Chương 3 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004: Thủ tục thi hành án
Số hiệu: | 13/2004/PL-UBTVQH11 | Loại văn bản: | Pháp lệnh |
Nơi ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 14/01/2004 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2004 |
Ngày công báo: | 04/02/2004 | Số công báo: | Số 4 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2009 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản án, quyết định có ghi "để thi hành".
Toà án phải giải thích cho người được thi hành án, người phải thi hành án về quyền yêu cầu, thời hạn yêu cầu thi hành án và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
1. Đối với bản án, quyết định của Toà án quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải gửi bản án, quyết định cho Cơ quan thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 của Pháp lệnh này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải gửi bản án, quyết định cho Cơ quan thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó.
Đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án đã ra quyết định phải chuyển giao ngay quyết định đó cho Cơ quan thi hành án cùng cấp.
3. Khi chuyển giao bản án, quyết định, Toà án phải gửi kèm theo biên bản kê biên, tạm giữ tang vật, tài sản, các tài liệu khác có liên quan (nếu có).
4. Trong trường hợp nhận được yêu cầu của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án về việc giải thích bản án, quyết định thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Toà án đã ra bản án, quyết định đó phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản.
Người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án phải nộp phí thi hành án đối với khoản thi hành án có giá ngạch tính trên giá trị tài sản mà người đó thực nhận.
Mức phí thi hành án, việc thu, nộp, quản lý, sử dụng và xét miễn, giảm phí thi hành án do Chính phủ quy định.
1. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh ra quyết định thi hành các bản án, quyết định sau đây:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền ra quyết định thi hành án của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện nhưng do tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều huyện mà xét thấy cần thiết lấy lên để thi hành;
c) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi hành án cấp tỉnh;
d) Bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác;
đ) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt nam;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam.
2. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp quân khu ra quyết định thi hành các bản án, quyết định sau đây:
a) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự quân khu và tương đương;
b) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự khu vực trên địa bàn của Toà án quân khu và tương đương;
c) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự trung ương chuyển giao cho Cơ quan thi hành án cấp quân khu;
d) Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi hành án cấp quân khu;
đ) Bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác.
3. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện ra quyết định thi hành các bản án, quyết định sau đây:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
c) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi hành án cấp huyện;
d) Bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác.
1. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành phần bản án, quyết định sau đây:
a) án phí, lệ phí Toà án, trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án;
b) Hình phạt tiền;
c) Tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính;
d) Xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ;
đ) Thu hồi đất theo quyết định của Toà án;
e) Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án.
2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định; đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra ngay quyết định thi hành án.
1. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền uỷ thác thi hành án cho Cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có tài sản hoặc nơi có trụ sở.
Thời hạn ra quyết định uỷ thác thi hành án không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ uỷ thác.
2. Chính phủ quy định việc uỷ thác thi hành án.
1. Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định của Toà án thì thời hạn ba năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm được áp dụng cho từng định kỳ, tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Nếu người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng đó không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 26 và Điều 27 của Pháp lệnh này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
3. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án xem xét, ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án. Trong trường hợp không có căn cứ khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định không chấp nhận yêu cầu thi hành án quá hạn của người đó.
4. Thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh này, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định hoãn thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án ốm nặng hoặc chưa xác định được nơi cư trú hoặc vì lý do chính đáng khác không thể thực hiện được nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định, người đó phải tự mình thực hiện;
b) Người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành;
c) Người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên;
d) Có tranh chấp về tài sản kê biên theo quy định tại khoản 5 Điều 41 của Pháp lệnh này mà đang được Toà án thụ lý, giải quyết.
2. Người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án có quyền yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị.
Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị không quá chín mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn thi hành án.
3. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày điều kiện hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều này không còn hoặc hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị mà không có kháng nghị thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
4. Trong trường hợp nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị mà bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị biết.
Việc thi hành án bị tạm đình chỉ trong những trường hợp sau đây:
1. Người phải thi hành án bị Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi người phải thi hành án bị Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, trừ việc thi hành các khoản tiền quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 51 của Pháp lệnh này;
2. Người đã kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ thi hành án không quá sáu tháng, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục thi hành án khi nhận được quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án hoặc khi có quyết định rút kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị.
Trong trường hợp nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị mà bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người đã kháng nghị biết.
Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền ra quyết định đình chỉ việc thi hành án trong các trường hợp sau đây:
1. Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc nghĩa vụ thi hành án không được chuyển giao cho người thừa kế theo quy định của pháp luật;
2. Người được thi hành án chết mà quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế theo quy định của pháp luật;
3. Người được thi hành án có văn bản từ bỏ quyền và lợi ích mà họ được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
4. Người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật, nghĩa vụ không được chuyển giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;
5. Người phải thi hành án bị Toà án tuyên bố phá sản. Trong trường hợp này, quyền và nghĩa vụ thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản;
6. Có quyết định miễn thi hành án theo quy định tại Điều 32 của Pháp lệnh này;
7. Bản án, quyết định bị Toà án có thẩm quyền huỷ bỏ;
8. Thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết.
Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản án, quyết định cho người được thi hành án trong trường hợp có quyết định đình chỉ việc thi hành án hoặc có căn cứ xác định người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 25 của Pháp lệnh này, kể từ ngày có điều kiện thi hành.
1. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định kết thúc việc thi hành án khi người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định.
2. Việc thi hành án đương nhiên kết thúc khi có quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Khi người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là cá nhân chết hoặc pháp nhân hợp nhất, sáp nhập, giải thể, chia, tách thì quyền và nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định thủ tục thi hành án trong trường hợp chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án.
1. Nếu người phải thi hành án không có tài sản, thu nhập hoặc điều kiện khác để thi hành án thì có thể được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án sau khi hết thời hạn sau đây:
a) Năm năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản án phí không có giá ngạch và tiền phạt trong vụ án hình sự về ma tuý, trừ trường hợp người phải thi hành án là người phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn thì thời hạn áp dụng theo quy định tại điểm b khoản 1 của Điều này;
b) Mười năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản án phí có giá ngạch và khoản tiền phạt khác.
2. Cơ quan thi hành án lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều này xem xét việc miễn, giảm thi hành án. Hồ sơ phải có đơn xin miễn, giảm của người phải thi hành án có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người phải thi hành án cư trú hoặc Thủ trưởng cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án làm việc và biên bản xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án do Chấp hành viên lập.
3. Toà án cùng cấp với Cơ quan thi hành án đã đề nghị việc miễn, giảm thi hành án có thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt.
4. Đối tượng, điều kiện xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt và việc xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt đó do Chính phủ quy định.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải thi hành án hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp không có khả năng thi hành án thì được xem xét hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để bảo đảm thi hành án.
Việc xử lý trách nhiệm vật chất đối với người gây ra thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể việc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước để thi hành án.
1. Các quyết định, giấy báo, giấy triệu tập về thi hành án phải được thông báo cho người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Người được thông báo có nghĩa vụ nhận thông báo và chịu trách nhiệm về việc cố tình không nhận thông báo.
2. Việc thông báo được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
a) Chấp hành viên, cán bộ thi hành án giao trực tiếp các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này cho người được thông báo. Trong trường hợp có khó khăn trong việc giao trực tiếp thì việc thông báo được thực hiện bằng thư bảo đảm qua đường bưu điện.
Nếu người được thông báo vắng mặt thì các giấy tờ về thi hành án được giao cho Thủ trưởng cơ quan nơi người đó công tác hoặc cán bộ tư pháp cấp xã hoặc người thân thích có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cùng sống trong một gia đình nhận thay. Người nhận thay phải cam kết chuyển kịp thời, đúng thời gian quy định đến tận tay cho người được thông báo. Việc giao, nhận thông báo phải được ký xác nhận;
b) Trong trường hợp không thể thực hiện được việc thông báo quy định tại điểm a khoản này thì phải niêm yết công khai bản chính thông báo tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được thông báo và tại nơi ở của người được thông báo nếu xác định được nơi ở cụ thể của người đó.
Việc niêm yết công khai phải được lập biên bản, ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết, nội dung thông báo và người thực hiện niêm yết, có xác nhận của chính quyền địa phương;
c) Trong trường hợp không thể thực hiện việc thông báo theo quy định tại điểm a khoản này hoặc việc niêm yết công khai theo quy định tại điểm b khoản này không có kết quả thì thông báo liên tiếp hai lần trên báo, đài phát thanh hoặc đài truyền hình của trung ương hoặc của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nếu xác định đương sự đang ở tại địa phương đó.
Khi thực hiện việc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan báo, đài phải có văn bản xác nhận đã thực hiện xong việc thông báo và gửi Cơ quan thi hành án để lưu hồ sơ thi hành án.
3. Người có nghĩa vụ thực hiện việc thông báo không làm đúng trách nhiệm của mình thì tuỳ theo mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
4. Các quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Tài sản đã tịch thu là vũ khí, chất nổ, chất phóng xạ, trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá được giao cho cơ quan nhà nước quản lý loại tài sản đó theo quy định của pháp luật.
Đối với tài sản khác, Chấp hành viên giao cho cơ quan tài chính xử lý theo quy định của pháp luật.
1. Việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Vật chứng, tài sản phải tiêu huỷ theo bản án, quyết định của Toà án;
b) Tài sản mà bản án, quyết định tuyên trả cho đương sự, tài sản kê biên, thu giữ bị hư hỏng và không còn giá trị mà đương sự không nhận;
c) Tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 54 của Pháp lệnh này.
2. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải ra quyết định thành lập Hội đồng tiêu huỷ tài sản gồm Chấp hành viên là Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan tài chính cùng cấp là thành viên, đại diện cơ quan chuyên môn tham gia Hội đồng khi xét thấy cần thiết. Viện kiểm sát cùng cấp kiểm sát việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản.
3. Kinh phí cho việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản theo bản án, quyết định của Toà án do ngân sách nhà nước cấp.
Article 18.- Supplying court judgments or decisions
When court judgments or decisions are executed under the provisions in Article 2 of this Ordinance, the courts which have handed down such judgments or decisions shall have to supply the judgment creditors and the judgment debtors with such judgments or decisions, which are inscribed with "for execution."
The courts must explain to the judgment creditors and the judgment debtors the rights and time limits to request the judgment execution as well as the judgment execution obligations as provided for by law.
Article 19.- Sending and explaining court judgments or decisions
1. For the court judgments or decisions prescribed at Points a, b, c and d, Clause 1, Article 2 of this Ordinance, the courts which have handed down such judgments or decisions shall have to send the judgments or decisions to the judgment-executing bodies and the procuracies of the same level with the courts which have conducted the first-instance trial within thirty days as from the date the judgments or decisions take legal effect.
2. For judgments and decisions to be executed under the provisions at Point a, Clause 2, Article 2 of this Ordinance, the courts which have handed down such judgments or decisions shall have to send the judgments or decisions to the judgment-executing bodies and the procuracies of the same level with the courts which have conducted the first-instance trial within ten working days as from the date of issuance of such judgments or decisions.
For decisions on temporary urgent measures, the courts which have issued the decisions shall have to transfer such decisions to the judgment-executing bodies of the same level.
3. When transferring the judgments or decisions, the courts must enclose them with the records on distraint, temporary seizure of material evidences, properties, other relevant documents (if any).
4. In case of receiving the requests of the heads of the judgment-executing bodies for the explanation of the judgments or decisions, within fifteen days as from the date of receiving such requests, the courts which have handed down such judgments or decisions must give their written replies.
Article 20.- Judgment execution fees
The judgment creditors, when filing their written requests for judgment execution, shall have to pay judgment execution fees for the judgment execution parts with value calculated on the property value to be actually received by such persons.
The judgment execution fee level, collection, payment, management, use, exemption and reduction shall be prescribed by the Government.
Article 21.- Competence to issue judgment execution decisions
1. The heads of the provincial-level judgment-executing bodies shall issue decisions on the execution of the following judgments and decisions:
a) The first-instance judgments and decisions of provincial/municipal people's courts;
b) The judgments and decisions which fall under the judgment execution-deciding competence of the heads of the district-level judgment-executing bodies, but, due to their complexity and involvement with many districts, are deemed necessary to take them to the provincial level for execution;
c) The judgments and decisions of the Supreme People's Courts, which are sent to provincial-level judgment-executing bodies;
d) The judgments and decisions entrusted by judgment-executing bodies in other localities;
e) The civil judgments and decisions of foreign courts, awards of foreign arbitration, which have been recognized by Vietnamese courts and permitted for execution in Vietnam;
f) Awards of Vietnam Trade Arbitration.
2. The heads of the military zone-level judgment-executing bodies shall issue decisions on execution of the following judgments and decisions:
a) The decisions on property in criminal cases of the military courts of military zone or equivalent level;
b) The decisions on property in criminal cases of the regional military courts in the geographical areas of the military courts of military zone or equivalent level;
c) The decisions on property in criminal cases of the Central Military Court, which are transferred to military zone- level judgment-executing bodies;
d) The judgments and decisions of the Supreme People's Courts, which are sent to military zone-level judgment-executing bodies;
e) The judgments and decisions entrusted by judgment-executing bodies of other localities.
3. The heads of the district-level judgment-executing bodies shall issue decisions on execution of the following judgments and decisions:
a) The first-instance judgments and decisions of the people's courts of rural districts, urban districts, provincial capitals or towns;
b) The appellate judgments and decisions of the provincial/municipal people's courts;
c) The judgments and decisions of the Supreme People's Court, which are sent to district-level judgment-executing bodies;
d) The judgments and decisions entrusted by judgment-executing bodies of other localities.
Article 22.- Taking initiative in issuing judgment execution decisions
1. The heads of judgment execution bodies shall take initiative in issuing decisions on execution of the following parts of judgments or decisions:
a) The legal costs, court fees, return of advanced legal cost or court fee;
b) Pecuniary fines;
c) Confiscation of property, collection of tax arrears, retrospective collection of illicitly earned money or assets;
d) Handling of seized material evidences, assets;
e) Recovery of land under court decisions;
f) Court decisions on temporary urgent measures.
2. The time limit for issuing a judgment execution decision is five working days as from the date of receiving the judgment or decision; for decisions on temporary urgent measures, the judgment execution decisions must be issued immediately.
Article 23.- Issuing judgment execution decisions at written requests
Except for the cases prescribed in Article 22 of this Ordinance, the heads of judgment-executing bodies shall only issue judgment execution decisions at requests of the judgment creditors or the judgment debtors.
The time limit for issuing a judgment execution decisions is five working days counting from the date of receiving the request for judgment execution.
Article 24.- Entrustment of judgment execution
1. The heads of the judgment-executing bodies with competence to issue judgment execution decisions may entrust the judgment execution to the judgment-executing bodies in the localities where the judgment debtors reside, work, have their property or headquarters.
The time limit for issuing decisions on judgment execution entrustment shall not exceed five working days counting from the date of determining the existence of grounds for entrustment.
2. The Government shall prescribe the judgment execution entrustment.
Article 25.- The statute of limitations for requesting judgment execution
1. Within three years counting from the dates the judgments or decisions take legal effect, the judgment creditors and/or the judgment debtors may request competent judgment-executing bodies to issue decisions on judgment execution.
In cases where the time limits for fulfillment of obligations are fixed in the judgments or decisions of courts, the three year- time limit shall be calculated from the date the obligations turn due.
For judgments and decisions to be executed periodically, the three-year time limit shall apply to each period, counting from the date the obligations turn due.
2. If the judgment execution requesters can prove that due to objective obstacles or force majeure incidents they cannot make the judgment execution requests as scheduled, the duration in which the objective obstacles or force majeure incidents exist shall not be counted into the statute of limitations for requesting the judgment execution.
For cases of postponement or suspension of judgment execution as provided for in Articles 26 and 27 of this Ordinance, the postponement or suspension duration shall not be counted into the statute of limitations for requesting the judgment execution.
3. The heads of the judgment-executing bodies with competence to issue judgment execution decisions shall consider and issue decisions to restore the statute of limitation for requesting the judgment execution. In cases where there are no grounds to restore the statute of limitations for requesting the judgment execution, the heads of the judgment-executing bodies shall issue decisions not to accept the expired judgment execution requests of such persons.
4. The statute of limitations prescribed in Clause 1 of this Article shall not apply to the cases prescribed in Article 22 of this Ordinance, except otherwise provided for by law.
Article 26.- Postponement of judgment execution
1. The heads of the judgment-executing bodies shall issue decisions to postpone judgment execution in the following cases:
a) The judgment debtors get serious ailments or have their residences not yet identified or for other plausible reasons, and cannot fulfill their obligations which, under the judgments or decisions, must be performed by such persons themselves;
b) The judgment creditors agree to let the judgment debtors postpone the execution thereof;
c) The persons who must fulfill the payment of State budget remittances have no property or have property with value not enough for coercive execution of judgments or have property which must not be distrained;
d) There exist disputes over the distrained property as provided for in Clause 5, Article 41 of this Ordinance, which are being processed and settled by courts.
2. The persons competent to protest against court judgments or decisions are entitled to request the postponement of judgment execution once for consideration of protests according to the cassation or reopening procedures. The heads of the judgment-executing bodies must issue decisions to postpone the judgment execution upon the receipt of judgment execution postponement requests of the persons competent to protest.
The time limit for postponement of judgment execution at the requests of the persons competent to protest shall not exceed ninety days as from the date of issuance of the postponement decisions.
3. Within three working days as from the date the judgment execution postponement conditions prescribed in Clause 1 of this Article no longer exist or upon the expiry of the time limit for judgment execution postponement at the requests of the persons competent to protest, if no protests are made, the heads of the judgment-executing bodies must issue decisions to continue the judgment execution.
4. In cases where judgments or decisions have been already executed partially or entirely before the receipt of the judgment execution postponement requests of the persons competent to protest, the heads of the judgment-executing bodies must notify such in writing to the persons competent to protest.
Article 27.- Suspension of judgment execution
The judgment execution shall be suspended in the following cases:
1. The judgment debtors have been given court decisions to open procedures for settlement of requests for bankruptcy declaration. The heads of the judgment-executing bodies shall issue decisions to suspend the judgment execution when the judgment debtors are given court decisions to open procedures for settlement of requests for bankruptcy declaration, except for the execution of money amounts prescribed at Point a, b and c, Clause 1, Article 51 of this Ordinance;
2. The persons who have protested against court judgments or decisions according to cassation or reopening procedures may suspend the execution of such judgments or decisions. The judgment execution suspension time limit shall not exceed six months as from the date of issuance of judgment execution suspension decisions. The heads of the judgment-executing bodies shall issue decisions to resume the judgment execution when receiving the cassation or reopening decisions of courts or decisions of the persons competent to protest to withdraw the protests.
In cases where the judgments or decisions have already been executed partially or entirely before the receipt of judgment execution suspension decisions of the persons competent to protest, the heads of the judgment-executing bodies must notify such in writing to the protesters.
Article 28.- Cessation of judgment execution
The heads of judgment-executing bodies who are competent to issue judgment execution decisions shall have the right to issue decisions to stop the judgment execution in the following cases:
1. The judgment debtors die leaving no legacy or failing to transfer the judgment execution obligations to their heirs according to law provisions;
2. The judgment creditors die while their rights and interests under the judgments or decisions are not transferred to their heirs according to law provisions;
3. The judgment creditors abandon in writing the rights and interests they enjoy under the judgments or decisions, except otherwise provided for by law;
4. The judgment debtors are dissolved agencies or organizations having no more assets while, as provided for by law, their obligations are not transferred to other agencies, organizations or individuals;
5. The judgment debtors have been declared bankrupt. In this case, the judgment execution rights and obligations shall comply with the law provisions on bankruptcy;
6. There are decisions on judgment execution exemption under the provisions in Article 32 of this Ordinance;
7. The judgments or decisions have been cancelled by competent courts;
8. The statute of limitations for requesting the judgment execution has expired.
Article 29.- Return of written requests for judgment execution
The heads of the judgment-executing bodies, who are competent to issue decisions on judgment execution, shall have the right to return the written requests for judgment or decision execution to the judgment creditors in cases where decisions are issued to cease the judgment execution or where there are grounds to confirm that the judgment debtors have no property for judgment execution. When the judgment debtors have conditions to execute the judgments, the judgment creditors may request the execution of judgments or decisions within the time limit prescribed in Clause 1, Article 25 of this Ordinance, as from the date they have conditions to execute them.
Article 30.- Conclusion of judgment execution
1. The heads of the judgment-executing bodies shall issue decisions to conclude the judgment execution when the judgment debtors, the judgment creditors and the persons with relevant rights and obligations have completely performed their rights and obligations under the judgments or decisions.
2. The judgment execution shall automatically end when there are decisions of the heads of competent judgment-executing bodies to stop the judgment execution.
Article 31.- Transfer of rights and obligations to execute judgments
When the judgment debtors, the judgment creditors or the persons with relevant rights and interests die, if they are individuals, or are consolidated, merged, dissolved, divided or separated, if they are legal entities, the rights and obligations to execute the judgments are transferred according to the provisions of law.
The Government shall prescribe the judgment execution procedures in case of transferring the rights and obligations to execute judgments.
Article 32.- Judgment execution exemption or reduction for legal costs, fine amounts
1. If the judgments debtors have no property, incomes or other conditions for judgment execution, they may be considered for exemption or reduction of judgment execution obligations after the following time limits expire:
a) Five years as from the date of issuance of judgment execution decisions for the legal costs without pre-fixed price rates and fine amounts in drug-related criminal cases, except where the judgment debtors are persons who have committed crimes in an organized manner, committed offenses time and again, abused their positions and powers for big illicit incomes, the time limit shall comply with the provisions at Point b, Clause 1 of this Article;
b) Ten years as from the date of issuance of judgment execution decisions for the legal costs with price rate and other fine amounts.
2. The judgment-executing bodies shall compile dossiers, requesting the competent courts prescribed in Clause 3 of this Article to consider the judgment execution exemption or reduction. The dossiers must include the written exemption or reduction applications of the judgment debtors, with certification of the People's Committees of communes, wards or district townships where such persons reside or the heads of the agencies or organizations where such persons work, and the records made by the executors, certifying the judgment execution conditions of the judgment debtors.
3. The courts of the same level with the judgment-executing bodies which have proposed the judgment execution exemption or reduction shall be competent to consider and decide on judgment execution exemption or reduction for the legal costs and fine amounts.
4. The subjects and conditions for consideration of judgment execution exemption or reduction for legal costs and fine amounts and the consideration of judgment execution exemption or reduction for such legal costs and fine amounts shall be prescribed by the Government.
Article 33.- Financial supports for judgment execution
In cases where the agencies and organizations which are compelled to execute the judgments operate with funding totally provided by the State budget are unable to execute the judgments, they shall be considered for supports from the State budget for the judgment execution.
The handling of material liability of the persons who have caused damage shall comply with law provisions.
The Government shall specify the financial supports from the State budget for judgment execution.
Article 34.- Notification on judgment execution
1. Decisions, notices, summons on judgment execution must be notified to the judgment creditors, the judgment debtors and the persons with relevant rights and interests.
The notified persons have the obligations to receive the notices and bear responsibility for their deliberate refusal to receive the notices.
2. The notification shall be made in the following forms:
a) The executors, judgment execution officials directly hand the papers prescribed in Clause 1 of this Article to the notified persons. In cases where it is difficult to make direct delivery, the notification shall be effected with registered mails sent through post offices.
If the notified persons are absent, the papers on judgment execution shall be handed over to the heads of the agencies where such persons work or the commune-level judicial officials or their relatives who have full civil act capacity and live in the same families. The persons who receive the papers on the notified persons' behalf must pledge to hand them in time and within the prescribed time limit to the notified persons. The hand over and receipt of notifications must be signed for certification;
b) In cases where the notification prescribed at Point a of this Clause cannot be effected, the original notifications must be posted up at the offices of the People's Committees of communes, wards or district townships where the notified persons reside or at their residence places if they can be identified.
The posting up must be recorded in writing, with the date of posting up, the notification contents and the up-posters being clearly inscribed, with certification of the local administrations;
c) In cases where the notification prescribed at Point a of this Clause cannot be effected or the posting up prescribed at Point b of this Clause yields no results, the public notice shall be made for two consecutive times on central or provincial/municipal newspapers, radio or television stations if the involved persons are identified as having been in such localities.
When the public notices are made on the mass media, the newspapers, radio or television agencies must send written certifications that such notification have been effected to the judgment-executing bodies for inclusion in the judgment execution files.
3. If the persons who are obliged to make such notification fail to properly fulfill their responsibility, they may, depending on the seriousness of their violations and the consequences thereof, be disciplined, administratively sanctioned or examined for penal liability under law provisions; if causing damage, they must pay compensations therefor.
4. The judgment execution decisions must be sent to the procuracies of the same level.
Article 35.- Handling of confiscated assets
The confiscated assets being weapons, explosives, radioactive substances, military equipment and technical means or objects of historical or cultural relics shall be handed to the State agencies managing such assets according to law provisions.
For other assets, the executors hand them to the finance bodies for handling according to law provisions.
Article 36.- Destruction of material evidences, assets
1. The destruction of material evidences and/or assets shall be carried out in the following cases:
a) The material evidences and/or assets must be destroyed under the court judgments or decisions;
b) The assets which, as declared by such judgments or decisions, must be returned to the involved parties, distrained or seized assets, which are damaged and no longer have value and are not reclaimed by the involved parties;
c) The assets which fall into the cases defined in Clause 4, Article 54 of this Ordinance.
2. The heads of the judgment-executing bodies must issue decisions to set up property destroying council comprising the executor as its president, the representative of the finance body of the same level as its member and representatives of the professional offices, if necessary. The procuracies of the same level shall supervise the destruction of material evidences and assets.
3. Funding for destruction of material evidences and assets under court judgments or decisions shall be provided by the State budget.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực