông trường, lâm trường để làm nhà ở (nếu có).
5. Giấy tờ có nội dung về quyền sở hữu nhà ở, công trình; về việc xây dựng, sửa chữa nhà ở, công trình được Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở, xây dựng chứng nhận hoặc cho phép.
6. Giấy tờ tạm giao đất của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; Đơn đề nghị được sử dụng đất được Ủy ban nhân dân cấp xã, hợp tác xã nông nghiệp phê duyệt, chấp thuận trước ngày 01 tháng 7 năm 1980 hoặc được Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh phê duyệt, chấp thuận.
7. Giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc giao đất cho cơ quan, tổ chức để bố trí đất cho cán bộ, công nhân viên tự làm nhà ở hoặc xây dựng nhà ở để phân (cấp) cho cán bộ, công nhân viên bằng vốn không thuộc ngân sách nhà nước hoặc do cán bộ, công nhân viên tự đóng góp xây dựng. Trường hợp xây dựng nhà ở bằng vốn ngân sách nhà nước thì phải bàn giao quỹ nhà ở đó cho cơ quan quản lý nhà ở của địa phương để quản lý, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
8. Bản sao giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và các giấy tờ quy định tại các Khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành cấp huyện, cấp tỉnh đối với trường hợp bản gốc giấy tờ này đã bị thất lạc và cơ quan nhà nước không còn lưu giữ hồ sơ quản lý việc cấp loại giấy tờ đó.
Điều 19. Các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất1. Tổ chức, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất để quản lý thuộc các trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật Đất đai.
2. Người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
3. Người thuê, thuê lại đất của người sử dụng đất, trừ trường hợp thuê, thuê lại đất của nhà đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
4. Người nhận khoán đất trong các nông trường, lâm trường, doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng.
5. Người đang sử dụng đất không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
6. Người sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng đã có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7. Tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích xây dựng công trình công cộng gồm đường giao thông, công trình dẫn nước, dẫn xăng, dầu, khí; đường dây truyền tải điện, truyền dẫn thông tin; khu vui chơi giải trí ngoài trời; nghĩa trang, nghĩa địa không nhằm mục đích kinh doanh.
Điều 20. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đaiViệc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.
Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;
b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo diện tích thực tế đã xây dựng công trình đó; hình thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài;
c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng công trình sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản này;
d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử dụng đất; phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch; chưa có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.
Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;
b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này;
c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này;
d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.
3. Trường hợp thửa đất có nhiều hộ gia đình, cá nhân cùng sử dụng chung thì hạn mức đất ở quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này được tính bằng tổng hạn mức đất ở của các hộ gia đình, cá nhân đó.
Trường hợp một hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhiều thửa đất có nhà ở có nguồn gốc của ông cha để lại hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất có nguồn gốc của ông cha để lại, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 và không vi phạm pháp luật đất đai thì hạn mức đất ở được xác định theo quy định đối với từng thửa đất đó.
4. Việc áp dụng quy định về hạn mức đất ở của địa phương để xác định diện tích đất ở trong các trường hợp quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này được thực hiện theo quy định tại thời điểm người sử dụng đất nộp hồ sơ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hợp lệ.
5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định vào mục đích thuộc nhóm đất nông nghiệp từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật Đất đai; diện tích đất nông nghiệp còn lại (nếu có) phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước;
b) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức thuê đất của Nhà nước đối với diện tích đất đang sử dụng; thời hạn thuê đất được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 126 và Khoản 4 Điều 210 của Luật Đất đai;
c) Đối với đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở, công trình xây dựng khác mà không được công nhận là đất phi nông nghiệp quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo mục đích hiện trạng đang sử dụng như trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này; nếu người sử dụng đất đề nghị chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì phải làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
6. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong các trường hợp quy định tại Điều này thực hiện theo quy định của pháp luật.
7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trong các trường hợp quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều này mà không đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì được tạm thời sử dụng đất theo hiện trạng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định.
Điều 21. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).
2. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây:
a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;
b) Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;
c) Quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành, quyết định thi hành bản án của cơ quan Thi hành án đã được thi hành về tài sản gắn liền với đất;
d) Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; biên bản hòa giải tranh chấp đất đai có chữ ký của các bên và xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất;
đ) Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến việc sử dụng đất;
e) Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh, giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký;
g) Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;
h) Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan;
i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;
k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.
3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.
4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.
Điều 22. Việc xử lý, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 20141. Trường hợp sử dụng đất lấn, chiếm hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng sau khi Nhà nước đã công bố, cắm mốc hành lang bảo vệ hoặc lấn, chiếm lòng đường, lề đường, vỉa hè sau khi Nhà nước đã công bố chỉ giới xây dựng hoặc lấn, chiếm đất sử dụng cho mục đích xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp, công trình công cộng khác thì Nhà nước thu hồi đất để trả lại cho công trình mà không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã lấn, chiếm.
Trường hợp đã có điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mà nay diện tích đất lấn, chiếm không còn thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng; không thuộc chỉ giới xây dựng đường giao thông; không có mục đích sử dụng cho trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp và công trình công cộng khác thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp sử dụng đất lấn, chiếm đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các nông trường, lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng, trung tâm, trạm, trại, công ty nông nghiệp, lâm nghiệp thì thực hiện xử lý theo quy định như sau:
a) Trường hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao cho Ban quản lý rừng quản lý, sử dụng đất. Người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Ban quản lý rừng xem xét giao khoán bảo vệ, phát triển rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Trường hợp không có Ban quản lý rừng thì người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
b) Trường hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao đất cho chủ đầu tư khi triển khai xây dựng công trình đó.
Người đang sử dụng đất vi phạm được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất nhưng phải giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định;
c) Trường hợp lấn, chiếm đất và nay đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp hoặc làm nhà ở và không thuộc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Trường hợp lấn, chiếm đất kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp và hiện nay diện tích đất này vẫn được xác định giao cho nông trường, lâm trường quản lý, sử dụng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi đất lấn, chiếm để trả lại cho nông trường, lâm trường.
3. Trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng hoặc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp phải xin phép theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thì thực hiện xử lý như sau:
a) Trường hợp đang sử dụng đất thuộc quy hoạch sử dụng đất cho các mục đích quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai thì Nhà nước thu hồi đất trước khi thực hiện dự án, công trình đó.
Người đang sử dụng đất vi phạm được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng phải giữ nguyên hiện trạng đang sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định;
b) Trường hợp đang sử dụng đất không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất; người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang mà đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt, không có tranh chấp thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất theo hạn mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định; nếu vượt hạn mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định thì diện tích vượt hạn mức phải chuyển sang thuê.
5. Người đang sử dụng đất ổn định trong các trường hợp quy định tại Khoản 1, Điểm a và Điểm c Khoản 2, Điểm b Khoản 3 Điều này mà không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định như sau:
a) Trường hợp thửa đất có nhà ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này;
b) Trường hợp thửa đất có công trình xây dựng không phải là nhà ở thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản 1 và Điểm b Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này;
c) Đối với phần diện tích đất đang sử dụng được xác định là đất nông nghiệp thì được công nhận quyền sử dụng đất theo chế độ như quy định đối với trường hợp tại Khoản 5 Điều 20 của Nghị định này;
d) Người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Khoản này phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đã được giao không đúng thẩm quyền1. Đất giao không đúng thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại Điều này bao gồm các trường hợp người đứng đầu điểm dân cư giao đất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ; tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng nhưng đã tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công nhân viên, xã viên để sử dụng làm nhà ở và các mục đích khác.
2. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã được giao theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này.
3. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này.
Trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở hoặc công trình xây dựng khác thì diện tích còn lại không có nhà ở, công trình xây dựng được xác định là đất nông nghiệp theo hiện trạng đang sử dụng, nếu người sử dụng đất đề nghị được chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì phải làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất.
4. Người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
5. Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và thu hồi toàn bộ diện tích đất đã giao, cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 trở về sau.
Điều 24. Xác định diện tích đất ở khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở1. Đất vườn, ao quy định tại Điều 103 của Luật Đất đai áp dụng đối với trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở, kể cả thửa đất trong và ngoài khu dân cư thuộc các trường hợp sau:
a) Thửa đất hiện đang có nhà ở và vườn, ao;
b) Thửa đất mà trên giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này có thể hiện nhà ở và vườn, ao nhưng hiện trạng đã chuyển hết sang làm nhà ở.
2. Loại giấy tờ làm căn cứ xác định diện tích đất ở theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai là giấy tờ có thể hiện một hoặc nhiều mục đích nhưng trong đó có mục đích để làm nhà ở, đất ở hoặc thổ cư.
3. Trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở được hình thành trước ngày 18 tháng 12 năm 1980, người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này mà trong giấy tờ đó chưa xác định rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền sử dụng đất bằng diện tích thực tế của thửa đất đối với trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn 05 lần hạn mức giao đất ở, bằng 05 lần hạn mức giao đất ở đối với trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn 05 lần hạn mức giao đất ở theo quy định của Luật Đất đai.
4. Phần diện tích đất còn lại sau khi đã xác định diện tích đất ở quy định tại Điều 103 của Luật Đất đai và Khoản 3 Điều này, hiện đang là vườn, ao mà người sử dụng đất đề nghị được công nhận là đất ở hoặc đất phi nông nghiệp khác thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo mục đích đó và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
5. Diện tích đất ở của hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp thửa đất ở có vườn, ao đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 được xác định như sau:
a) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì diện tích đất ở được xác định là diện tích ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp;
b) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận trước đây mà người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này nhưng diện tích đất ở chưa được xác định theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai, Khoản 3 Điều này và chưa được xác định lại theo quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều 45 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, nay người sử dụng đất có đơn đề nghị xác định lại diện tích đất ở hoặc khi Nhà nước thu hồi đất thì diện tích đất ở được xác định lại theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai và Khoản 3 Điều này; hộ gia đình, cá nhân không phải nộp tiền sử dụng đất, được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với diện tích đã được xác định lại là đất ở.
Điều 25. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức trong nước đang sử dụng đất không thuộc trường hợp quy định tại Điều 46 của Nghị định này1. Tổ chức trong nước đang sử dụng đất mà chưa được cấp Giấy chứng nhận phải tự rà soát, kê khai hiện trạng sử dụng đất và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất.
2. Trên cơ sở báo cáo hiện trạng sử dụng đất của tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất kiểm tra thực tế sử dụng đất và quyết định xử lý theo quy định sau đây:
a) Diện tích đất của tổ chức đang sử dụng đúng mục đích thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hình thức sử dụng đất theo quy định của pháp luật và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp sử dụng đất không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì thực hiện theo hình thức sử dụng đất quy định tại các Điều 54, 55 và 56 của Luật Đất đai, đất xây dựng trụ sở của tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện theo hình thức sử dụng đất quy định tại Điều 56 của Luật Đất đai;
b) Thời hạn sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điểm a Khoản này đối với trường hợp có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì được xác định theo giấy tờ đó. Trường hợp có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà trong giấy tờ không ghi thời hạn sử dụng đất hoặc có ghi thời hạn sử dụng đất nhưng không phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai thì thời hạn sử dụng đất được xác định theo quy định tại Điều 126 của Luật Đất đai và được tính từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đối với trường hợp sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, được tính từ ngày có quyết định giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp sử dụng đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về sau;
c) Diện tích đất sử dụng không đúng mục đích, diện tích đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, bị chiếm; diện tích đất đã cho các tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân thuê hoặc mượn sử dụng; diện tích đất đã liên doanh, liên kết trái pháp luật; diện tích đất không được sử dụng đã quá 12 tháng hoặc tiến độ sử dụng chậm đã quá 24 tháng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xử lý theo quy định của pháp luật;
d) Diện tích đất của tổ chức đã bố trí cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của tổ chức làm nhà ở thì phải bàn giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất quản lý; trường hợp đất ở đang sử dụng phù hợp với quy hoạch thì cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người đang sử dụng và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
đ) Diện tích đất đang có tranh chấp thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết dứt điểm để xác định người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Điều 26. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn, khu sản xuất kinh doanh có nhiều mục đích sử dụng đất khác nhau1. Đất giao cho chủ đầu tư để thực hiện dự án xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn mà trong dự án xác định có nhiều hạng mục công trình hoặc nhiều phần diện tích đất có mục đích sử dụng đất khác nhau theo quy định tại Điều 10 của Luật Đất đai thì phải xác định rõ vị trí, diện tích theo từng mục đích sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định như sau:
a) Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện đối với từng thửa đất sử dụng vào mỗi mục đích, phù hợp với quy hoạch xây dựng chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
b) Đối với phần diện tích đất sử dụng cho mục đích xây dựng công trình công cộng phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng trong và ngoài khu đô thị, khu dân cư nông thôn theo dự án đầu tư và quy hoạch xây dựng chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì bàn giao cho địa phương quản lý mà không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Đất giao cho chủ đầu tư để thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh gồm nhiều phần diện tích đất có mục đích sử dụng khác nhau thì cấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho chủ đầu tư đối với toàn bộ diện tích đất đó, trong đó thể hiện rõ vị trí, diện tích đất của từng mục đích sử dụng đất theo quy định tại Điều 10 của Luật Đất đai. Trường hợp chủ đầu tư có nhu cầu thì cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho từng thửa đất sử dụng vào mỗi mục đích theo quy định của pháp luật về đất đai, phù hợp với quy hoạch xây dựng chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Điều 27. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnhViệc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng hoặc được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bảo vệ thực hiện theo quy định sau đây:
1. Đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh độc lập do cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp cho cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân đó.
2. Trường hợp di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là một khu vực có nhiều người sử dụng đất, có nhiều loại đất khác nhau thì cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho từng người sử dụng, từng loại đất trong khu vực đó. Người sử dụng đất phải tuân theo các quy định về bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Điều 28. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng1. Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất có chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phải tự rà soát, kê khai việc sử dụng đất và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo các nội dung sau đây:
a) Tổng diện tích đất đang sử dụng;
b) Diện tích đất cơ sở tôn giáo phân theo từng nguồn gốc: Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao; nhận chuyển nhượng; nhận tặng cho; mượn của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; tự tạo lập; nguồn gốc khác;
c) Diện tích đất mà cơ sở tôn giáo đã cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mượn, ở nhờ, thuê;
d) Diện tích đất đã bị người khác lấn, chiếm.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất kiểm tra thực tế, xác định ranh giới cụ thể của thửa đất và quyết định xử lý theo quy định sau đây:
a) Diện tích đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất của cơ sở tôn giáo và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đó để giải quyết nhằm bảo đảm quyền lợi về sử dụng đất của các bên phù hợp với thực tế;
b) Diện tích đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì giải quyết như đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân mượn đất, thuê đất của hộ gia đình, cá nhân khác theo quy định của pháp luật đất đai;
c) Diện tích đất mở rộng cơ sở tôn giáo mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; bị lấn, bị chiếm; đang có tranh chấp thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết dứt điểm theo quy định của pháp luật.
3. Diện tích đất của cơ sở tôn giáo sau khi đã xử lý theo quy định tại Khoản 2 Điều này và có đủ điều kiện quy định tại Khoản 4 Điều 102 của Luật Đất đai thì cơ sở tôn giáo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất với thời hạn sử dụng đất ổn định lâu dài.
Trường hợp đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, làm cơ sở hoạt động từ thiện (kể cả trường hợp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho trước ngày 01 tháng 7 năm 2004) thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức và thời hạn sử dụng đất tương ứng với mục đích đó như đối với hộ gia đình, cá nhân.
Điều 29. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu1. Thửa đất đang sử dụng được hình thành từ trước ngày văn bản quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Không được công chứng, chứng thực, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không được làm thủ tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối với trường hợp tự chia tách thửa đất đã đăng ký, đã được cấp Giấy chứng nhận thành hai hoặc nhiều thửa đất mà trong đó có ít nhất một thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3. Trường hợp người sử dụng đất xin tách thửa đất thành thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu đồng thời với việc xin được hợp thửa đất đó với thửa đất khác liền kề để tạo thành thửa đất mới có diện tích bằng hoặc lớn hơn diện tích tối thiểu được tách thửa thì được phép tách thửa đồng thời với việc hợp thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho thửa đất mới.
Điều 30. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp khu đất của một người sử dụng nằm trên nhiều đơn vị hành chính1. Trường hợp sử dụng đất thuộc phạm vi nhiều xã, phường, thị trấn nhưng cùng thuộc thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của một cơ quan thì cấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất; trong đó phải xác định từng phần diện tích thuộc phạm vi từng đơn vị hành chính cấp xã.
2. Trường hợp sử dụng đất thuộc phạm vi nhiều xã, phường, thị trấn thuộc thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của các cơ quan khác nhau thì cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo từng thửa đất thuộc thẩm quyền của từng cơ quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Điều 31. Chứng nhận quyền sở hữu nhà ởChủ sở hữu nhà ở thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở và có giấy tờ chứng minh việc tạo lập hợp pháp về nhà ở thì được chứng nhận quyền sở hữu theo quy định sau đây:
1. Hộ gia đình, cá nhân trong nước phải có một trong các loại giấy tờ sau:
a) Giấy phép xây dựng nhà ở đối với trường hợp phải xin giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Trường hợp nhà ở đã xây dựng không đúng với giấy phép xây dựng được cấp thì phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng xác nhận diện tích xây dựng không đúng giấy phép không ảnh hưởng đến an toàn công trình và nay phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
b) Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở hoặc giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở thuộc sở hữu nhà nước từ trước ngày 05 tháng 7 năm 1994;
c) Giấy tờ về giao hoặc tặng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết;
d) Giấy tờ về sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ mà nhà đất đó không thuộc diện Nhà nước xác lập sở hữu toàn dân theo quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khóa XI về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991, Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
đ) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc đổi hoặc nhận thừa kế nhà ở đã có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì phải có văn bản về giao dịch đó theo quy định của pháp luật về nhà ở.
Trường hợp nhà ở do mua của doanh nghiệp đầu tư xây dựng để bán thì phải có hợp đồng mua bán nhà ở do hai bên ký kết;
e) Bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu nhà ở đã có hiệu lực pháp luật;
g) Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu nhà ở có một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ và e Khoản này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác thì phải có một trong các giấy tờ về mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 có chữ ký của các bên có liên quan và phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 mà không có giấy tờ về việc đã mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở có chữ ký của các bên có liên quan thì phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận về thời điểm mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở đó.
Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu nhà ở có một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ và e Khoản này mà hiện trạng nhà ở không phù hợp với giấy tờ đó thì phần nhà ở không phù hợp với giấy tờ phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận như quy định tại Điểm h Khoản này;
h) Trường hợp cá nhân trong nước không có một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ và e Khoản này thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở đã hoàn thành xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2006, được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật. Trường hợp nhà ở hoàn thành xây dựng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 trở về sau thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhà ở không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng và đáp ứng điều kiện về quy hoạch như trường hợp nhà ở xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2006; trường hợp nhà ở thuộc đối tượng phải xin phép xây dựng mà không xin phép thì phải có giấy tờ của cơ quan quản lý về xây dựng cấp huyện chấp thuận cho tồn tại nhà ở đó.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam phải có các giấy tờ sau:
a) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc nhận thừa kế nhà ở hoặc được sở hữu nhà ở thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật về nhà ở;
b) Một trong các giấy tờ của bên chuyển quyền quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều này.
3. Tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài phải có giấy tờ theo quy định sau:
a) Trường hợp đầu tư xây dựng nhà ở để kinh doanh thì phải có một trong những giấy tờ về dự án phát triển nhà ở để kinh doanh (quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư);
b) Trường hợp mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở hoặc được sở hữu nhà ở thông qua hình thức khác theo quy định của pháp luật thì phải có giấy tờ về giao dịch đó theo quy định của pháp luật về nhà ở;
c) Trường hợp nhà ở đã xây dựng không phù hợp với giấy tờ quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này thì phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng xác nhận diện tích xây dựng không đúng giấy tờ không ảnh hưởng đến an toàn công trình và nay phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (nếu có).
4. Trường hợp chủ sở hữu nhà ở không đồng thời là người sử dụng đất ở thì ngoài giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu nhà ở theo quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này, phải có hợp đồng thuê đất hoặc hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc văn bản chấp thuận của người sử dụng đất đồng ý cho xây dựng nhà ở đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và bản sao giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Điều 32. Chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ởChủ sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ở được chứng nhận quyền sở hữu theo quy định sau đây:
1. Hộ gia đình, cá nhân trong nước, cộng đồng dân cư phải có một trong các loại giấy tờ sau:
a) Giấy phép xây dựng công trình đối với trường hợp phải xin phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Trường hợp công trình đã xây dựng không đúng với giấy phép xây dựng được cấp thì phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng xác nhận diện tích xây dựng không đúng giấy phép không ảnh hưởng đến an toàn công trình và nay phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
b) Giấy tờ về sở hữu công trình xây dựng do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ, trừ trường hợp Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng;
c) Giấy tờ mua bán hoặc tặng cho hoặc thừa kế công trình xây dựng theo quy định của pháp luật đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định;
d) Giấy tờ của Tòa án nhân dân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu công trình xây dựng đã có hiệu lực pháp luật;
đ) Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng có một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác thì phải có một trong các giấy tờ mua bán, tặng cho, đổi, thừa kế công trình xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 có chữ ký của các bên có liên quan và được Ủy ban nhân dân từ cấp xã trở lên xác nhận; trường hợp mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế công trình xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có giấy tờ về việc đã mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế có chữ ký của các bên có liên quan thì phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận vào đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất về thời điểm mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế công trình xây dựng đó.
Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu công trình có một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c, và d Khoản này mà hiện trạng công trình không phù hợp với giấy tờ đó thì phần công trình không phù hợp với giấy tờ phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận như quy định tại Điểm e Khoản này;
e) Trường hợp cá nhân trong nước không có một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản này thì phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận công trình đã hoàn thành xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và công trình được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng.
Trường hợp công trình hoàn thành xây dựng từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì phải có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về công trình xây dựng không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng và đáp ứng điều kiện về quy hoạch như trường hợp xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; trường hợp công trình thuộc đối tượng phải xin phép xây dựng mà không xin phép thì phải có giấy tờ của cơ quan quản lý về xây dựng cấp huyện chấp thuận cho tồn tại công trình đó.
2. Tổ chức trong nước, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có giấy tờ theo quy định sau:
a) Trường hợp tạo lập công trình xây dựng thông qua đầu tư xây dựng mới theo quy định của pháp luật thì phải có quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư dự án hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy phép xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc hợp đồng thuê đất với người sử dụng đất có mục đích sử dụng đất phù hợp với mục đích xây dựng công trình;
b) Trường hợp tạo lập công trình xây dựng bằng một trong các hình thức mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật thì phải có văn bản về giao dịch đó theo quy định của pháp luật;
c) Trường hợp không có một trong những giấy tờ quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này thì phải được cơ quan quản lý về xây dựng cấp tỉnh xác nhận công trình xây dựng tồn tại trước khi có quy hoạch xây dựng mà nay vẫn phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
d) Trường hợp công trình đã xây dựng không phù hợp với giấy tờ quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì phần diện tích công trình không phù hợp với giấy tờ phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng kiểm tra, xác nhận diện tích xây dựng không đúng giấy tờ không ảnh hưởng đến an toàn công trình và phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
3. Trường hợp chủ sở hữu công trình xây dựng không đồng thời là người sử dụng đất thì ngoài giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu công trình theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, phải có văn bản chấp thuận của người sử dụng đất đồng ý cho xây dựng công trình đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và bản sao giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Điều 33. Chứng nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồngChủ sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng mà vốn để trồng rừng, tiền đã trả cho việc nhận chuyển nhượng rừng hoặc tiền nộp cho Nhà nước khi được giao rừng có thu tiền không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và có một trong các giấy tờ sau đây thì được chứng nhận quyền sở hữu:
1. Giấy chứng nhận hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này mà trong đó xác định Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để trồng rừng sản xuất;
2. Giấy tờ về giao rừng sản xuất là rừng trồng;
3. Hợp đồng hoặc văn bản về việc mua bán hoặc tặng cho hoặc thừa kế đối với rừng sản xuất là rừng trồng đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật;
4. Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng đã có hiệu lực pháp luật;
5. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư không có giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này mà đã trồng rừng sản xuất bằng vốn của mình thì phải được Văn phòng đăng ký đất đai xác nhận có đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai;
6. Đối với tổ chức trong nước thực hiện dự án trồng rừng sản xuất bằng nguồn vốn không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì phải có quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư dự án hoặc giấy chứng nhận đầu tư để trồng rừng sản xuất theo quy định của pháp luật về đầu tư;
7. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án trồng rừng sản xuất thì phải có quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư dự án hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư để trồng rừng sản xuất theo quy định của pháp luật về đầu tư;
8. Trường hợp chủ sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng không đồng thời là người sử dụng đất thì ngoài giấy tờ theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này, phải có văn bản thỏa thuận của người sử dụng đất cho phép sử dụng đất để trồng rừng đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và bản sao giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Điều 34. Chứng nhận quyền sở hữu cây lâu nămChủ sở hữu cây lâu năm được chứng nhận quyền sở hữu khi có một trong các giấy tờ sau:
1. Giấy chứng nhận hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này mà trong đó xác định Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để trồng cây lâu năm phù hợp với mục đích sử dụng đất ghi trên giấy tờ đó;
2. Hợp đồng hoặc văn bản về việc mua bán hoặc tặng cho hoặc thừa kế đối với cây lâu năm đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định;
3. Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu cây lâu năm đã có hiệu lực pháp luật;
4. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư không có giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này thì phải được Văn phòng đăng ký đất đai xác nhận có đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai;
5. Đối với tổ chức trong nước thì phải có quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư dự án hoặc giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư để trồng cây lâu năm theo quy định của pháp luật về đầu tư;
6. Trường hợp chủ sở hữu cây lâu năm không đồng thời là người sử dụng đất thì ngoài giấy tờ theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này, phải có văn bản thỏa thuận của người sử dụng đất cho phép sử dụng đất để trồng cây lâu năm đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và bản sao giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định cụ thể loại cây lâu năm được chứng nhận quyền sở hữu.
Điều 35. Tài sản gắn liền với đất không được chứng nhận quyền sở hữu khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đấtTài sản gắn liền với đất không được chứng nhận quyền sở hữu khi thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Tài sản gắn liền với đất mà thửa đất có tài sản đó không đủ điều kiện được cấp Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định này;
2. Nhà ở hoặc công trình xây dựng khác được xây dựng tạm thời trong thời gian xây dựng công trình chính hoặc xây dựng bằng vật liệu tranh tre, nứa, lá, đất; công trình phụ trợ nằm ngoài phạm vi công trình chính và để phục vụ cho việc quản lý, sử dụng, vận hành công trình chính;
3. Tài sản gắn liền với đất đã có thông báo hoặc quyết định giải tỏa, phá dỡ hoặc đã có thông báo, quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
4. Nhà ở, công trình được xây dựng sau thời điểm công bố cấm xây dựng; xây dựng lấn, chiếm mốc giới bảo vệ các công trình hạ tầng kỹ thuật, di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng; tài sản gắn liền với đất được tạo lập từ sau thời điểm quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mà tài sản được tạo lập đó không phù hợp với quy hoạch được duyệt tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
5. Tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, trừ trường hợp tài sản đã được xác định là phần vốn của Nhà nước đóng góp vào doanh nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;
6. Tài sản gắn liền với đất không thuộc trường hợp được chứng nhận quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 31, 32, 33 và 34 của Nghị định này;
7. Tài sản tạo lập do chuyển mục đích sử dụng đất trái phép.
Điều 36. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp Nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản gắn liền với đất nhưng chưa thực hiệnHộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà trước đây cơ quan nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản đó trong quá trình thực hiện chính sách của Nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa thực hiện quyết định thì người đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng và được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
Điều 37. Cơ quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi người sử dụng đất thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận1. Đối với địa phương đã thành lập Văn phòng đăng ký đất đai theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 của Nghị định này thì Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đã được cấp Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, trong các trường hợp sau:
a) Khi người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
b) Cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng.
2. Đối với địa phương chưa thành lập Văn phòng đăng ký đất đai theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 của Nghị định này thì việc cấp Giấy chứng nhận cho các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này thực hiện như sau:
a) Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức, cá nhân nước ngoài; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
b) Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về các trường hợp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi thực hiện đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất và việc xác nhận thay đổi vào Giấy chứng nhận đã cấp.
LAND REGISTRATION, GRANT OF CERTIFICATES OF LAND USE RIGHTS AND OWNERSHIP OF HOUSES AND OTHER LAND-ATTACHED ASSETS
Article 18. Other documents on land use rights specified at Point g, Clause 1, Article 100 of the Land Law
Other documents made before October 15, 1993, under Point g, Clause 1, Article 100 of the Land Law bearing names of land users include:
1. Land registers and field establishment registers made before December 18, 1980.
2. One of documents made during the process of land and field registration under the Prime Minister’s Directive No. 299-TTg of November 10,1980, on survey, classification and statistical registration of land and fields nationwide under the management of state agencies, including:
a/ Minutes of approval of commune-level land and field registration councils, determining that the current land use is lawful;
b/ Lists of lawful land use cases made by commune-level People’s Committees or commune-level land and field registration councils or district- or provincial-level land administration agencies;
c/ Applications for registration of land and field use rights, for cases in which documents specified at Points a and b of this Clause are unavailable.
3. Projects or lists or documents on emigration of people to build new economic zones or for resettlement approved by district- or provincial-level People’s Committees or competent state agencies.
4. Documents of state-run agricultural and forest farms on allocation of land to workers of these farms for building their houses (if any).
5. Documents having contents on ownership of houses and works; building and repair of houses and works certified or permitted by district- or provincial-level People’s Committees or state management agencies in charge of houses and construction.
6. Documents on temporary allocation of land by district- or provincial-level People’s Committees; written requests for land use approved by commune-level People’s Committees or agricultural cooperatives before July 1, 1980, or approved by district- or provincial-level People’s Committees.
7. Documents issued by competent state agencies on allocation of land to agencies and organizations for arrangement of land parcels to their officials, workers and employees for building houses on their own or for building houses to be distributed to their officials, workers and employees with non-state budget funds or contributions of such officials, workers and employees. In case of building houses with state budget funds, built houses shall be handed over to local housing management agencies for management and trading in accordance with law.
8. Copies of the documents specified in Article 100 of the Land Law and the documents specified in Clauses 2, 3, 4, 5, 6 and 7 of this Article must have certification of district- or provincial-level People’s Committees or specialized management agencies in case the original documents are lost and state agencies no longer preserve dossier of management of the grant of such documents.
Article 19. Entities ineligible for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets
1. Organizations and communities that are allocated land by the State for management in the cases specified in Article 8 of the Land Law.
2. Persons who are managing and using agricultural land belonging to the public-utility land funds of communes, wards or townships.
3. Persons who lease or sub-lease land from land users, except cases of leasing or subleasing land from investors building and dealing in infrastructure facilities in industrial parks, industrial clusters, export processing zones, hi-tech parks or economic zones.
4. Persons who receive land for use on a contractual basis in agricultural or forestry farms, agricultural or forestry enterprises, protection forest management boards or special-use forest management boards.
5. Current land users that fail to fully meet the conditions for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets.
6. Land users that fully meet the conditions for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets but have received land recovery notices or decisions of competent state agencies.
7. Organizations and commune-level People’s Committees that are allocated land by the State without land use levy for the purpose of construction of public facilities, including roads; water, petrol, oil and gas pipelines; power transmission and information communication lines; outdoor entertainment and recreation centers; cemeteries and graveyards for non-commercial purposes.
Article 20. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to households and individuals currently using land without documents on land use rights and having committed no violation of the land law
The grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land- attached assets (recognition of land use rights) to households and individuals that have been stably using land since before July 1, 2004, but have none of the documents specified in Article 100 of the Land Law, Article 18 of this Decree, and do not fall into any of the cases specified in Clause 1, Article 101 of the Land Law and Article 23 of this Decree, must comply with the following provisions:
1. For households and individuals that have been using land on which there are houses and other construction works since before October 15, 1993, and are now certified by commune- level People’s Committees of localities where such land is located that they are not involved in any land use dispute; if the land use at the time of submission of dossiers of application for certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets is conformable with approved land use master plans, detailed urban construction master plans or master plans on construction of rural residential areas or master plans on construction of new countryside (below collectively referred to as master plans), or is unconformable with these master plans but started before these master plans are approved or takes place in localities having no master plan, their land use rights may be recognized as follows:
a/ For a land parcel with houses which is smaller than or equal to the residential land recognition quota prescribed in Clause 4, Article 103 of the Land Law (below referred to as the residential land recognition quota), the whole area of the land parcel shall be recognized as residential land.
For a land parcel with houses which is larger than the residential land recognition quota, the residential land area to be recognized must be equal to the residential land recognition quota. In case the land area for construction of houses and works for daily life is larger than the residential land recognition quota, the actual construction area shall be recognized as residential land area;
b/ For a land parcel with construction works for production, commercial activities or provision of non-agricultural services, the actual construction area shall be recognized as land of non-agricultural production establishments, commercial or service land. The form of land use shall be recognized as land allocation with land use levy for stable and long-term use;
c/ For a land parcel with both houses and construction works for production, commercial activities or provision of non-agricultural services which is larger than the residential land allocation quota, the residential, non-agricultural production, commercial or service land area shall be recognized under Points a and b of this Clause;
d/ Land areas remaining after the determination is conducted under Points a, b and c of this Clause shall be determined as agricultural land and recognized under Clause 5 of this Article.
2. For households and individuals that have been using land on which there are houses and other construction works since before October 15, 1993, to before July 1, 2004, and are now certified by commune-level People’s Committees of localities where such land is located that they are not involved in any land use dispute; if their land use is conformable with approved land use master plans, or is unconformable with these master plans but started before these master plans are approved or takes place in localities having no master plan; and if there is no land recovery notice or decision of a competent state agency in case of compulsory recovery, their land use rights may be recognized as follows:
a/ For a land parcel with houses which is smaller than or equal to the residential land allocation quota prescribed in Clause 2, Article 143, and Clause 4, Article 144 of the Land Law (below referred to as the residential land allocation quota), the whole area of the land parcel shall be recognized as residential land.
For a land parcel with houses which is larger than the residential land allocation quota, the residential land area to be recognized must be equal to the residential land allocation quota. In case the land area for construction of houses and works for daily life is larger than the residential land allocation quota, the actual construction area shall be recognized as residential land area;
b/ For a land parcel with construction works for production, commercial activities or provision of non-agricultural services, the actual construction area shall be recognized as land of non-agricultural production establishments, commercial or service land under Point b, Clause 1 of this Article;
c/ For a land parcel with both houses and construction works for production, commercial activities or provision of non-agricultural services which is larger than the residential land allocation quota, the residential, non-agricultural production, commercial or service land area shall be recognized under Points a and b of this Clause;
d/ Land areas remaining after the determination is conducted under Points a, b and c of this Clause shall be determined as agricultural land and recognized under Clause 5 of this Article.
3. In case a land parcel is jointly used by many households and individuals, the residential land quota prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article must be equal to the total residential land quota of such households and individuals.
In case a household or an individual uses many land parcels with houses bequeathed by their ancestors or inherits land use rights from their ancestors and is certified by the commune- level People’s Committee that it/he/she has been stably using land since before October 15, 1993, and commits no violation of the land law, the residential land quota shall be determined according to regulations for each of such land parcels.
4. The application of local regulations on residential land quotas to determine residential land areas in the cases specified in Clauses 1, 2 and 3 of this Article must comply with regulations effective at the time when land users submit valid dossiers for registration and grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets.
5. A household or an individual that has been stably using land for the agricultural purpose since before July 1, 2004, which is now certified by the commune-level People’s Committee to be dispute-free, may have its/his/her land use rights recognized as follows:
a/ In case the household or individual is directly engaged in agricultural production, it/he/she shall be granted a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets in the form of land allocation by the State with land use levy for the land area currently in use not exceeding the agricultural land allocation quota specified in Article 129 of the Land Law. The remaining agricultural land area (if any) shall be converted into land leased from the State;
b/ In case the household or individual is not directly engaged in agricultural production, it/he/she shall be granted a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets in the form of land lease by the State for the land area currently in use. The land lease term must comply with Clause 2, Article 126 and Clause 4, Article 210 of the Land Law;
c/ For agricultural land in the same parcel with houses and other construction works which is not recognized as non-agricultural land specified in Clauses 1 and 2 of this Article, the household or individual currently using land shall be granted a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets according to the current use purpose in the cases specified at Point a of this Clause. Land users that wish to change to a non-agricultural purpose shall carry out procedures for land use purpose change and pay land use levy in accordance with law.
6. The financial obligations for the grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets in the cases specified in this Article shall be performed in accordance with law.
7. Houses and individuals that currently use land in the cases specified in Clauses 1, 2 and 5 of this Article but fail to meet the conditions for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets may temporarily use land in its current status until the State recovers land and shall make land declaration and registration under regulations.
Article 21. Bases for determining stable land use
1. Stable land use means consecutive use of land for a certain main purpose from the time of starting the use of land for such purpose to the time of grant of a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets or to the time of issuance of a land recovery decision by a competent state agency in case no certificate of land use rights, certificate of house ownership and residential land use rights or certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets (below collectively referred to as certificate) has been granted.
2. The time of starting the stable land use shall be determined based on the time and contents related to the land use purpose stated in one of the following documents:
a/ Receipt of agricultural land use tax and house and land tax;
b/ Written record or decision on sanctioning of administrative violation in land use, written record or decision on sanctioning of administrative violation in the construction of land-attached facilities;
c/ Decision or judgment of a people’s court which has taken legal effect or judgment enforcement decision of a judgment enforcement agency which has been enforced regarding land-attached assets;
d/ Decision of a competent state agency on settlement of a land dispute which has taken legal effect; minutes of conciliation of a land dispute bearing signatures of disputing parties and certification of the commune-level People’s Committee of the locality where the disputed land is located;
dd/ Decision on settlement of a land use-related complaint or denunciation of a competent state agency;
e/ Document for registration of permanent residence or long-term temporary residence in a residential land-attached house; identity card or birth certificate, and electricity and water charge bills and other receipts bearing the house address at the registered land parcel;
g/ Document on assignment, allocation or distribution of house or land by the agency or organization assigned by the State to manage and use land;
h/ Document on purchase and sale of houses and other land-attached assets or documents on purchase and sale of land and transfer of land use rights bearing signatures of related parties;
i/ Maps, registers and documents on land survey and measurement in different periods;
k/ Declaration of houses and land for registration bearing the certification of the commune-level People’s Committee at the time of declaration and registration.
3. In case the points of time of land use shown in the documents specified in Clause 2 of this Article are inconsistent, the time of starting stable land use shall be determined according to the document showing the earliest date of land use.
4. In case none of the documents specified in Clause 2 of this Article is available or they do not clearly state the time of document establishment and land use purpose, there must be the commune-level People’s Committee’s certification of the time of starting land use and land use purpose based on opinions of persons who have once resided in the land by the time when the certification requester starts the land use in the residential area (village, hamlet or street quarter) where the land is located.
Article 22. Handling and grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to land-using households and individuals that commit violations of the land law before July 1, 2014
1. In case of use of encroached or occupied land of public-facility protection corridors after the State announces and puts up boundary landmarks of such corridors, or of encroached or occupied land of roads, roadsides and pavements after the State announces construction red lines, or of encroached or occupied land used for the construction of offices of state agencies, non-business works or other public facilities, the State shall recover land for returning to these works without granting certificates of land use rights and ownership of houses and other land- attached assets for encroached or occupied land areas.
In case due to adjustment of land use master plans and construction master plans approved by competent state agencies, encroached or occupied land areas no longer belong to public-facility protection corridors, lie within the redlined areas for construction of roads or for construction of offices of state agencies, non-business works or other public facilities, current land users may be considered for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets and shall perform the financial obligations prescribed by law.
2. Cases of use of encroached or occupied land which has been allocated by the State without land use levy to state-run agricultural and forestry farms, forest management boards, agricultural or forestry centers, stations, farms or companies shall be handled as follows:
a/ In case of use of encroached or occupied land areas planned for the protection and development of special-use forests or protection forests, provincial-level People’s Committees shall direct the recovery of such land areas for allocation to forest management boards for management and use. Persons currently using encroached or occupied land may be considered by forest management boards for contractual assignment of forest land for forest protection and development in accordance with the law on forest protection and development.
In case no forest management board exists, persons currently using encroached or occupied land may be allocated land by the State for use for the purpose of protection and development of protection forests and be granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets;
b/ In case of use of encroached or occupied land areas planned for the construction of public infrastructure facilities, provincial-level People’s Committees shall direct the recovery of such land areas for allocation to investors for the construction of such facilities.
Persons currently using encroached or occupied land may continue temporarily using such land until the State recovers the land but shall preserve the current land use status and make land declaration and registration under regulations;
c/ In case of use for agricultural production or construction of houses on encroached or occupied land areas which are not planned for the protection and development of special-use forests or protection forests, or for the construction of public infrastructure facilities, current land users may be considered for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets.
In case of use for agricultural production of land areas encroached or occupied during the period from July 1, 2004, to July 1, 2014, which are now still planned to be allocated to agricultural or forestry farms for management and use, provincial-level People’s Committees shall recover such land areas for returning to agricultural or forestry farms.
3. Cases of encroachment or occupation of unused land or of land use purpose change without permission of competent state agencies in case such permission is required in accordance with the land law shall be handled as follows:
a/ In case of use of land planned for use for the purposes specified in Articles 61 and 62 of the Land Law, the State shall recover the land before projects or works are implemented or constructed.
Persons currently using encroached or occupied land may continue temporarily using such land until the State recovers it but shall preserve the current land use status and make land declaration and registration under regulations;
b/ In case of use of land not falling into the case specified at Point a of this Clause, provincial-level People’s Committees shall direct the review and modification of land use master plans. Current land users may be considered for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets.
4. Households and individuals currently using self-reclaimed agricultural land areas which are conformable with land use master plans approved by competent state agencies and dispute-free may have their land use rights recognized by the State according to land quotas set by provincial-level People’s Committees. They shall change to lease land areas that exceed land quotas set by provincial-level People’s Committees.
5. Current land users stably using dispute-free land in the cases specified in Clause 1; Points a and c, Clause 2; and Point b, Clause 3 of this Article may be granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets as follows:
a/ For land parcels with houses, their residential land areas may be recognized under Point a, Clause 2, Article 20 of this Decree;
b/ Land parcels with non-residential construction works may be recognized under Point b, Clause 1 and Point b, Clause 2, Article 20 of this Decree;
c/ Land areas currently in use and determined as agricultural land may have land use rights recognized under regulations applicable to the cases specified in Clause 5, Article 20 of this Decree;
d/ Land users that are granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets specified in this Clause shall perform the financial obligations prescribed by law.
Article 23. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to households and individuals that are allocated land ultra vires
1. Cases of allocation of land ultra vires to households and individuals specified in this Article include cases in which heads of residential quarters or commune-level People’s Committees allocated land ultra vires under the land law in different periods; and cases in which organizations that are allocated or leased land by the State for use distributed or arranged such land to their officials, workers, employees or members for use for housing and other purposes.
2. In case land allocated ultra vires has been stably used since before October 15,1993, is dispute-free and conformable with land use master plans, current land users may be granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets for allocated land areas under Clause 1, Article 20 of this Decree.
3. For land allocated ultra vires and stably used in the period from October 15, 1993, to before July 1, 2014, which is dispute-free and conformable with land use master plans, certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets may be granted under Clause 2, Article 20 of this Decree.
For land parcels with gardens and ponds associated with houses or other construction works, the remaining areas without houses and other construction works shall be determined as agricultural land according to the current use status and land users that wish to change their use to non-agricultural purposes shall carry out procedures for land use purpose change.
4. Land users that are granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets specified in Clauses 2 and 3 of this Article shall perform the financial obligations prescribed by law.
5. The State shall not grant certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets for and shall recover all land areas allocated or leased ultra vires on and after July 1, 2014.
Article 24. Determination of residential land areas upon grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to households and individuals using land with gardens and ponds associated with houses
1. Land with gardens and ponds specified in Article 103 of the Land Law means land parcels with gardens and ponds associated with houses, including land parcels inside and outside residential quarters in the following cases:
a/ Land parcels with houses, gardens and ponds;
b/ Land parcels on which documents on land use rights specified in Clauses 1, 2 and 3, Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree show houses, gardens and ponds which all have been actually used for the housing purpose.
2. Documents serving as bases for determination of residential land areas under Clauses 2, 3 and 4, Article 103 of the Land Law are those showing one or several use purposes, including housing or residential land purpose.
3. For land parcels with gardens and ponds associated with houses formed before December 18, 1980, for which current land users have one of the documents on land use rights specified in Clauses 1, 2 and 3, Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree, which does not clearly indicate the residential land area, the residential land area to be recognized without land use levy is equal to the actual area of the land parcel in case the area of the land parcel is smaller than five times the residential land allocation quota, or equal to five times the residential land allocation quota in case the area of the land parcel is larger than five times the residential land allocation quota in accordance with the Land Law.
4. For land areas remaining after the determination of residential land areas under Article 103 of the Land Law and Clause 3 of this Article, and currently used as gardens and ponds which are requested by land users to be recognized as residential land or other non- agricultural land, land users may be granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets according to such use purpose and shall perform the financial obligations prescribed by law.
5. Residential land areas of households and individuals in case of residential land parcels with gardens and ponds for which certificates are granted before July 1, 2014, shall be determined as follows:
a/ If households and individuals using land parcels with gardens and ponds associated with houses are granted certificates before July 1, 2014, residential land areas shall be determined to be areas stated in the granted certificates;
b/ If by the time of grant of previous certificates, land users had one of the documents specified in Clauses 1, 2 and 3, Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree but residential land areas are neither determined under Clauses 2, 3 and 4, Article 103 of the Land Law and Clause 3 of this Article and nor re-determined under Points b and c, Clause 1, Article 45 of the Government’s Decree No. 181/2004/ND-CP of October 29,2004, on implementation of the 2003 Land Law, and now land users file written requests for re-determination of their residential land areas or the State recovers re-determined residential land areas under Clauses 2, 3 and 4, Article 103 of the Land Law and Clause 3 of this Article, households and individuals are not required to pay land use levy and are entitled to compensations when the State recovers land areas re-determined as residential land.
Article 25. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to domestic organizations currently using land not falling into the cases specified in Article 46 of this Decree
1. Domestic organizations currently using land without certificates shall review and declare the current land use status and report such to provincial-level People’s Committees of localities where the used land is located.
2. Based on reports on current land use status of the above organizations, provincial-level People’s Committees of localities where the used land is located shall inspect the current land use status and decide to handle as follows:
a/ For land areas currently used for proper purposes, competent state agencies shall determine the form of land use in accordance with law and grant certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets. In case of land use without documents specified in Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree, the forms of land use specified in Articles 54, 55 and 56 of the Land Law shall be applied, while the form of land use specified in Article 56 of the Land Law shall be applied to land for construction of offices of socio-professional organizations;
b/ The land use term, for which certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets are granted under Point a of this Clause in case land users have documents on land use rights specified in Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree, shall be determined according to such documents. In case land users have documents on land use rights which do not indicate a land use term or indicate a land use term not conformable with the land law, the land use term shall be determined under Article 126 of the Land Law and counted from October 15,1993, for cases of land use before October 15, 1993, or counted from the date of issuance of land allocation or lease decision, for cases of land use since October 15, 1993;
c/ Land areas used for improper purposes, land areas encroached or occupied due to irresponsibility, land areas leased or lent to other organizations, households and individuals, land areas unlawfully contributed as capital to joint ventures or undertakings, land areas not used for more than 12 months or left unused for more than 24 months behind schedule shall be handled under decisions of provincial-level People’s Committees in accordance with law;
d/ Land areas arranged by organizations to households and individuals being their officials, workers and employees for the housing purpose shall be handed over to district-level
People’s Committees of localities where such land areas are located, for management. For residential land areas currently used in conformity with master plans, certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted to current land users, who shall perform the financial obligations prescribed by law;
dd/ For disputed land areas, provincial-level People’s Committees shall definitely settle such disputes in order to identify land users in accordance with law.
Article 26. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land- attached assets for land for construction of urban areas, rural residential areas and production and business areas with multiple use purposes
1. For land allocated to investors for implementing projects on construction of urban areas or rural residential areas while these projects have different construction items or different land areas used for different purposes prescribed in Article 10 of the Land Law, the locations and sizes of land areas used for each purpose shall be determined and certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted as follows:
a/ Certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted for each land parcel used for a certain purpose in conformity with the detailed construction plan approved by a competent state agency;
b/ The land areas used for construction of public facilities serving the community’s common interests inside and outside urban areas or rural residential areas under the investment projects and approved detailed construction plan shall be handed over to the localities for management without being granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets.
2. For land allocated to investors for implementing production and business projects which have different land areas used for different purposes, a single certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted to the investor for the whole area of such land, which clearly indicates the locations and sizes of land areas used for each purpose prescribed in Article 10 of the Land Law. In case the investor so wishes, a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted for each land parcel used for a certain purpose in accordance with the land law and the approved detailed construction plan.
Article 27. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets for land having historical-cultural relics or scenic spots
The grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land- attached assets for land having historical-cultural relics or scenic spots which have been ranked or are protected under decisions of provincial-level People’s Committees is prescribed as follows:
1. For land having independent historical-cultural relics or scenic spots which are currently used by agencies, organizations, communities, households or individuals, certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted to these agencies, organizations, communities, households or individuals.
2. In case historical-cultural relics or scenic spots are areas with different land users and involving different types of land, certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted to every land user and for each type of land in such areas. Land users shall comply with regulations on protection of historical-cultural relics and scenic spots.
Article 28. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses-and other land-attached assets for land currently used by religious institutions
1. Religious institutions that are using land with pagodas, churches, chancels, monasteries, abbeys, religious schools, head offices of religious organizations or other religious institutions licensed by the State to operate but have not yet been granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall review and declare their land use and report to provincial-level People’s Committees on:
a/ The total land area currently used;
b/ Land areas classified by the religious institution by origin: land area allocated by a competent state agency; land area acquired from transfer; land area donated; land area borrowed from organizations, households or individuals; land area created by the religious institution itself; and land areas of other origins;
c/ Land areas lent, lent for residence, or leased by the religious institution to organizations, households or individuals;
d/ Land area encroached upon or occupied by other persons.
2. Provincial-level People’s Committees of localities where the land is located shall conduct field inspection, determine the boundaries of land parcels and make decisions as follows:
a/ For land areas used stably by organizations, households or individuals since before October 15, 1993, they shall base on land use demands of religious institutions and these organizations, households or individuals to make settlement decisions that ensure land use- related interests of the related parties and suit reality;
b/ For land areas used by organizations, households or individuals since between October 15, 1993, and before July 1, 2004, they shall make settlement decisions as in the case in which households or individuals borrow or rent land from other households or individuals in accordance with the land law;
c/ For land areas of religious institutions which have been expanded without permission of a competent state agency; are encroached upon or occupied; or are under dispute, they shall make definite settlement decisions in accordance with law.
3. For land areas of religious institutions which has been handled over under Clause 2 of this Article and meet the conditions prescribed in Clause 4, Article 102 of the Land Law, religious institutions shall be granted certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets in the form of land allocation without land use levy for a long and stable use term.
For land areas currently used by religious institutions for the purpose of agricultural production, forestry production or non-agricultural production and business, or used for charitable establishments (including land areas acquired through transfer or donated before July 1, 2004), certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted in a form and with a land use term corresponding to such purpose as for households and individuals.
Article 29. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets for land parcels smaller than the prescribed minimum area
1. For a currently used land parcel which was formed before the effective date of the provincial-level People’s Committee’s document on the minimum area of a land parcel eligible for splitting and which is smaller than the minimum area prescribed by the provincial-level People’s Committee but fully satisfies the conditions for grant of a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets, the current user shall be granted such certificate.
2. Notarization, certification, grant of a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets, and carrying out of procedures to exercise the rights of land users are not allowed in case land users arbitrarily divide the land parcels already registered and granted with the certificates into two or more smaller land parcels at least one of which is smaller than the minimum area prescribed by the provincial-level People’s Committee.
3. In case land users simultaneously apply for splitting of a land parcel smaller than the prescribed minimum area and for consolidation of this land parcel with another adjacent one to form a new land parcel equal to or larger than the minimum area of a land parcel eligible for splitting, they shall be allowed to split and consolidate the land parcels simultaneously and shall be granted a certificate of land use rights and ownership of houses and other land- attached assets for the new land parcel.
Article 30. Grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets in case the land area of a user is located in different administrative units
1. In case a land user has a land area located in different communes, wards and townships but falling within the competence of the same certificate-granting agency, a single certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted to such land user, which must indicate each land area located in each commune-level administrative unit.
2. In case a land user has a land area located in different communes, wards and townships and falling within the competence of different certificate-granting agencies, a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets shall be granted for each land pared falling within the competence of each certificate-granting agency.
Article 31. House ownership certification
House owners eligible to own houses under the housing law and possessing papers proving the lawful formation of houses may have their house ownership certified according to the following provisions:
1. Domestic households and individuals must possess one of the following papers:
a/ House construction permit, in case construction permit is required under the construction law.
In case a house was built in contravention of the granted construction permit, written opinions of the construction licensing agency certifying that the improperly built area does not affect the safety of the house and is now compliant with the approved construction master plan are required;
b/ Contract on purchase and sale of a state-owned house under the Government’s Decree No. 61/CP of July 5, 1994, on purchase, sale and trading of houses, or paper on liquidation or sale of a state-owned house before July 5, 1994;
c/ Paper on handover or donation of a gratitude or great-unity house;
d/ Paper on house ownership, granted by competent authorities in different periods while such house is not subject to entire-people ownership establishment by the State under the XIth National Assembly’s Resolution No. 23/2003/QH11 of November 26, 2003, on houses and land managed and arranged by the State for use during the implementation of housing and land management policies and socialist reform policies before July 1, 1991, and the National Assembly Standing Committee’s Resolution No. 755/2005/NQ-UBTVQH11 of April 2, 2005, on the settlement of specific house- and land-related cases during the implementation of housing and land management policies and socialist reform policies before July 1, 1991;
dd/ Paper on purchase and sale, donation, exchange or inheritance of the house already notarized or certified by a competent People’s Committee under law.
For a house purchased, donated, exchanged or inherited from July 1, 2006 on, a paper on such transaction is required under the housing law.
For a house purchased from an enterprise building houses for sale, a contract on house purchase and sale signed between the purchaser and the seller is required;
e/ Legally effective judgment or decision of the people’s court or paper of the state agency competent to permit house ownership;
g/ An applicant for house ownership certification that possesses one of the papers specified at Points a, b, c, d, dd and e of this Clause which bears the name of another person is required to possess one of the papers on house purchase and sale, donation, exchange or inheritance before July 1, 2006, signed by the related parties and certified by the commune- level People’s Committee; for a house purchased, donated, exchanged or inherited before July 1, 2006, without a paper on such purchase, donation, exchange or inheritance signed by the related parties, the commune-level People’s Committee’s certification of the time of purchase, donation, exchange or inheritance of such house is required.
In case an applicant for house ownership certification possesses one of the papers specified at Points a, b, c, d, dd and e of this Clause while the current conditions of the house are inconsistent with such paper, the commune-level People’s Committee’s certification is required for the part of the house inconsistent with the paper as in the case prescribed at Point h of this Clause;
h/ A domestic individual who possesses none of the papers specified at Points a. b. c, d, dd and e of this Clause shall obtain the commune-level People’s Committee’s written certification that the house was completely built before July 1, 2006, before the land use master plan or construction plan was promulgated, or complied with the master plan in case the house was built after the land use master plan, the detailed urban construction plan or master plan on construction of rural residential areas was promulgated under law. For a house completely built since July 1, 2006, the commune-level People’s Committee’s written certification that die house is not subject to construction permit and satisfies the planning conditions like houses built before July 1, 2006, is required; for a house which was subject to construction permit but was built without such permit, the district-level construction management agency’s written approval of the existence of such house is required.
2. Overseas Vietnamese owning houses in Vietnam must possess the following papers:
a/ Paper on house purchase and sale, donation, inheritance or ownership in another form under the housing law;
b/ One of the papers of the transferor as prescribed in Clauses 1 and 3 of this Article.
3. Domestic organizations and overseas Vietnamese implementing investment projects and foreign organizations and individuals must possess papers prescribed below:
a/ In case of building houses for commercial purposes, one of the papers on projects on commercial housing development (project approval decision, investment decision, investment license and investment certificate) is required;
b/ In case of purchase, donation, inheritance or ownership of houses in another form as prescribed by law, a paper on such transaction is required in accordance with the housing law;
c/ For houses which were built in contravention of the papers specified at Points a and b of this Clause, written opinions of the construction licensing agency certifying that the improperly built area does not affect the safety of the houses and is now compliant with the approved construction master plan (if any) are required.
4. In case house owners are not land users, in addition to the papers on house ownership as specified in Clauses 1, 2 and 3 of this Article, a lawfully notarized or certified land lease contract, capital contribution contract, business cooperation contract or written approval of the land user of house construction and copies of papers on land use rights under the land law are required.
Article 32. Certification of ownership of non-residential construction facilities
Owners of non-residential construction facilities may have their ownership certified according to the following regulations:
1. Domestic households, individuals and communities must possess one of the following papers:
a/ Facility construction permit, in case construction permit is required under the construction law.
For facilities which were built in contravention of the granted construction permits, written opinions of the construction licensing agency certifying that the improperly built area
does not affect the safety of the facilities and is now compliant with the approved construction master plan are required;
b/ Papers on ownership of construction facilities, granted by competent authorities in different periods, unless the facilities have been managed and arranged by the State for use;
c/ Notarized or certified paper on purchase and sale, donation or inheritance of the construction facility as prescribed by law;
d/ Legally effective paper of the people’s court or a competent state agency proving the ownership of the construction facility;
dd/ An applicant for construction facility ownership certification who possesses one of the papers specified at Points a, b, c and d of this Clause which bears the name of another person is required to possess one of the papers on purchase and sale, donation, exchange or inheritance of construction facilities before July 1, 2004, signed by the related parties and certified by the commune- or higher-level People’s Committee; in case of purchase, donation, exchange or inheritance of construction facilities before July 1, 2004, without a paper on such purchase, donation, exchange or inheritance signed by the related parties, the commune-level People’s Committee’s certification of the time of purchase, donation, exchange or inheritance of the construction facility in the application for a certificate of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets is required.
In case an applicant for construction facility ownership certification possesses one of the papers specified at Points a, b, c and d of this Clause while the current conditions of the facility are inconsistent with such paper, the commune-level People’s Committee’s certification is required for the part of the facility inconsistent with the paper as in the case prescribed at Point e of this Clause;
e/ In case a domestic individual possesses none of the papers specified at Points a, b, c and d of this Clause, the commune-level People’s Committee’s certification that the facility was completely built before July 1, 2004, before the land use master plan or construction plan is promulgated, or is compliant with the master plan, in case the facility was built after the land use master plan or construction plan is promulgated, is required.
For a facility completely built since July 1, 2004, the commune-level People’s Committee’s certification that the facility is not subject to construction permit and satisfies the planning conditions as for facilities built before July 1, 2004, is required; for a facility which was subject to construction permit but was built without such permit, the district-level construction management agency’s written approval of the existence of such facility is required.
2. Domestic organizations, religious institutions, foreign organizations, foreign individuals and overseas Vietnamese must possess papers prescribed below:
a/ In case of construction of new facilities under law, the project approval decision, project investment decision, investment license, investment certificate or construction permit granted by a competent state agency and the paper on land use rights under the land law or the land lease contract with the land user indicating the land use purpose conformable with the facility construction purpose, are required;
b/ In case of purchase and sale, donation, exchange, inheritance or in another form as prescribed by law, a lawful paper on such transaction is required;
c/ In case of unavailability of one of the papers specified at Points a and b of this Clause, the provincial-level construction management agency’s certification that the facility existed before the construction master plan is promulgated and is now compliant with the approved construction master plan is required;
d/ For facilities built in contravention of the papers specified at Points a, b and c of this Clause, the improperly built area shall be inspected by the construction licensing agency and is certified not to affect the safety of the facility and to be compliant with the approved construction master plan.
3. In case construction facility owners are not land users, in addition to the facility ownership papers specified in Clauses 1 and 2 of this Article, the lawfully notarized or certified written approval of the land user of the construction of the facility and copies of papers on land use rights under the land law are required.
Article 33. Certification of ownership of planted production forests
Owners of planted production forests whose capital used for forestation, money paid for acquisition of forests or money paid to the State upon allocation of forests with land use levy does not originate from the state budget and who possess one of the following papers may have their ownership certified:
1. Certificate or one of the papers specified in Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree, which indicates that the State allocates land, leases land or recognizes land use rights for planting production forests;
2. Paper proving the allocation of planted production forests;
3. Lawfully notarized or certified contract or document on purchase and sale, donation or inheritance of planted production forests;
4. Legally effective judgment or decision of the people’s court or paper of a competent state agency on the ownership of planted production forests;
5. In case households, individuals or communities have none of the papers specified in Clauses 1, 2, 3 and 4 of this Article but have planted production forests with their own capital, the land registration office’s certification of their full satisfaction of the conditions for having land use rights recognized under the land law is required;
6. For domestic organizations that implement projects on planting production forests with capital not originating from the state budget, the project approval decision, project investment decision, investment license or investment certificate for planting production forests under the investment law is required;
7. For foreign-invested enterprises and overseas Vietnamese that implement projects on planting production forests, the project approval decision, project investment decision, investment decision, investment license or investment certificate for planting production forests under the investment law is required;
8. In case owners of planted production forests are not land users, in addition to the papers specified in Clauses 1 thru 7 of this Article, the legally notarized or certified written agreement of the land user permitting the use of land for forestation and copies of papers on land use rights under the land law are required.
Article 34. Certification of ownership of perennial trees
Owners of perennial trees may have their ownership certified if they possess one of the following papers:
1. Certificate or one of the papers specified in Article 100 of the Land Law and Article 18 of this Decree, which indicates that the State allocates land, leases land or recognized the land use rights for planting perennial trees as suitable to the land use purposes indicated in such certificate or paper;
2. Lawfully notarized or certified contract or document on purchase and sale, donation or inheritance of perennial trees;
3. Legally effective judgment or decision of the people’s court or paper of a competent state agency on the ownership of perennial trees;
4. In case households, individuals or communities have none of the papers specified in Clauses 1, 2 and 3 of this Article, the land registration office’s certification of their full satisfaction of the conditions for having land use rights recognized under the land law is required;
5. For domestic organizations, the project approval decision, project investment decision, investment certificate or investment license for planting perennial trees under the investment law is required;
6. In case owners of perennial trees are not land users, in addition to the papers specified in Clauses 1 thru 5 of this Article, the legally notarized or certified paper of the land user permitting the use of land for planting perennial trees and copies of papers on land use rights prescribed by the land law are required;
7. The Ministry of Agriculture and Rural Development shall assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of Natural Resources and Environment in, specifying types of perennial trees eligible for ownership certification.
Article 35. Land-attached assets ineligible for ownership certification upon grant of certificates of land use rights and ownership houses and other land-attached assets
Land-attached assets are ineligible for ownership certification in one of the following cases:
1. Land-attached assets on land parcels which fail to fully satisfy the conditions for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets as prescribed in the Land Law and this Decree;
2. Houses or other construction facilities which are temporarily built during the construction of main facilities or which are built with bamboo, leaf or earth; and auxiliary facilities which are outside the premises of main facilities and serve the management, use and operation of main facilities;
3. Land-attached assets for which competent state agencies have issued clearance or dismantlement notices or decisions or land recovery notices or decisions;
4. Houses or facilities which are built after a construction ban is announced; which encroach or occupy the protection corridors of technical infrastructure facilities or ranked historical-cultural relics; land-attached assets which are formed after the master plan is approved by a competent state agency but do not comply with the master plan approved at the time of grant of certificates of land use rights and ownership houses and other land-attached assets;
5. State-owned assets, except assets already determined as state capital contributions to enterprises under the guidance of the Ministry of Finance;
6. Land-attached assets not falling in the cases eligible for ownership certification as prescribed in Articles 31, 32, 33 and 34 of this Decree;
7. Assets formed as a result of illegal change of land use purpose.
Article 36. Grant of certificates of land use rights and ownership houses and other land- attached assets in case the State’s decisions on management of land and land-attached assets had been issued but have not yet been implemented
Households and individuals that are currently using land and land-attached assets for which state agencies’ decisions on management of such land and assets had been issued during the implementation of state policies but have not yet actually been implemented, may continue using them and may be considered for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets in accordance with law.
Article 37. Agencies granting certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets when land users exercise the rights of land users or owners of land-attached assets; renewal or re-grant of certificates
1. For localities in which land registration offices have been established under Clause 1, Article 5 of this Decree, provincial-level Natural Resources and Environment Departments shall grant certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to land users and owners of land-attached assets who have been granted certificates, certificates of ownership of houses or certificates of ownership of construction facilities in the following cases:
a/ When land users or asset owners exercise the rights of land users or owners of land- attached assets, which requires the grant of new certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets;
b/ Renewal or re-grant of certificates, certificates of ownership of houses or certificates of ownership of construction facilities.
2. For localities in which land registration offices have not yet been established under Clause 1, Article 5 of this Decree, the grant of certificates to the subjects specified in Clause 1 of this Article is prescribed as follows:
a/ Provincial-level Natural Resources and Environment Departments shall grant certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to religious organizations or institutions; overseas Vietnamese implementing investment projects; foreign organizations and individuals; and foreign-invested enterprises;
b/ District-level People’s Committees shall grant certificates of land use rights and ownership of houses and other land-attached assets to households, individuals, communities, and overseas Vietnamese eligible to own houses associated with the rights to use residential land in Vietnam.
3. The Ministry of Natural Resources and Environment shall define the subjects that are eligible for grant of certificates of land use rights and ownership of houses and other land- attached assets upon registration of changes in land or land-attached assets, and certify changes in the granted certificates.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực