TOP 10 mẫu Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc (2024) SIÊU HAY
Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc lớp 4 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 4 hay hơn.
Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc
Đề bài: Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc.
Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc (mẫu 1)
Em sinh ra và lớn lên ở Hội An – một thành phố cổ khá nổi tiếng. Nhưng không vì thế mà ở đây không có chiến tranh. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đã có một người phụ nữ từng dũng cảm đứng dậy đấu tranh. Đó là chị Huỳnh Thị Lựu.
Huỳnh Thị Lựu sinh ra ở vùng đất Cẩm Thanh. Từ khi còn nhỏ, chị đã có tinh thần yêu nước và tấm lòng căm thù giặc nồng nàn. Chị đã tham gia vào đội du kích quê nhà khi còn rất nhỏ. Lúc đầu làm giao liên, sau chị chuyển qua y tá. Mặc dù phải thức khuya dậy sớm, chị vẫn rất nỗ lực và luôn hoàn thành công việc được giao một cách xuất sắc. Khi thì đi chuyển công văn, khi thì đi đưa đón cán bộ, có khi chị còn giả trang đi diệt những tên ác ôn. Cũng bởi vì thế nên mọi người trong đội ai cũng yêu mến chị.
Sau đó, chị được chuyển qua bộ đội địa phương và làm Y tá trưởng Đại đội 2 đặc công của thị xã Hội An. Hơn 2 năm, Lựu đã đi tung hoành khắp nơi để chống trả các cuộc càn quét. Trận nào chị cũng có mặt, vừa chiến đấu vừa chữa trị cho thương binh.
Đầu năm 1969, chị theo đơn vị đánh chiếm nội ô thị xã. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 ngày đơn vị đã chiếm được toàn bộ trận địa. Riêng chị Lựu không chỉ băng bó cho các anh em bị thương mà còn tự tay cầm súng chiến đấu. Trong một trận phản kích của địch, sau 3 lần đánh trả, Lựu bị thương rất nặng, máu ra nhiều, sức lực giảm, súng hết đạn, địch lại tăng quân bao vây chặt nơi Lựu đang ẩn nấp. Tuy đã rất nguy ngập, chị vẫn không muốn rơi vào tay địch. Đợi giặc đến thật đông, chị dùng hết sức lực cuối cùng của mình đập gãy khẩu súng rồi tung quả pháo cuối cùng. Hàng chục tên địch chết nhưng chị cũng đã anh dũng hi sinh.
Hiện nay, thành phố Hội An để ghi nhớ công lao của chị đã đặt tên một trường học theo tên chị, Huỳnh Thị Lựu. Và em chắc chắn rằng, hôm nay và mãi về sau, mọi người sẽ luôn nhớ đến chị – một người con gái gan dạ của vùng đất phố cổ đã từng một thời chiến tranh…
Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc (mẫu 2)
Chị Võ Thị Sáu
Tuổi thơ em luôn tràn ngập những câu chuyện của bà. Đó là thế giới của những nhân vật cổ tích, của những người anh hung dũng cảm hy sinh về đất nước. Trong đó, em luôn nhớ câu chuyện về người nữ anh hùng Võ Thị Sáu.
Võ Thị Sáu sinh ra ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, một miền quê với truyền thống yêu nước. Từ nhỏ chị Sáu đã chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào. Bởi vậy 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Chị đã lập nhiều chiến tích vang dội, diệt trừ tên ác ôn và nhiều lần phát hiện gian tế.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị đã ném lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng Tòng. Thế nhưng không may mắn một lần nhận nhiệm vụ ném lựu đạn chi đã bị giặc bắt. Chị bị tra tấn dã man nhưng không hề khai báo điều gì. Bọn địch đã kết án tử hình cho chị và chuyển chị ra nhà tù Côn Đảo.
Trên đường ra chiến trường, chị không hề sợ hãi, ngắt một bông hoa ven đường và tặng cho người lính hành hình chị. Trước cái chết, chị kiên quyết không quỳ xuống, từ chối bịt mắt, đối diện với cái chết của mình rất bình tĩnh. Điều ân hận nhất của chị là chưa diệt hết được bọn thức dân Pháp. Trước khi chết, Chị Sáu bắt đầu hát Tiến quân ca. Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Chị đã ngã xuống nhưng chắc chắn tấm gương của chị vẫn còn sáng mãi.
Giới thiệu một câu chuyện về đề tài xây dựng đất nước mà em đã đọc (mẫu 3)
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:
- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép, xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.
Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một đôi giày mới...
Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác....
- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự - Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi...
Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim... rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...
Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa...
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ...
Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi...Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến...
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Cháu, để cháu sửa dép...Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ..
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ đúng có một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn “thọ” lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo...
Xem thêm các chương trình khác: