Chương 7 Nghị định 24/2000/NĐ-CP: Xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường
Số hiệu: | 24/2000/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 31/07/2000 | Ngày hiệu lực: | 01/08/2000 |
Ngày công báo: | 22/09/2000 | Số công báo: | Số 35 |
Lĩnh vực: | Đầu tư, Thương mại | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
25/10/2006 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
1.Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh đăng ký kế hoạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, nguyên liệu... cho toàn bộ thời gian xây dựng cơ bản của dự án, hoặc chia thành từng năm phù hợp với tiến độ xây lắp. Kế hoạch nhập khẩu có thể được bổ sung, điều chỉnh vào tháng đầu của mỗi quý và hàng năm phù hợp với tiến độ góp vốn, tiến độ thi công, chương trình sản xuất kinh doanh.
2. Trên cơ sở Giấy phép đầu tư, căn cứ vào giải trình kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật công trình, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ, Cơ quan được Bộ Thương mại uỷ quyền duyệt kế hoạch nhập khẩu cho từng dự án. Quá thời hạn trên, nếu chưa phê duyệt, Cơ quan được Bộ Thương mại ủy quyền phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp, các Bên hợp doanh và nêu rõ lý do.
3. Trong điều kiện thương mại như nhau, khuyến khích Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh mua hàng hoá tại Việt Nam thay vì nhập khẩu.
Thiết bị, máy móc, vật tư nhập khẩu vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư phải bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng, phù hợp với yêu cầu sản xuất, yêu cầu về bảo vệ môi trường, an toàn lao động nêu trong giải trình kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật và các quy định về nhập khẩu thiết bị, máy móc.
Trừ thiết bị, máy móc đã qua sử dụng thuộc danh mục cấm nhập khẩu, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được quyền quyết định và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của việc nhập khẩu thiết bị, máy móc đã qua sử dụng và đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
1. Thiết bị, máy móc nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư phải được giám định giá trị, chất lượng trước khi nhập khẩu hoặc trước khi lắp đặt, trừ thiết bị, máy móc đã được mua sắm thông qua đấu thầu.
2. Hải quan cửa khẩu căn cứ vào kế hoạch nhập khẩu đã được phê duyệt để cho phép nhập khẩu thiết bị, máy móc mà không yêu cầu việc xuất trình chứng chỉ giám định.
3. Tổ chức thực hiện giám định giá trị thiết bị, máy móc nhập khẩu là Công ty giám định được phép hoạt động tại Việt Nam, các tổ chức Nhà nước Việt Nam có chức năng giám định, hoặc Công ty giám định ở nước ngoài đối với việc giám định thiết bị, máy móc trước khi nhập khẩu. Nhà đầu tư phải cung cấp thông tin cho Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư về Công ty giám định mà mình lựa chọn.
Tổ chức giám định phải chịu trách nhiệm pháp lý và vật chất về kết quả giám định. Trong trường hợp giá trị thiết bị, máy móc được giám định thấp hơn giá trị do Nhà đầu tư báo cáo, thì Nhà đầu tư phải điều chỉnh lại giá trị thực hiện theo kết quả đó. Nếu phát hiện có gian lận, thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Trong trường hợp cần thiết, Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư có thể yêu cầu giám định lại giá trị các thiết bị, máy móc nhập khẩu.
1. Đối với một số dự án có yêu cầu đặc biệt, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được thuê thiết bị, máy móc ở trong nước và ở nước ngoài để thực hiện dự án.
2. Trường hợp Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh thuê mua tài chính thiết bị, máy móc tạo tài sản cố định, thì được miễn thuế nhập khẩu.
3. Trường hợp Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh thuê thiết bị, máy móc để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện theo quy định sau:
a) Chỉ được thuê thiết bị, máy móc chưa có trong dây chuyền công nghệ đăng ký tại giải trình kinh tế - kỹ thuật, cũng như khuôn mẫu và phụ tùng đi kèm để sản xuất trong một thời gian nhất định;
b) Thiết bị, máy móc thuê từ nước ngoài phải tái xuất khẩu khi hết thời hạn thuê.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho Bên cho thuê theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp được hạch toán chi phí thuê thiết bị, máy móc vào chi phí kinh doanh, không thực hiện việc khấu hao tài sản đối với thiết bị, máy móc thuê, không được tính giá trị tài sản thuê vào giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Thiết bị, máy móc thuê trong thời hạn thuê không được coi là tài sản của Bên thuê khi tiến hành các thủ tục giải thể hay phá sản doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được thực hiện hoạt động gia công hoặc gia công lại sản phẩm theo mục tiêu được quy định tại Giấy phép đầu tư, cụ thể là:
1. Nhận gia công nước ngoài;
2. Nhận gia công trong nước;
3. Đặt gia công trong nước một phần sản phẩm hoặc một số công đoạn mà công suất máy móc, thiết bị hoặc dây chuyền công nghệ chưa bảo đảm sản xuất được.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu sản phẩm của mình, được nhận ủy thác xuất khẩu theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp làm thủ tục xuất khẩu tại Cơ quan Hải quan mà không phải đăng ký kế hoạch xuất khẩu.
Trừ các mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, danh mục hàng hoá xuất khẩu có điều kiện, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được trực tiếp mua hàng hoá, sản phẩm tại thị trường Việt Nam để chế biến xuất khẩu hoặc để xuất khẩu theo quy định của Bộ Thương mại.
Đối với sản phẩm tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trực tiếp hoặc thông qua đại lý tiêu thụ để thực hiện, mà không bị giới hạn về địa bàn tiêu thụ. Doanh nghiệp được làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp khác có cùng loại sản phẩm sản xuất tại Việt Nam.
Giá bán sản phẩm do doanh nghiệp quyết định. Đối với những hàng hoá, dịch vụ Nhà nước thống nhất quản lý giá, giá bán thực hiện theo khung giá do Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công bố.
Doanh nghiệp chế xuất được bán vào thị trường nội địa các sản phẩm sản xuất tại doanh nghiệp, bao gồm:
1. Nguyên liệu, bán thành phẩm cho các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu;
2. Hàng hoá mà trong nước có nhu cầu nhập khẩu;
3. Phế liệu, phế phẩm còn giá trị thương mại.
Thủ tục và việc nộp thuế đối với các hàng hoá nói trên thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất nhập khẩu.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu được lập Kho bảo thuế tại doanh nghiệp. Hàng hoá đưa vào Kho bảo thuế chưa thuộc diện phải nộp thuế nhập khẩu.
Doanh nghiệp có nhu cầu thành lập Kho bảo thuế phải bảo đảm các điều kiện và thủ tục sau đây:
1. Xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm;
2. Hàng hoá đưa từ Kho bảo thuế vào cơ sở sản xuất phải được đăng ký, và chịu sự giám sát của hải quan;
3. Hàng hoá đưa vào Kho bảo thuế không được bán tại thị trường Việt Nam. Trường hợp được Bộ Thương mại cho phép bán tại thị trường Việt Nam, doanh nghiệp phải nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật;
4. Hàng hoá đưa vào Kho bảo thuế nếu bị hư hỏng, giảm phẩm chất không đáp ứng yêu cầu sản xuất thì phải tái xuất khẩu hoặc tiêu huỷ. Việc tiêu huỷ phải theo đúng quy định và chịu sự giám sát của Cơ quan Hải quan, Cơ quan Thuế và Cơ quan Môi trường.
Tổng cục Hải quan căn cứ vào quy định trên đây để hướng dẫn việc cấp Giấy phép thành lập Kho bảo thuế tại Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện việc quản lý, giám sát hoạt động của Kho bảo thuế.
1. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của bên chuyển giao công nghệ để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ; khuyến khích chuyển giao nhanh công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến và công nghệ đáp ứng một trong các yêu cầu sau:
a) Công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc sản xuất hàng xuất khẩu;
b) Nâng cao tính năng kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất;
c) Tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
2. Nghiêm cấm việc chuyển giao công nghệ có ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, trật tự công cộng và an toàn lao động.
1. Việc chuyển giao công nghệ của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được thực hiện trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
2. Giá trị công nghệ chuyển giao dùng để góp vốn do các bên thoả thuận và trong mọi trường hợp không vượt quá 20% vốn pháp định.
Bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật,... dùng để góp vốn được miễn các loại thuế có liên quan đến chuyển giao công nghệ.
3. Khi góp vốn bằng công nghệ, Nhà đầu tư phải lập hồ sơ chuyển giao công nghệ. Hồ sơ chuyển giao công nghệ được gửi kèm theo hồ sơ dự án xin cấp Giấy phép đầu tư và phải có các tài liệu liên quan đến sở hữu công nghiệp, văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và các văn bản xác nhận về tính năng kỹ thuật, nguyên tắc thoả thuận giá trị công nghệ của các bên liên doanh.
Việc góp vốn bằng công nghệ phải được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường chấp thuận. Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư thực hiện việc điều chỉnh Giấy phép đầu tư sau khi việc góp vốn bằng công nghệ được chuẩn y.
1. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh có trách nhiệm tuân thủ các quy định, đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường và thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam.
2. Căn cứ vào tính chất hoạt động, trình độ công nghệ và mức độ tác động môi trường, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường công bố danh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Việc lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
3. Đối với các dự án ngoài danh mục nói trên, trong hồ sơ xin phép đầu tư, Nhà đầu tư chỉ cần giải trình các yếu tố có thể ảnh hưởng đến môi trường, nêu các giải pháp xử lý và cam kết bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh.
4. Trường hợp Nhà đầu tư áp dụng tiêu chuẩn môi trường tiên tiến của quốc tế trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thì chỉ cần đăng ký với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
EXPORT AND IMPORT, TECHNOLOGY TRANSFER, ENVIRONMENTAL PROTECTION
Article 71.- Registration of import plans
1. Within 60 days after being granted the investment licenses, the foreign-invested enterprises and business cooperation parties shall register their plans for the import of machinery, equipment, accessories, supplies, raw materials’ for the entire period of the project’s capital construction, or the annual import thereof according to the construction and installation tempo. The import plans may be supplemented or adjusted at the beginning of the first month of each quarter and each year in accordance with the capital contribution schedule, the construction tempo and the production/business programs.
2. Basing themselves on the investment licenses, the economic-technical expositions and the technical designs of the projects, the agencies authorized by the Trade Ministry shall, within 15 days after the receipt of complete dossiers, approve the import plans for each project. Past the above time limit, if the plans are not yet approved, the agencies authorized by the Trade Ministry shall have to notify in writing the enterprises and/or business cooperation parties thereof, clearly stating the reasons therefor.
3. Under the same commercial conditions, foreign-invested enterprises and business cooperation parties are encouraged to buy goods in Vietnam instead of importing them.
Article 72.- Requirements on import equipment, machinery, supplies
Equipment, machinery and supplies imported into Vietnam for execution of investment projects must ensure their standards, qualities and conformity with the production, environmental protection and labor safety requirements stated in the economic-technical expositions, technical designs as well as the compliance with the regulations on import of equipment and machinery.
Except the used equipment and machinery listed for import ban, the foreign-invested enterprises and business cooperation parties may decide and take responsibility for the economic-technical efficiency of the import of used equipment and machinery, and ensure the technical as well as environmental protection requirements as prescribed by the Ministry of Science, Technology and Environment.
Article 73.- Expertise of imported equipment and machinery
1. Equipment and machinery imported to execute investment projects must be expertised in terms of their value and quality before they are imported or installed, except equipment and machinery procured through bidding.
2. Border-gate customs shall base themselves on the approved import plans to permit the import of equipment and machinery without demanding the presentation of expertise certificates.
3. Organizations performing the expertise of imported equipment and machinery shall be the expertising companies licensed to operate in Vietnam, Vietnamese State bodies with expertising function or expertising companies in foreign countries for the expertise of equipment and machinery before they are imported. The investors shall have to supply to the investment licensing agencies the information on the expertising companies they have chosen.
The expertising organizations shall have to take legal and material liabilities for the expertising results. Where the value of the expertised equipment and machinery is lower than the value reported by the investor, the investor shall have to readjust the implemented value according to such results. If any fraud is detected, the sinner shall be handled according to law, depending on the seriousness of the violation.
4. In case of necessity, the investment license- granting agencies may request the re-expertise of the value of imported equipment and machinery.
Article 74.- Financial leasing/purchase and renting of equipment or machinery
1. For a number of projects with special requirements, foreign-invested enterprises and business cooperation parties may rent equipment and machinery in the country and/or abroad for the execution of projects.
2. Where foreign-invested enterprises or business cooperation parties make the financial leasing/purchase of equipment and machinery to create their fixed assets, they shall be exempt from import tax.
3. Where foreign-invested enterprises or business cooperation parties rent equipment and machinery to carry out production and business activities, they shall have to comply with the following regulation:
a) They may rent only equipment and/or machinery not yet included in the technological chains registered in the economic-technical expositions, as well as molds and accompanying accessories for production in a given period;
b) The equipment and machinery hired from overseas must be re-exported upon the expiry of the leasing duration.
Foreign-invested enterprises and business cooperation parties shall perform the financial obligations for the lessors as prescribed by law.
Enterprises are entitled to account the equipment and machinery renting expenses into their business costs, must neither make the depreciation for the hired equipment and machinery nor calculate the value of rented property into the value of their own property.
The rented equipment and machinery, during the leasing term, shall not be considered the property of the leasing parties when the procedures for the enterprise dissolution or bankruptcy are carried out.
Article 75.- Processing and re-processing
Foreign-invested enterprises and business cooperation parties may carry out activities of product processing or reprocessing according to the objectives prescribed in the investment licenses, concretely:
1. Undertaking the product processing abroad;
2. Undertaking the product processing at home;
3. Ordering the domestic processing of a product part or a number of details which cannot be produced by the machinery, equipment or technological chains.
Foreign-invested enterprises and business cooperation parties may directly export or entrust the export of their products, and may undertake the entrusted export according to law provisions.
The enterprises shall fill in the export procedures at the Customs Offices without having to register their export plans.
Except goods on the list of goods banned from export and the list of goods subject to conditional export, foreign-invested enterprises and business cooperation parties may directly purchase goods and products in the Vietnamese market for export processing or for export according to the regulations of the Trade Ministry.
Article 77.- Sale of products in the Vietnamese market
For products sold in the Vietnamese market, foreign-invested enterprises may sell them directly or through sale agents without restriction on the sale areas. Enterprises may act as sale agents for other enterprises which have the same types of products made in Vietnam.
The sale prices of products shall be decided by the enterprises. For goods and services subject to the uniform price control by the State, the sale prices shall comply with the price brackets announced by competent State bodies.
Article 78.- Sale of products of export processing enterprises into the Vietnamese market
The export processing enterprises may sell into domestic markets their own products, including:
1. Raw materials, semi-finished products, to enterprises directly engaged in the production of export goods;
2. Goods with domestic demand for import;
3. Discarded materials and faulty products, which still have commercial value.
The procedures and tax payment for the above-mentioned goods shall comply with the law provisions on export and import.
Article 79.- Tax-guarantee warehouse
Foreign-invested enterprises producing export goods may set up tax-guarantee warehouses at the enterprises. Goods deposited into tax-guarantee warehouses are not liable to import tax payment.
Enterprises wishing to set up tax-guarantee warehouses must satisfy the following conditions and carry out the following procedures:
1. Exporting at least 50% of their products;
2. Goods transported from the tax-guarantee warehouses into the production establishments must be registered and subject to customs supervision;
3. Goods put into tax-guarantee warehouses must not be sold on the Vietnamese market. Where the Trade Ministry permits the sale thereof on the Vietnamese market, the enterprises shall have to pay import tax and other taxes according to the provisions of law;
4. If goods deposited in tax-guarantee warehouses get damaged and deteriorate thus failing to meet the production requirements, they must be re-exported or destroyed. The destruction thereof must comply with the regulations and be subject to the supervision by the Customs Office, Tax Office and Environment Office.
The General Department of Customs shall base itself on the above regulations to guide the granting of permits for the establishment of tax-guarantee warehouses at foreign-invested enterprises and manage and supervise the activities of tax-guarantee warehouses.
Article 80.- Protection and encouragement of technology transfer
1. The Vietnamese Government creates favorable conditions for and protects the legitimate rights and interests of the technology transferors in order to execute investment projects in Vietnam according to law provisions on technology transfer; encourages quick transfer of technologies, particularly advanced technologies and technologies which satisfy one of the following requirements:
a) Technologies which create new and necessary products in Vietnam or produce export goods;
b) Technologies which raise the technical properties, quality of products and raise the production capacity;
c) Technologies which save raw materials, fuels; efficiently exploit and use natural resources.
2. It is strictly forbidden to transfer technologies which have adverse impacts on ecological environment, public order and labor safety.
Article 81.- Transfer of technologies and capital contribution with technologies
1. The transfer of technologies by foreign-invested enterprises and business cooperation parties shall be effected on the basis of technology transfer contracts as prescribed by the legislation on technology transfer.
2. The value of the transferred technology used for capital contribution shall be agreed upon by the parties and must in all circumstances not exceed 20% of the legal capital.
Invention patents, technical know-how, technological processes, technical services�, which are used for capital contribution shall be exempt from all technology transfer-related taxes.
3. When contributing capital with technologies, investors must compile dossiers on technology transfer. The technology transfer dossiers shall be sent together with the project dossiers of application for investment licenses and must include documents relating to industrial property, industrial property protection deeds and written certification of technical properties, the principle for agreement on the value of the technology of the joint-venture parties.
The capital contribution with technologies must be approved by the Ministry of Science, Technology and Environment. The investment licensing agencies shall readjust the investment licenses after the capital contribution with technologies is approved.
Article 82.- Environmental protection
1. Foreign-invested enterprises and business cooperation parties shall have to abide by the regulations on and meet the criteria for environmental protection and observe the Vietnamese legislation on environmental protection.
2. Basing itself on the technology’s operation nature, level and environmental impacts, the Ministry of Science, Technology and Environment shall announce the list of projects subject to the elaboration of reports on environmental impact assessment.
The elaboration and evaluation of the environ-mental impact assessment reports shall comply with the provisions of the legislation on environmental protection.
3. For projects outside the above-mentioned list, the investors only need to expound in their dossiers of application for investment licenses factors which may affect the environment, state the handling measures and commit themselves to protect the environment in the process of construction and business activities.
4. Where the investors apply international advanced environmental standards in the process of construction and business activities in Vietnam, they only need to make registration thereof with the Ministry of Science, Technology and Environment.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực