Chương 4 Luật Khiếu nại, tố cáo 1998: Tố cáo, giải quyết tố cáo
Số hiệu: | 09/1998/QH10 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 02/12/1998 | Ngày hiệu lực: | 01/01/1999 |
Ngày công báo: | 15/01/1999 | Số công báo: | Số 2 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng, Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2012 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1- Người tố cáo có các quyền sau đây:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
b) Yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập, trả thù.
2- Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
1- Người bị tố cáo có các quyền sau đây:
a) Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2- Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền; trong trường hợp cần thiết thì giao cho cơ quan Thanh tra hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo.
Chánh thanh tra các cấp có thẩm quyền:
1- Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan cùng cấp khi được giao;
2- Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà thủ trưởng cơ quan cấp dưới trực tiếp của thủ trưởng cơ quan cùng cấp đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
Tổng Thanh tra nhà nước có thẩm quyền:
1- Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao;
2- Xem xét, kết luận về nội dung tố cáo mà Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
Người tố cáo phải gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo; nội dung tố cáo. Trong trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người có trách nhiệm tiếp nhận phải ghi lại nội dung tố cáo, họ, tên, địa chỉ của người tố cáo, có chữ ký của người tố cáo.
Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải chuyển cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo khi họ yêu cầu.
Trong trường hợp cấp thiết, cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo phải báo ngay cho cơ quan có trách nhiệm để áp dụng biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn cho người tố cáo khi họ yêu cầu.
Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 90 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
Người giải quyết tố cáo phải ra quyết định về việc tiến hành xác minh và kết luận về nội dung tố cáo, xác định trách nhiệm của người có hành vi vi phạm, áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý đối với người vi phạm.
Trong trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết thì người tố cáo có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo; thời hạn giải quyết được thực hiện theo quy định tại Điều 67 của Luật này.
Trong quá trình xác minh việc tố cáo, người giải quyết tố cáo có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1- Bảo đảm khách quan, trung thực, đúng pháp luật trong việc giải quyết tố cáo;
2- Yêu cầu người tố cáo cung cấp bằng chứng, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;
3- Yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo;
4- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;
5- Trưng cầu giám định, tiến hành các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo, nếu thấy có dấu hiệu phạm tội thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải chuyển tin báo, chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tin báo hoặc nhận được hồ sơ, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản về việc xử lý cho cơ quan, tổ chức đó biết; trường hợp tố cáo có nội dung phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo phải giữ bí mật cho người tố cáo; không được tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và các thông tin khác có hại cho người tố cáo.
1- Việc giải quyết tố cáo phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ giải quyết tố cáo bao gồm:
a) Đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo;
b) Biên bản xác minh, kết quả giám định, tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết;
c) Văn bản giải trình của người bị tố cáo;
d) Kết luận về nội dung tố cáo; văn bản kiến nghị biện pháp xử lý;
đ) Quyết định xử lý;
e) Các tài liệu khác có liên quan.
2- Hồ sơ giải quyết tố cáo phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và được lưu giữ theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu thì hồ sơ được chuyển cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
DENUNCIATIONS AND SETTLEMENT THEREOF
SECTION 1. RIGHTS AND OBLIGATIONS OF THE DENUNCIATOR AND THE DENOUNCED
1. The denunciator shall have the following rights:
a/ To send written denunciations or personally make denunciations to competent agencies, organizations and/or individuals;
b/ To request the confidentiality of his/her name, address and autographs;
c/ To request the notification of the denunciation settlement results;
d/ To request protection by competent agencies and/or organizations when being threatened, retaliated or revenged.
2. The denunciator shall have the following obligations:
a/ To honestly present the denunciation contents;
b/ To clearly state his/her name, surname and address;
c/ To take responsibility before law for his/her untrue denunciation.
1. The denounced shall have the following rights:
a/ To be informed of the denunciation contents;
b/ To show evidences in order to prove that the denunciation content is not true;
c/ To have his/her legitimate rights and interests, which were infringed upon, as well as his/her honor, restored; to be compensated for the damage caused by untrue denunciations;
d/ To request competent agency(ies), organization(s) and/or individual(s) to deal with the person(s) who made the untrue denunciations.
2. The denounced shall have the following obligations:
a/ To make justification for the denounced act(s); to provide relevant information and/or documents when so requested by competent agency(ies), organization(s) and/or individual(s);
b/ To strictly abide by the denunciation-handling decisions of competent agencies, organizations or individuals;
c/ To compensate for the damage and overcome the consequences, caused by his/her illegal act(s).
SECTION 2. COMPETENCE TO HANDLE DENUNCIATIONS
Article 59.- Denunciations of law-breaking acts committed by denounced persons of any agencies or organizations shall be settled by such agencies or organizations.
Denunciations of acts which violate the regulations on tasks and public duties and are committed by persons of any agencies or organizations shall be settled by the heads of such agencies or organizations.
Denunciations of acts which violate the regulations on tasks and public duties and are committed by heads of any agencies or organizations shall be settled by heads of their immediate higher-level agencies or organizations.
Article 60.- Denunciations of law-breaking acts which are related to the State-management functions of any agencies shall be settled by such agencies.
Denunciations of criminal acts shall be settled by agencies engaged in legal proceedings according to the criminal procedures legislation.
Article 61.- The agency and organization heads shall have to settle denunciations according to competence; in case of necessity, they may be handed over to investigation bodies or other competent agencies for examination, verification, conclusion and proposals on handling measures.
Article 62.- The chief inspectors at all levels shall have the competence to:
1. Verify, make conclusions on, and propose measures to settle, denunciations under the jurisdiction of the heads of the agencies of the same level, when so assigned;
2. Consider and make conclusions on denunciation contents which have already been settled but in contravention of law by heads of the agencies immediately under the heads of the agencies of the same level; in cases where a denunciation settlement is concluded as having breached law, a petition shall be made to the person who has reviewed and rehandled the case.
Article 63.- The State inspector-general shall have the competence to:
1. Verify, make conclusion on and propose measures to settle denunciations under the Prime Minster�s jurisdiction, when so assigned;
2. Consider and make conclusions on denunciations which have already been settled but in contravention of law by ministers, heads of ministerial-level agencies, heads of agencies attached to the Government and presidents of the provincial-level People’s Committees; in cases where a denunciation settlement is concluded as having breached law, a petition shall be made to the person who has reviewed and rehandled the case.
Article 64.- The Prime Minister shall direct the settlement of denunciations with particularly complicated contents, and decide the handling of denunciations already concluded and proposed with measures by the State Inspector-General as prescribed in Point 1, Article 63 of this law.
SECTION 3. PROCEDURES FOR DENUNCIATION SETTLEMENT
Article 65.- The denunciator shall have to send his/her written denunciation to the competent agency, organization or individual. The written denunciation must clearly state the name, surname and address of the denunciator; the denunciation content. In cases where the denunciator personally comes and make denunciation orally, the person who receives the former shall have to record the denunciation contents, the name, surname and address of the denunciator, with his/her signature.
Article 66.- Within 10 days from the date of receiving the written denunciation, the receiving agency, organization or individual shall have to receive it for settlement; in cases where a denunciation does not fall under its/his/her jurisdiction, it must be referred to the competent agency or organization for settlement and the denunciator shall be informed thereof, if so requested.
In case of urgency, denunciation-receiving agencies, organizations and/or individuals shall have to immediately notify it to responsible agencies so that measures shall be taken in time to prevent law-breaking acts; and have to apply necessary measures to ensure the safety of denunciators upon their requests.
Article 67.- The timelimit for settlement of a denunciation shall not exceed 60 days from the date of receiving it for settlement; for a complicated case or matter such timelimit may be longer, but shall not exceed 90 days from the date of receiving it for settlement.
Article 68.- The denunciation settler shall have to issue a decision on carrying out the verification and making conclusion on the denunciation content, determine the responsibility of person(s) committing acts of violation, apply handling measures according to competence or propose the competent agencies, organizations and/or individuals to deal with the violator(s).
Article 69.- In cases where there are grounds to believe that the denunciation is settled not in accordance with law or where past the prescribed timelimit the denunciation is not settled, the denunciator shall be entitled to make the denunciation to the immediate superior of the denunciation settler; the settlement timelimit shall comply with the provisions in Article 67 of this law.
In the course of verifying denunciations, the denunciation settlers shall have the following rights and obligations:
1. To ensure the objectivity, honesty and lawfulness in handling denunciations;
2. To request denunciators to provide evidence and/or documents related to the denunciation contents;
3. To request denounced persons to make written justification for the denounced acts;
4. To request concerned individuals, agencies and/or organizations to provide information and/or documents related to denunciation contents;
5. To request expertise inspection and apply other measures according to law.
Article 71.- In the course of receiving and handling denunciations, if signs of criminal offenses are detected the denunciation-receiving and handling agencies and/or organizations shall have to report and transfer the dossiers to investigation bodies and/or procuracies for handling according to the provisions of the criminal procedure legislation. Within 20 days after receiving the report or dossiers, the investigation bodies and/or procuracies shall have to inform in writing such agencies or organizations of handling; in case of a complicated denunciation, such timelimit may be longer, but shall not exceed 60 days.
Article 72.- The denunciation-receiving and-handling agencies, organizations and individuals must keep secrets for denunciators, must not disclose their names, surnames, addresses and/or autographs as well as other information to their harm.
1. The denunciation settlement must be made into dossiers. Such a dossier shall include:
a/ The written denunciation or the recorded version of an oral denunciation;
b/ The report on verification, expertise results, documents and evidences gathered in the process of handling;
c/ The written justification by the denounced;
d/ The conclusion on the denunciation contents; the written proposal on handling measures;
e/ The handling decision;
f/ Other relevant documents.
2. The denunciation-settling dossiers must be page-numbered according to file sequence and kept according to the provisions of law. In case of request by competent agencies, organizations and/or individuals, the dossiers shall be transferred to them.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực