Chương 2 Nghị định 158/2005/NĐ-CP: Đăng ký hộ tịch
Số hiệu: | 158/2005/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 27/12/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/04/2006 |
Ngày công báo: | 03/01/2006 | Số công báo: | Số 4 |
Lĩnh vực: | Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2016 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh.
2. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh.
3. Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người đang tạm thời nuôi dưỡng hoặc nơi có trụ sở của tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó.
1. Người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn).
Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
Trong trường hợp cán bộ Tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.
2. Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi khai sinh một bản chính Giấy khai sinh. Bản sao Giấy khai sinh được cấp theo yêu cầu của người đi khai sinh.
3. Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Ủy ban nhân dân cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh.
1. Người phát hiện trẻ sơ sinh bị bỏ rơi có trách nhiệm bảo vệ trẻ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn, nơi trẻ bị bỏ rơi để lập biên bản và tìm người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó.
Biên bản phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm phát hiện trẻ bị bỏ rơi; giới tính; đặc điểm nhận dạng; tài sản và các đồ vật khác của trẻ (nếu có); họ, tên, địa chỉ của người phát hiện. Biên bản được lập thành hai bản, một bản lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi lập biên bản, một bản giao cho người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi lập biên bản có trách nhiệm thông báo trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình địa phương để tìm cha, mẹ đẻ của trẻ. Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình có trách nhiệm thông báo miễn phí 3 lần trong 3 ngày liên tiếp các thông tin về trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo cuối cùng, nếu không tìm thấy cha, mẹ đẻ, thì người hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh.
3. Khi đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, họ, tên của trẻ được ghi theo đề nghị của người đi khai sinh; nếu không có cơ sở để xác định ngày sinh và nơi sinh, thì ngày phát hiện trẻ bị bỏ rơi là ngày sinh; nơi sinh là địa phương nơi lập biên bản; quốc tịch của trẻ là quốc tịch Việt Nam. Phần khai về cha, mẹ và dân tộc của trẻ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh được để trống. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “trẻ bị bỏ rơi”. Trong trường hợp có người nhận trẻ làm con nuôi, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch căn cứ vào Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi để ghi tên cha, mẹ nuôi vào phần ghi về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của con nuôi; trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”; nội dung ghi chú này phải được giữ bí mật, chỉ những người có thẩm quyền mới được tìm hiểu.
4. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi không phải là trẻ sơ sinh, thì việc lập biên bản và thông báo tìm cha, mẹ đẻ của trẻ em cũng được thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Khi đăng ký khai sinh, những nội dung liên quan đến khai sinh được ghi theo lời khai của trẻ; nếu trẻ không nhớ được, thì căn cứ vào thể trạng của trẻ để xác định năm sinh, ngày sinh là ngày 01 tháng 01 của năm đó; họ, tên của trẻ được ghi theo đề nghị của người đi khai sinh; quốc tịch của trẻ là quốc tịch Việt Nam; những nội dung không xác định được thì để trống. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ "trẻ bị bỏ rơi".
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, đã cắt hộ khẩu thường trú ở trong nước, thì việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú trước khi xuất cảnh của một trong hai bên nam, nữ.
1. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân.
Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại chương V của Nghị định này.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ.
Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
3. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của vợ, chồng.
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
2. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người chết, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
1. Thời hạn đi khai tử là 15 ngày, kể từ ngày chết.
2. Thân nhân của người chết có trách nhiệm đi khai tử; nếu người chết không có thân nhân, thì chủ nhà hoặc người có trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, nơi người đó cư trú hoặc công tác trước khi chết đi khai tử.
1. Người đi khai tử phải nộp Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay cho Giấy báo tử theo quy định tại Điều 22 của Nghị định này.
2. Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký khai tử và Giấy chứng tử, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi khai tử một bản chính Giấy chứng tử. Bản sao Giấy chứng tử được cấp theo yêu cầu của người đi khai tử.
1. Giấy báo tử phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người chết; giờ, ngày, tháng, năm chết; địa điểm chết và nguyên nhân chết.
2. Thẩm quyền cấp Giấy báo tử:
a) Đối với người chết tại bệnh viện hoặc tại cơ sở y tế, thì Giám đốc bệnh viện hoặc người phụ trách cơ sở y tế đó cấp Giấy báo tử;
b) Đối với người cư trú ở một nơi, nhưng chết ở một nơi khác, ngoài cơ sở y tế, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó chết cấp Giấy báo tử;
c) Đối với người chết là quân nhân tại ngũ, công chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được tập trung làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, thì thủ trưởng đơn vị đó cấp Giấy báo tử;
d) Đối với người chết trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giam hoặc tại nơi tạm giữ, thì Thủ trưởng cơ quan nơi giam, giữ người đó cấp Giấy báo tử;
đ) Đối với người chết tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục do ngành Công an quản lý, thì Thủ trưởng các cơ quan đó cấp Giấy báo tử;
e) Đối với người chết do thi hành án tử hình, thì Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình cấp Giấy báo tử;
g) Trường hợp một người bị Toà án tuyên bố là đã chết, thì quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thay cho Giấy báo tử;
h) Trường hợp người chết có nghi vấn, thì văn bản xác định nguyên nhân chết của cơ quan công an hoặc của cơ quan y tế cấp huyện trở lên thay cho Giấy báo tử;
i) Đối với người chết trên phương tiện giao thông, thì người chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện giao thông phải lập biên bản xác nhận việc chết, có chữ ký của ít nhất hai người cùng đi trên phương tiện giao thông đó. Biên bản xác nhận việc chết thay cho Giấy báo tử;
k) Đối với người chết tại nhà ở nơi cư trú, thì văn bản xác nhận việc chết của người làm chứng thay cho Giấy báo tử.
3. Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay cho Giấy báo tử quy định tại khoản 2 Điều này, được cấp cho thân nhân người chết để đi khai tử. Trong trường hợp người chết không có thân nhân, thì Giấy báo tử được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai tử theo quy định tại Điều 19 của Nghị định này, để Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký khai tử.
Trẻ em sinh ra sống được từ 24 giờ trở lên rồi mới chết cũng phải đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử. Nếu cha, mẹ không đi khai sinh và khai tử, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch tự xác định nội dung để ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử phải ghi rõ "Trẻ chết sơ sinh".
1. Việc đăng ký khai tử cho người bị Toà án tuyên bố là đã chết được thực hiện khi quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải thực hiện việc đăng ký khai tử.
2. Trong trường hợp một người bị Toà án tuyên bố là đã chết, đã đăng ký khai tử, nhưng sau đó còn sống trở về, được Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố chết, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai tử căn cứ vào quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, xoá tên người đó trong Sổ đăng ký khai tử và thu hồi lại Giấy chứng tử đã cấp.
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
2. Trong trường hợp trẻ bị bỏ rơi được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ bị bỏ rơi đăng ký việc nuôi con nuôi; nếu trẻ em đó đã được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng đăng ký việc nuôi con nuôi.
Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi gồm có:
1. Giấy thỏa thuận về việc cho và nhận con nuôi (theo mẫu quy định).
Giấy thỏa thuận về việc cho và nhận con nuôi phải do chính cha, mẹ đẻ và người nhận con nuôi lập, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đẻ đã ly hôn. Trong trường hợp một bên cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì chỉ cần chữ ký của người kia; nếu cả cha và mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì người hoặc tổ chức giám hộ trẻ em thay cha, mẹ đẻ ký Giấy thỏa thuận. Đối với trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng mà không xác định được địa chỉ của cha, mẹ đẻ, thì người đại diện của cơ sở nuôi dưỡng ký Giấy thoả thuận.
Nếu người được nhận làm con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên, thì trong Giấy thỏa thuận phải có ý kiến của người đó về việc đồng ý làm con nuôi, trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong trường hợp người nhận con nuôi không cư trú tại xã, phường, thị trấn, nơi đăng ký việc nuôi con nuôi nói tại khoản 2 Điều 25 của Nghị định này, thì Giấy thỏa thuận về việc cho và nhận con nuôi phải có xác nhận của Ủy ban nhân cấp xã, nơi người nhận con nuôi cư trú về việc người đó có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
2. Bản sao Giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi.
3. Biên bản xác nhận tình trạng trẻ bị bỏ rơi, nếu người được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi.
1. Người nhận con nuôi phải trực tiếp nộp hồ sơ nhận con nuôi cho Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đăng ký việc nuôi con nuôi.
2. Trước khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cán bộ Tư pháp hộ tịch phải kiểm tra, xác minh kỹ các nội dung sau đây:
a) Tính tự nguyện của việc cho và nhận con nuôi;
b) Tư cách của người nhận con nuôi;
c) Mục đích nhận con nuôi.
Thời hạn kiểm tra, xác minh các nội dung trên không quá 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp cần phải xác minh thêm, thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Sau thời hạn nói trên, nếu xét thấy việc cho và nhận con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nuôi con nuôi.
3. Khi đăng ký việc nuôi con nuôi, bên cho, bên nhận con nuôi phải có mặt; nếu người được nhận làm con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên, thì cũng phải có mặt. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi và Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi. Bản sao Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi được cấp theo yêu cầu của các bên cho và nhận con nuôi. Bên cho con nuôi có trách nhiệm giao cho cha, mẹ nuôi bản chính Giấy khai sinh của con nuôi.
1. Trong trường hợp con nuôi là trẻ bị bỏ rơi mà phần khai về cha, mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh còn để trống, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh, căn cứ vào Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi ghi bổ sung các thông tin của cha, mẹ nuôi vào phần khai về cha, mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi, nếu cha mẹ nuôi có yêu cầu. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”.
2. Trong trường hợp giữa cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi có sự thỏa thuận về việc thay đổi phần khai về cha, mẹ từ cha, mẹ đẻ sang cha, mẹ nuôi trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho con nuôi đăng ký khai sinh lại theo những nội dung thay đổi đó. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”. Việc đăng ký khai sinh lại phải được ghi rõ trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh trước đây. Bản chính và bản sao Giấy khai sinh của con nuôi được cấp theo nội dung mới. Giấy khai sinh cũ phải thu hồi.
Việc thay đổi phần khai về cha, mẹ nói tại khoản 2 Điều này phải được sự đồng ý của con nuôi, nếu con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên.
1. Người được cử làm giám hộ phải nộp Giấy cử giám hộ. Giấy cử giám hộ do người cử giám hộ lập; nếu có nhiều người cùng cử một người làm giám hộ, thì tất cả phải cùng ký vào Giấy cử giám hộ.
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc giám hộ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc giám hộ. Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Khi đăng ký việc giám hộ, người cử giám hộ và người được cử làm giám hộ phải có mặt. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký giám hộ và Quyết định công nhận việc giám hộ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người giám hộ và người cử giám hộ mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc giám hộ. Bản sao Quyết định công nhận việc giám hộ được cấp theo yêu cầu của người giám hộ và người cử giám hộ.
Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản riêng, thì người cử giám hộ phải lập danh mục tài sản và ghi rõ tình trạng của tài sản đó, có chữ ký của người cử giám hộ và người được cử làm giám hộ. Danh mục tài sản được lập thành 3 bản, một bản lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đăng ký việc giám hộ, một bản giao cho người giám hộ, một bản giao cho người cử giám hộ.
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký việc giám hộ thực hiện đăng ký chấm dứt việc giám hộ.
2. Người yêu cầu chấm dứt việc giám hộ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định), Quyết định công nhận việc giám hộ đã cấp trước đây và xuất trình các giấy tờ cần thiết để chứng minh đủ điều kiện chấm dứt việc giám hộ theo quy định của Bộ Luật Dân sự.
Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản riêng, đã được lập thành danh mục khi đăng ký giám hộ, thì người yêu cầu chấm dứt việc giám hộ phải nộp danh mục tài sản đó và danh mục tài sản hiện tại của người được giám hộ.
3. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ các giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy yêu cầu chấm dứt việc giám hộ là phù hợp với quy định của pháp luật và không có tranh chấp, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Quyết định công nhận chấm dứt việc giám hộ, đồng thời ghi chú việc chấm dứt giám hộ vào sổ đã đăng ký giám hộ trước đây. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người yêu cầu chấm dứt giám hộ một bản chính Quyết định công nhận chấm dứt việc giám hộ. Bản sao Quyết định công nhận chấm dứt việc giám hộ được cấp theo yêu cầu của đương sự.
4. Trong trường hợp người giám hộ đề nghị được thay đổi giám hộ và có người khác có đủ điều kiện nhận làm giám hộ, thì các bên làm thủ tục đăng ký chấm dứt việc giám hộ cũ và đăng ký việc giám hộ mới theo quy định tại Mục này.
1. Việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại Mục này được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.
2. Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, mẹ theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, mẹ đã chết; nếu việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp.
1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Kèm theo Tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:
a) Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;
b) Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (nếu có).
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
3. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên.
1. Căn cứ vào Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con, Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho người con ghi bổ sung phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con, nếu phần khai về cha, mẹ trước đây để trống.
Trong trường hợp Sổ đăng ký khai sinh đã chuyển lưu 1 quyển tại Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp huyện), thì Ủy ban nhân dân cấp xã thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp huyện để ghi tiếp việc bổ sung.
2. Trong trường hợp phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con đã ghi tên người khác, không phải là cha, mẹ đẻ, thì đương sự phải làm thủ tục cải chính theo quy định tại Mục 7 Chương này.
Phạm vi thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch theo quy định tại Mục này bao gồm:
1. Thay đổi họ, tên, chữ đệm đã được đăng ký đúng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, nhưng cá nhân có yêu cầu thay đổi khi có lý do chính đáng theo quy định của Bộ luật Dân sự.
2. Cải chính những nội dung đã được đăng ký trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, nhưng có sai sót trong khi đăng ký.
3. Xác định lại dân tộc của người con theo dân tộc của người cha hoặc dân tộc của người mẹ theo quy định của Bộ luật Dân sự.
4. Xác định lại giới tính của một người trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
5. Bổ sung những nội dung chưa được đăng ký trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh.
6. Điều chỉnh những nội dung trong sổ đăng ký hộ tịch và các giấy tờ hộ tịch khác, không phải Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh.
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh trước đây có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người dưới 14 tuổi và bổ sung hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi;
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện, mà trong địa hạt của huyện đó đương sự đã đăng ký khai sinh trước đây, có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi.
1. Người yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định), xuất trình bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch và các giấy tờ liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch.
Đối với trường hợp xác định lại giới tính, thì văn bản kết luận của tổ chức y tế đã tiến hành can thiệp để xác định lại giới tính là căn cứ cho việc xác định lại giới tính.
Việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch cho người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự được thực hiện theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Đối với việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ 9 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó.
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch hoặc cán bộ Tư pháp của Phòng Tư pháp ghi vào Sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch và Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký và cấp cho đương sự một bản chính Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của đương sự.
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Nội dung và căn cứ thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính phải được ghi chú vào cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh.
3. Việc bổ sung hộ tịch được giải quyết ngay sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ. Nội dung bổ sung được ghi trực tiếp vào những cột, mục tương ứng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh. Cán bộ Tư pháp hộ tịch đóng dấu vào phần ghi bổ sung. Cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh phải ghi rõ nội dung bổ sung; căn cứ ghi bổ sung; họ, tên, chữ ký của người ghi bổ sung; ngày, tháng, năm bổ sung. Cán bộ Tư pháp hộ tịch đóng dấu vào phần đã ghi bổ sung.
Trong trường hợp nội dung Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh trước đây không có cột mục cần ghi bổ sung, thì nội dung bổ sung được ghi vào mặt sau của bản chính Giấy khai sinh và cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh.
Trong trường hợp việc đăng ký hộ tịch trước đây do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện, nhưng sổ hộ tịch chỉ còn lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc bổ sung.
4. Sau khi việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch đã được ghi vào Sổ đăng ký khai sinh, thì bản sao Giấy khai sinh từ Sổ đăng ký khai sinh sẽ ghi theo nội dung đã thay đổi, cải chính hoặc bổ sung.
5. Trong trường hợp nội dung bản chính Giấy khai sinh của cha, mẹ đã thay đổi do việc thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho người con, căn cứ vào bản chính Giấy khai sinh của cha, mẹ thực hiện việc điều chỉnh nội dung đó trong phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con cho phù hợp; nếu Sổ đăng ký khai sinh đã chuyển lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc điều chỉnh.
1. Khi cá nhân có yêu cầu điều chỉnh nội dung đã được đăng ký trong sổ hộ tịch và các giấy tờ hộ tịch khác, không phải Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký hộ tịch căn cứ vào bản chính Giấy khai sinh để điều chỉnh những nội dung đó cho phù hợp với nội dung tương ứng trong bản chính Giấy khai sinh.
Nếu việc điều chỉnh nội dung của sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch khác không liên quan đến nội dung khai sinh, thì Ủy ban nhân dân cấp xã căn cứ vào những giấy tờ có liên quan do đương sự xuất trình để điều chỉnh.
Trong trường hợp việc đăng ký hộ tịch trước đây do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện, nhưng sổ hộ tịch chỉ còn lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc điều chỉnh.
2. Việc điều chỉnh hộ tịch được giải quyết ngay sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ. Cột ghi chú của sổ đăng ký hộ tịch và mặt sau của bản chính giấy tờ hộ tịch phải ghi rõ nội dung điều chỉnh; căn cứ điều chỉnh; họ, tên, chữ ký của người ghi điều chỉnh; ngày, tháng, năm điều chỉnh. Cán bộ Tư pháp hộ tịch đóng dấu vào phần đã điều chỉnh.
3. Sau khi việc điều chỉnh hộ tịch đã được ghi vào sổ hộ tịch, thì bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch sẽ ghi theo nội dung đã điều chỉnh.
1. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch mà sổ hộ tịch đã chuyển lưu một quyển tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm gửi thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp huyện về những nội dung thay đổi để ghi tiếp vào sổ hộ tịch lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện.
2. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm gửi thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký hộ tịch về những nội dung thay đổi để ghi tiếp vào sổ hộ tịch lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
1. Các thay đổi hộ tịch khác bao gồm: xác định cha, mẹ, con (do Toà án xác định); thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi phải được ghi vào sổ hộ tịch theo quy định tại Mục này.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ra Quyết định liên quan đến các thay đổi hộ tịch khác nói tại khoản 1 Điều này, đồng thời gửi một bản sao Quyết định cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nơi trước đây đã đăng ký sự kiện hộ tịch có liên quan đến việc thay đổi để ghi vào sổ hộ tịch.
1. Việc ghi vào sổ hộ tịch các thay đổi hộ tịch khác được thực hiện như sau:
a) Việc xác định cha, mẹ, con được ghi vào Sổ đăng ký khai sinh trước đây của người con;
b) Việc thay đổi quốc tịch được ghi vào Sổ đăng ký khai sinh trước đây;
c) Việc ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật được ghi vào Sổ đăng ký kết hôn trước đây;
d) Việc chấm dứt nuôi con nuôi được ghi vào Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi trước đây.
2. Khi ghi vào sổ hộ tịch các thay đổi hộ tịch khác phải ghi rõ các nội dung thay đổi; số, ngày, tháng, năm Quyết định; cơ quan ra Quyết định và người ký Quyết định.
3. Trong trường hợp sổ hộ tịch đã chuyển lưu một quyển tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì sau khi thực hiện việc ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm gửi thông báo những nội dung thay đổi cho Ủy ban nhân dân cấp huyện để ghi tiếp vào sổ hộ tịch lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong trường hợp sổ hộ tịch chỉ còn lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác.
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh theo quy định tại Điều 13 của Nghị định này thực hiện việc đăng ký khai sinh quá hạn.
Trong trường hợp người đã thành niên đăng ký khai sinh quá hạn cho mình, thì có thể đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh theo quy định tại Điều 13 của Nghị định này hoặc tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó cư trú.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai tử theo quy định tại Điều 19 của Nghị định này thực hiện việc đăng ký khai tử quá hạn.
1. Người đi đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn phải nộp các giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 15 (nếu là khai sinh) hoặc khoản 1 Điều 21 (nếu là khai tử) của Nghị định này.
2. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký theo từng loại việc và bản chính Giấy khai sinh hoặc Giấy chứng tử. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi đăng ký một bản chính Giấy khai sinh hoặc Giấy chứng tử. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh hoặc Sổ đăng ký khai tử phải ghi rõ “Đăng ký quá hạn."
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn xác minh không quá 5 ngày.
3. Khi đăng ký khai sinh quá hạn cho người đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, mà trong các hồ sơ, giấy tờ đó đã có sự thống nhất về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán, thì đăng ký đúng theo nội dung đó. Trường hợp họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán trong các hồ sơ, giấy tờ nói trên của người đó không thống nhất thì đăng ký theo hồ sơ, giấy tờ được lập đầu tiên. Trong trường hợp địa danh đã có thay đổi, thì phần khai về quê quán được ghi theo địa danh hiện tại.
Phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh được ghi theo thời điểm đăng ký khai sinh quá hạn. Riêng phần ghi về quốc tịch của cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ đã được thôi quốc tịch Việt Nam, đã nhập quốc tịch nước ngoài, thì quốc tịch của cha, mẹ vẫn phải ghi quốc tịch Việt Nam; quốc tịch hiện tại của cha, mẹ được ghi chú vào Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh.
1. Người có yêu cầu đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định).
Trong trường hợp đăng ký lại tại Ủy ban nhân dân cấp xã, không phải nơi đương sự đã đăng ký hộ tịch trước đây, thì Tờ khai phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký hộ tịch về việc đã đăng ký; trừ trường hợp đương sự xuất trình được bản sao giấy tờ hộ tịch đã cấp hợp lệ trước đây.
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ hộ tịch theo từng loại việc và bản chính Giấy khai sinh, Giấy chứng tử, Giấy chứng nhận kết hôn hoặc Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi đăng ký một bản chính giấy tờ hộ tịch theo từng loại việc. Các giấy tờ hộ tịch cũ liên quan đến sự kiện hộ tịch đăng ký lại (nếu có) được thu hồi và lưu hồ sơ. Trong cột ghi chú của sổ hộ tịch và dưới tiêu đề của bản chính giấy tờ hộ tịch phải ghi rõ “Đăng ký lại”.
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
3. Khi đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi, nếu người đi đăng ký lại xuất trình bản sao giấy tờ đã cấp hợp lệ trước đây, thì nội dung khai sinh, khai tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi được ghi theo nội dung của bản sao giấy tờ hộ tịch đó.
Trường hợp đăng ký lại việc sinh cho người không có bản sao Giấy khai sinh đã cấp trước đây, nhưng đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, mà trong các hồ sơ giấy tờ đó đã có sự thống nhất về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán, thì đăng ký đúng theo nội dung đó. Trường hợp họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán trong các hồ sơ, giấy tờ nói trên của người đó không thống nhất thì đăng ký theo hồ sơ, giấy tờ được lập đầu tiên. Trong trường hợp địa danh đã có thay đổi, thì phần khai về quê quán được ghi theo địa danh hiện tại.
Phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh được ghi theo thời điểm đăng ký lại việc sinh. Riêng phần ghi về quốc tịch của cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ đã được thôi quốc tịch Việt Nam, đã nhập quốc tịch nước ngoài, thì quốc tịch của cha, mẹ vẫn phải ghi quốc tịch Việt Nam; quốc tịch hiện tại của cha, mẹ được ghi chú vào Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh.
4. Khi đăng ký lại việc kết hôn, nhận nuôi con nuôi, các bên đương sự phải có mặt. Quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi được công nhận kể từ ngày đã đăng ký kết hôn hoặc đăng ký việc nuôi con nuôi trước đây.
Article 13. Birth registration competence
1. The People's Committees of communes, wards or district townships (hereinafter called the commune-level People's Committees) where the mothers reside shall effect the birth registration for their children; if it is unable to identify the residence places of the mothers, the commune-level People's Committees of the localities where the fathers reside shall effect birth registration.
2. Where the residence places of mothers and fathers are unidentifiable, the commune-level People's Committees of the localities where the children are de facto living shall effect birth registration.
3. The birth registration for abandoned children shall be carried out at the commune-level People’s Committees of the localities where the persons temporarily fostering such children reside or where the organizations temporarily fostering such children are headquartered.
Article 14. Time limit for making birth registration and responsibility to make birth registration
Within 60 days after a child is born, his/her father or mother shall have to make birth registration for his/her child; if the father or mother cannot go to make birth registration, the grand father, grand mother or other next of kin shall go to make birth registration for the child.
Article 15. Procedures for birth registration
1. A birth registration applicant must submit the birth-certifying paper (made according to a set form) and produce the certificate of marriage of the father and mother of the infant (if the father and mother of the infant have registered their marriage).
Birth-certifying papers shall be granted by medical establishments where the infants are born; if infants are born outside medical establishment, birth-certifying papers shall be replaced by written certifications of witnesses. Where witnesses are not available, birth registration applicants must make written pledges that the birth is real.
Where civil status judicial officials are well aware of the marriage between the infants' parents, marriage certificates must not necessarily be produced.
2. After examining all valid papers, civil status judicial officials shall record in the birth registration books and original birth certificates, and the commune-level People's Committee presidents shall sign and grant original birth certificates to the applicants each with one. The duplicates of birth certificates shall be issued at the request of birth registration applicants.
3. In case of registering the birth of an out-of-wedlock infant, if his/her father cannot be identified, the sections for information on father in the birth registration books and birth certificates shall be left blank. If by the time of birth registration, an infant is recognized by some one, the commune-level People's Committee shall handle the child recognition and the birth registration at the same time.
Article 16. Registration of birth for abandoned children
1. Persons who discover abandoned children shall have to protect them and immediately report thereon to the commune-level People's Committees or the police offices of communes, wards or district townships where the children were abandoned for making a record thereon and finding persons or organizations to temporarily foster such children.
Such record must be clearly written with the date and place of discovery of the abandoned child; the child's sex; identification characteristics; property and other belongings (if any); the full names and address of the discoverer. A record shall be made in two copies, one of which to be kept at the commune-level People's Committee which made the record and the other to be handed to the person or organization temporarily fostering the child.
2. The commune-level People's Committees which make the records shall have to make announcements on local radio or television stations in order to find the natural fathers and/or mothers of the children. The radio or television stations shall have to broadcast the information on the abandoned children free of charge three times for three consecutive days. Upon the expiry of the 30-day time limit counting from the date of the last announcement, if the natural fathers and/or mothers are not found, the persons or organizations temporarily fostering the children shall have to make birth registration.
3. Upon registration of birth for abandoned children, the full names of the children shall be recorded at the request of the birth registration applicants; if there are no grounds to identify the birth date and birth place, the date on which the abandoned child was discovered shall be his/her birth date; his/her birth place shall be the locality where the record was made; the child citizenship shall be Vietnamese. The sections for information on father, mother and ethnicity of the child in the birth certificate and birth registration book shall be left blank. In the notes column of the birth registration book, the words "tre em bi bo roi" (child abandoned) must be clearly written. Where child are adopted, civil status judicial officials shall base on the decisions recognizing the child adoption to write the full names of the adoptive fathers and/or mothers in the sections on father and mother in the birth registration books and the birth certificates of the adopted children; in the notes column of the birth registration books, the words "cha, me nuoi" (adoptive father, mother) must be clearly written; such notes must be kept secret and may be inquired into only by competent persons.
4. Where abandoned children are not infants, the record making and announcement to find their natural fathers and/or mothers shall also comply with the provisions of Clauses 1 and 2 of this Article. Upon birth registration, the contents related to birth registration shall be written according to declarations by such children; if the children cannot remember, the children's physical conditions shall serve as a basis for determination of their birth year while the birth day shall be January 1 of that year; the full names of the children shall be written at the request of the birth registration applicants; the children's citizenship shall be Vietnamese; for unidentifiable details, the relevant sections shall be left blank. In the notes column of the birth registration books, the words "tre em bi bo roi" (child abandoned) must be clearly written.
Section 2. MARRIAGE REGISTRATION
Article 17. Competence for marriage registration
1. The commune-level People's Committee of the locality where the male partner or the female partner resides shall register the marriage.
2. Where both the male and female partners are Vietnamese citizens who are working, studying laboring in a foreign country and return home to make their marriage registration but have had their permanent residence registration deleted in household registration books, their marriage registration shall be made at the commune-level People's Committee of the locality where either of them had resided before his/her departure from Vietnam.
Article 18. Marriage registration procedures
1. Upon marriage registration, the male and female partners must submit the declarations (made according to a set form) and produce their people's identity cards.
Where a person resides in one commune, ward or district township but makes marriage registration in another commune, ward or district township, the certification of his/her marital status by the commune-level People's Committee of his/her place of residence is required.
For persons working, studying or laboring in a foreign country and returning home to make their marriage registration, the certification of their marital status by the Vietnamese diplomatic mission or consulate based in the foreign country is required.
For officers and men being in active service in the armed forces, the certification of their marital status shall be made by the heads of their units.
The above-mentioned marital status certification may be made directly on the marriage registration declarations or in the marital status certification papers according to the provisions of Chapter V of this Decree.
A marital status certification shall be valid for 6 months counting from the date of certification.
2. Within 5 days after the full receipt of valid papers, if deeming that the male and female partners fully meet the marriage conditions provided for by the Law on Marriage and Family, commune-level People's Committees shall effect the marriage registration for the couple.
Where verification is required, the above-said time limit may be prolonged for 5 days at most.
3. Upon marriage registration, the presence of the male and female partners is required. The representative of the commune-level People's Committee shall request the two partners state their aspirations for voluntary marriage; if the two partners agree to get married, the civil status judicial official shall write such in the marriage registration book and the marriage certificate. The male and female partners shall sign the marriage certificate and the marriage registration book; the commune-level People's Committee president shall sign and grant the marriage certificate to the couple, each partner with one original, and explain to the two partners the rights and duties of the husband and the wife under the Law on Marriage and Family. The duplicates of marriage certificates shall be issued at the request of husbands and/or wives.
Article 19. Competence for death registration
1. The commune-level People's Committee of the last place of residence of a dead person shall effect death registration.
2. Where the last place of residence of the dead person is unidentifiable, the commune-level People’s Committee of the locality where such person dies shall effect death registration.
Article 20. Time limit for making death registration and responsibility to register death
1. The time limit for making death registration is 15 days counting from the date of death.
2. Relatives of the dead persons shall have to make death registration; if a dead person has no relative, the house owner or the responsible person of the agency, unit, organization or locality where such person worked or resided before death shall have to make death registration.
Article 21. Death registration procedures
1. The death registration applicants must submit the death notices or papers substituting for death notices as provided for in Article 22 of this Decree.
2. After examining all the valid papers, civil status judicial officials shall record in the death registration books and death certificates; commune-level People's Committee presidents shall sign and grant the original death certificates to the death registration applicants, each with one. The duplicates of death certificates shall be issued at the request of death registration applicants.
1. A death notice must clearly state the full name and address of the dead person; the hour, day, month and year of his/her death; the place of death and the cause of his/her death.
2. Competence to issue death notices
a/ For persons who die in hospital or medical establishment, the hospital director or the person in charge of such medical establishment shall issue death notices;
b/ For persons who reside in one place but die in another place, besides the medical establishments, the commune-level People's Committees of the localities where such persons die shall issue death notices;
c/ For dead persons being army men in active service, military employees, reserve army men in the period of concentrated training or combat readiness or combat service inspection and persons rallied to perform military tasks and directly managed by army units, the heads of such units shall issue death notices;
d/ For persons who die in a prison, detention camp, temporary detention camp, temporary detention house or custody house, the head of such detention or custody place shall issue death certificates;
e/ For persons who die in a reformatory education camp managed by the police, the heads of such agency shall issue death notices;
f/ For persons who die due to execution of death sentences, the chairmen of the death sentence execution councils shall issue death notices;
g/ Where a person has been declared dead by the court, the legally effective decision of the court shall replace the death notice;
h/ Where a person dies in doubt, the documents identifying the cause of his/her death issued by the police office or the medical body of the district or higher level shall replace the death notice;
i/ For persons who die on a means of transport, the commander or operator of such means of transport must make a record certifying the death, which is signed by at least two persons also traveling on such means. The record certifying the death shall replace the death notice;
j/ For persons who die at a lodging house, the written certification of their death by witnesses shall replace the death notice.
3. The death notices or papers substituting for death notices specified in Clause 2 of this Article shall be issued to relatives of the dead persons who make death registration. Where a dead person has no relative, death notice shall be addressed to the commune-level People's Committee which is competent to effect death registration under the provisions of Article 19 of this Decree for effecting death registration.
Article 23. Registration of birth and death for dead newborns
Newborns who survive for 24 hours or more before their death must also have their births and deaths registered. If the newborns' parents do not go to make birth registration and death registration, the civil status judicial officials shall themselves determine the contents to be recorded in the birth registration books and the death registration books. In the notes column of the birth registration books and the death registration books, the words "tre chet so sinh" (dead newborn) must be clearly written.
Article 24. Death registration for persons declared dead by the court
1. The registration of death for persons who have been declared dead by the court shall be effected when the court decisions take legal effect.
The persons who request the court to declare a person dead must make death registration.
2. Where a person has been declared dead by the court and his/her death has been registered but later returns alive and the court annuls its death declaration, the commune-level People's Committee with which his/her death was registered shall base itself on the legally effective decision of the court to delete such person's name from the death registration book and recover the issued death certificate.
Section 4. REGISTRATION OF CHILD ADOPTION
Article 25. Competence to register child adoption
1. The commune-level People's Committees of the localities where the child adopters register child adoption.
2. Where abandoned children are adopted, the commune-level People's Committees which have certified in writing the child abandonment shall register the child adoption; if such children have been sent to foster homes, the commune-level People's Committees of the localities where the foster homes are located shall register the child adoption.
Article 26. Dossiers of child adoption registration
A child adoption registration dossier shall consist of:
1. A written agreement on child giving and adoption (made according to a set form).
A written agreement on child giving and adoption must be made by the very natural father and/or mother and the adopter of the child, even in cases where the natural father and mother have divorced. Where a parent has died, lost his/her civil act capacity or has been restricted in his/her act capacity, only the signature of the other parent is required; if both parents have died, lost their civil act capacity or been restricted in their civil act capacity, the person or organization that undertakes child guardianship shall replace the natural parents to sign the written agreement. For children living in foster homes whose natural parents' addresses are unidentifiable, the representatives of the foster homes shall sign the written agreements.
If the adopted children are full 9 years or older, the written agreements must contain their opinion agreeing to be adopted, except where they have lost their civil act capacity or been restricted in their civil act capacity.
In case the adopters reside in communes, wards or district townships where the adoption of children defined in Clause 2, Article 25 of this Decree, is registered, the written agreement on child giving and adoption must contain the certification by the commune-level People's Committees of the localities where the adopters reside that such persons fully satisfy the conditions on child adoption under the provisions of the Law on Marriage and Family.
2. A copy of the birth certificate of the to be-adopted person.
3. The record certifying the child abandonment if the to be- adopted person is an abandoned child.
Article 27. Order of child adoption registration
1. Child adopters must personally file the child adoption dossiers with the commune-level People’s Committees with which child adoption is registered.
2. Before registering a child adoption, civil status judicial officials shall have to carefully examine and verify the following contents:
a/ The voluntariness of child giving and adoption;
b/ The child adopter's capacity;
c/ The purpose of child adoption.
The time limit for examination and verification of the above contents shall not exceed 5 days after the full receipt of valid dossiers. Where it is necessary to make additional verification, such time limit can be prolonged for 5 days at most.
After the above time limit, if deeming that the child giving and adoption fully meets the conditions prescribed by the Law on Marriage and Family, the commune-level People’s Committees shall register the child adoption.
3. Upon registration of child adoption, the presence of the child giver and child adopter is required; if the to be-adopted person is full 9 or older, his/her presence is also required. The civil status judicial official shall record in the child adoption registration book and decide to recognize the child adoption. The commune-level People's Committee president shall sign and grant the decision recognizing the child adoption to the concerned persons, each with one original. The duplicates of decisions on recognition of child adoption shall be issued at the request of the child giver and child adopter. The child giver shall have to hand over to the adoptive parents the original birth certificate of the adopted child.
Article 28. Supplementation, amendment of birth certificates of adopted children
1. Where adopted children are abandoned children and the sections on father and mother in their birth certificates and the birth registration books are still left blank, the commune-level People's Committees with which the birth registration has been made shall base themselves on the decisions recognizing the child adoption to supplement the information on the adoptive father and mother in the sections on father and mother in the adopted children's birth certificates and the birth registration books, if so requested by the adoptive parents. In the notes column of the birth registration books, the words "cha, me nuoi" (adoptive father, mother) must be clearly written.
2. Where the natural and adoptive parents reach agreement to change in the father and mother declaration from natural parents to adoptive parents in the adopted children' birth certificates and the birth registration books, the commune-level People’s Committees with which the adopted children's births are registered shall re-register the births accordingly. In the notes column of the birth registration books, the words "cha, me nuoi" (adoptive father, mother) must be clearly written. The birth re-registration must be clearly written in the notes column of the birth registration books. The originals and duplicates of the birth certificates of adopted children shall be issued with the new contents. The old birth certificates must be recovered.
The changes in the father and mother declaration as stated in Clause 2 of this Article must be consented by the adopted children who are full 9 years or older.
Section 5. REGISTRATION OF GUARDIANSHIP
Article 29. Competence to register guardianship
The commune-level People's Committees of the localities where the guardians reside or the guardianship-undertaking agencies or organizations are headquartered shall register guardianship.
Article 30.- Guardianship registration procedures
1. Persons appointed to be guardians must submit the guardian-appointing papers. The guardian-appointing papers shall be made by the guardian appointers; if many persons appoint a guardian, all of them must sign the guardian-appointing paper.
2. Within 5 days after the full receipt of valid dossiers, if deeming that the guardianship fully meets the conditions set by law, the commune-level People's Committees shall register the guardianship. Where it is necessary to make verification, the above-said time limit may be prolonged for 5 days at most.
Upon registration of guardianship, the presence of the guardian appointers and appointed guardians is required. Civil status judicial officials shall record in the guardianship registration books and decide to recognize the guardianship, and the commune-level People’s Committee presidents shall sign and grant the guardianship-recognizing decisions to the guardian appointers and appointed guardians, each with an original thereof. The duplicates of guardianship-recognizing decisions shall be issued at the request of guardians and guardian appointers.
Where a ward has his/her own properties, the guardian appointer must make a list of such properties, clearly stating their conditions, which must be signed by the guardian appointer and the appointed guardian. Such list shall be made in 3 copies, one of which to be archived at the commune-level People's Committee with which the guardianship is registered, one to be handed to the guardian and one to the guardian appointer.
Article 31. Registration of guardianship termination or change
1. The commune-level People's Committees with which the guardianship has been registered shall register guardianship termination.
2. The guardianship termination requesters must submit the declaration (made according to a set form), the granted guardianship-recognizing decision and produce necessary papers to prove the full satisfaction of the conditions on guardianship termination as provided for in the Civil Code.
Where a ward has personal properties, which have been listed upon registration of guardianship, the person requesting guardianship termination must submit a list of such properties and a list of existing properties of the ward.
3. Within 5 days after the full receipt of valid papers, if deeming that guardianship termination request is compliant with the provisions of law and free from disputes, the civil status judicial official shall fill in the decision recognizing the guardianship termination, and also write notes on the guardianship termination in the guardianship registration book. The commune-level People's Committee president shall sign and grant the guardianship termination requesters the guardianship termination-recognizing decision, each with one original thereof. The duplicates of guardianship termination-recognizing decisions shall be issued at the request of the involved persons.
4. Where a guardian proposes the change of guardian and there is another person who fully meets the guardianship conditions, the involved parties shall carry out the procedures to register the termination of the old guardianship and register the new guardianship under the provisions in this Section.
Section 6. REGISTRATION OF RECOGNITION OF FATHER, MOTHER, CHILD
Article 32. Conditions for registration of recognition of father, mother, child
1. The recognition of father, mother, child under the provisions of this Section shall be effected if the persons recognizing and recognized as father, mother or child is still alive at the time of registration of recognition of father, mother, child and the recognition of father, mother, child is voluntary and dispute-free.
2. Adult children or guardians of minor children or of adult children who have lost their civil act capacity may carry out procedures for recognition of father, mother according to the provisions of this Section, in cases where fathers, mothers have died and the recognition of father, mother, child is voluntary and dispute-free.
Article 33. Competence to register the recognition of father, mother, child
The commune-level People's Committees of localities where the persons recognizing or recognized as fathers, mothers, children reside shall register recognition of father, mother, child.
Article 34. Procedures for registration of recognition of father, mother, child
1. The father, mother or child recognizers must submit their declarations (made according to a set form). Where the fathers or mothers recognize their minor children, the consent of the current fathers or mothers of such children is required, except where such persons have died, lost their civil act capacity or been restricted in their civil act capacity.
Together with the declarations, the following papers must be produced:
a/ The birth certificates (originals or duplicates) of the children;
b/ Papers, objects or other evidence proving the father-child or mother-child relations (if any).
2. Within 5 days after the full receipt of valid dossiers, if deeming that the recognition of father, mother, child is true and dispute-free, the commune-level People's Committees shall register the recognition of father, mother, child.
In cases where it is necessary to make verification, the above-said time limit may be prolonged for 5 days at most.
3. Upon registration of recognition of father, mother, child, the presence of the fathers, mothers, children is required, except for cases where the persons recognized to be fathers or mothers have died. Civil status judicial officials shall record in the father, mother, child recognition registration books and fill in the decisions on recognition of father, mother, child. Commune-level People's Committee presidents shall sign and grant the decisions on recognition of father, mother, child to the persons concerned, each with one original. The duplicates of the decisions shall be issued at the request of the parties.
Article 35. Supplementation, correction of birth registration books and birth certificates of children
1. Based on the decisions on recognition of father, mother, child, the commune-level People's Committees of the localities where the children’ births were registered shall fill in the sections for information on father, mother in the birth registration books and the originals of the children's birth certificates, if such sections remain blank.
Where duplicates of the birth registration book have been transferred for archival at the People's Committees of rural districts, urban districts, provincial capitals or towns (hereinafter called the district-level People's Committees), the commune-level People's Committees shall notify such to the district-level People's Committees for similar fill in.
2. Where the sections for information on father, mother in the birth registration books and the originals of the children's birth certificates have been written with the names of persons other than the natural fathers, mothers, the involved persons shall have to carry out the procedures for correction according to the provisions of Section 7 of this Chapter.
Section 7. CHANGES IN, CORRECTION OF CIVIL STATUS, RE-DETERMINATION OF ETHNICITY, RE-DETERMINATION OF GENDER, SUPPLEMENTS TO CIVIL STATUS, ADJUSTMENT OF CIVIL STATUS
Article 36. The scope of changing, correcting civil status, re-determining the ethnicity, re-determining the gender, supplementing civil status, adjusting civil status
The scope of changing, correcting civil status, re-determining the ethnicity, re-determining the gender, supplementing civil status, adjusting civil status under the provisions of this Section shall cover:
1. Changes in family names, given names, middle names, which have been correctly registered in birth registration books and the original birth certificates but are requested for changes by individuals with plausible reasons under the provisions of the Civil Code.
2. Correction of contents already registered in birth registration books and original birth certificates but containing errors upon registration.
3. Re-determination of ethnicity of children according to the ethnicity of their fathers or the ethnicity of their mothers under the provisions of the Civil Code.
4. Re-determination of the gender of a person in cases where the gender of such person has an inborn deformity or has not yet been properly formed, thus needing a medical intervention to clearly determine the gender.
5. Addition of contents not yet registered in birth registration books and original birth certificates.
6. Adjustment of contents in household registration books and other civil status papers other than birth registration books and original birth certificates.
Article 37. Competence to change, correct civil status, re-determine ethnicity, re-determine gender, supplement civil status
1. The commune-level People's Committees which have issued birth certificates shall be competent to change or correct civil status for persons of under 14 years old and supplement civil status for all people regardless of their ages.
2. The district-level People's Committees of the localities where the involved people previously registered their births shall be competent to change or correct civil status for persons of full 14 years or older, to re-determine ethnicity, re-determine gender, supplement civil status, adjust civil status for all people regardless of their ages.
Article 38. Procedures for registration of civil status change and correction, ethnicity re-determination, gender re-determination, civil status supplementation
1. Persons who request civil status change or correction, ethnicity re-determination, gender re-determination and/or civil status supplementation must submit their declarations (made according to a set form), produce the original birth certificates of the persons who need the civil status change or correction, ethnicity re-determination, gender re-determination or civil status supplementation, and relevant papers for use as bases for civil status change or correction, ethnicity re-determination, gender re-determination or civil status supplementation.
For the case of gender re-determination, the written conclusions of the medical establishments which have conducted medical intervention to re-determine gender shall serve as a basis for gender re-determination.
The civil status change and correction, ethnicity re-determination, gender re-determination or civil status supplementation for minors or persons losing their civil act capacity shall be made at the request of their fathers, mothers or guardians.
For changes in family names, given names of persons of full 9 years or older and ethnicity re-determination for minors of full 15 years or older, their consent is required.
2. Within 5 days after the full receipt of valid dossiers, if the civil status change or correction, ethnicity re-determination or gender re-determination satisfies the law-prescribed conditions, civil status judicial officials or judicial officials of Justice Sections shall record such in the civil status change, correction registration books and the decisions permitting the civil status change or correction, ethnicity re-determination or gender re-determination. The presidents of commune-level People's Committees or district-level People's Committees shall sign and grant the decisions permitting the civil status change or correction, ethnicity re-determination or gender re-determination to the persons concerned, each with one original. The duplicates of such decisions shall be issued at the request of the persons concerned.
Where it is necessary to make verification, the above-said time limit may be prolonged for 5 days at most.
The contents of and grounds for civil status change or correction, ethnicity re-determination or gender re-determination must be written in the notes column of the birth registration books and on the back of the original birth certificates.
3. The civil status supplementation shall be effected immediately after the full receipt of valid papers. The supplemented contents shall be written directly in the corresponding column and section in the birth registration books and the original birth certificates. Civil status judicial officials shall affix stamps on the supplements. The notes column of the birth registration books and the back of the original birth certificates must be written clearly with the supplemented contents; the grounds for writing of supplements; the full name and signature of the supplement writer; and the date of supplementation. Civil status judicial officials shall affix stamps on the written supplements.
Where the birth registration books and the original birth certificates do not contain a column or section for writing supplements, the supplemented contents shall be written on the back of the original birth certificates and the notes column of the birth registration books.
Where the civil status registration was made by commune-level People's Committees, but the civil status books have been kept only at district-level People's Committees, such district-level People's Committees shall effect the supplementation.
4. After the civil status change or correction, ethnicity re-determination, gender re-determination or civil status supplements has been recorded in birth registration books, the birth certificate duplicates issued based on such birth registration books shall be written with the changed, corrected or supplemented contents.
5. Where the contents of the original birth certificates of the fathers, mothers have changed due to civil status change, correction, supplementation, ethnicity re-determination, the commune-level People's Committees with which birth registration has been made for their children shall base themselves on the original birth certificates of the fathers, mothers to make suitable adjustment to such contents in the section on father, mother declaration in the birth registration books and the children's birth certificates; if the birth registration books have been transferred to district-level People's Committees for archival, such district-level People's Committees shall make the adjustment.
Article 39. Adjustment to contents in civil status books and other civil status papers
1. When individuals request adjustment to contents already registered in the civil status books and civil status papers other than birth registration books and original birth certificates, commune-level People's Committees with which the civil status registration has been made shall base themselves on the original birth certificates to adjust such contents to suit the corresponding contents in the original birth certificates.
If the adjustment to contents of civil status books and other civil status papers is not related to birth registration contents, commune-level People's Committees shall base themselves on the relevant papers produced by the involved people to make the adjustment.
Where the civil status registration was made by commune-level People's Committees but the civil status books have been kept only at district-level People's Committees, such district-level People's Committees shall make the adjustment.
2. Civil status adjustment shall be made immediately after the full receipt of valid papers. The notes column of civil status registration books and the back of the original civil status papers must be written clearly with the adjusted contents; the grounds for adjustment; the full name and signature of the adjustment writer; and the date of adjustment. Civil status judicial officials shall affix stamps on the adjustment.
3. After the civil status adjustments have been recorded in the civil status books, the civil status paper duplicates issued based on the civil status books shall be written with the adjusted contents.
Article 40. Notification on and recording in civil status books of civil status change or corrections, ethnicity re-determination, civil status supplements, civil status adjustment
1. Where commune-level People's Committees effect the civil status changes, corrections, supplements and/or adjustments while the duplicates of the civil status books have been transferred to district-level People's Committees for archival, commune-level People's Committees shall have to send notices to district-level People's Committees on the changed contents for writing similar change or adjustment in such duplicates.
2. Where district-level People's Committees effect the civil status changes, corrections, ethnicity re-determination, civil status supplements or adjustments, they shall have to send notices to commune-level People's Committees with which civil status registration was made on the changed contents for writing similar change or adjustment in the duplicates of the civil status books kept at the commune-level People's Committees.
Section 8. RECORDING OF OTHER CIVIL STATUS CHANGES IN CIVIL STATUS BOOKS
Article 41. Recording of other civil status changes in civil status books
1. Other civil status changes, including determination of father, mother, child (by the court); change of citizenship; divorce; annulment of illegal marriage; termination of child adoption must be recorded in civil status books under the provisions of this Section.
2. Competent state agencies, when issuing decisions on other civil status changes specified in Clause 1 of this Article, shall send copies thereof to competent state agencies with which the civil status events related to the changes were previously registered for recording in the civil status books.
Article 42. Ways of recording other civil status changes in civil status books
1. Other civil status changes shall be recorded in civil status books as follows:
a/ The determination of father, mother, child shall be recorded in the book of previous registration of the child's birth;
b/ The change of citizenship shall be recorded in the book of previous registration of births;
c/ The divorce, annulment of illegal marriage shall be recorded in the book of previous registration of marriage;
d/ The termination of child adoption shall be recorded in the book of previous registration of child adoption.
2. Upon recording of other civil status changes in civil status books, the changed contents, date of issue of decisions, decision-issuing agencies and decision signers must be clearly written.
3. Where duplicates of civil status books were transferred to district-level People's Committees for archival, after recording other civil status changes in the books, commune-level People's Committees shall have to send notices on the changed contents to district-level People's Committees for writing such changes in such duplicates.
Where a civil status book is kept only at a district-level People's Committee, such district-level People's Committee shall record other civil status changes in the book.
Section 9. LATE REGISTRATION, RE-REGISTRATION
Article 43. Late registration of births, deaths
Births and deaths not yet registered under the provisions of Articles 14 and 20 of this Decree must be registered according to late registration procedures.
Article 44. Competence for late registration of births, deaths
1. Commune-level People's Committees competent to effect birth registration under the provisions of Article 13 of this Decree shall effect late registration of births.
Where adults make late registration of their births, they may do so at commune-level People's Committees competent to register births under the provisions of Article 13 of this Decree or at commune-level People's Committees of the localities where they reside.
2. Commune-level People's Committees competent to register deaths under the provisions of Article 19 of this Decree shall effect late registration of deaths.
Article 45. Procedures for late registration of births, deaths
1. The applicants for late registration of births, deaths must submit the papers specified in Clause 1 of Article 15 (for birth registration) or Clause 1 of Article 21 (for death registration) of this Decree.
2. After the full receipt of valid papers, civil status judicial officials shall record in the corresponding registration books such matters and in the birth certificates or death certificates. The commune-level People's Committee presidents shall sign and grant the original birth certificates or death certificates to the applicants, each with one. The notes column of the birth registration books or death registration books must be clearly written with the words "dang ky qua han" (late registration).
Where it is necessary to make verification, the verification time limit shall not exceed 5 days.
4. Upon late registration of births for persons with such personal dossiers and/or papers as household registration books, people's identity cards, school result books, diplomas, curricula vitae, Party member's history books, which are consistent in their family names, given names, middle names; dates of birth; ethnicity; citizenship, native places, registration shall strictly comply with such contents. In case of inconsistency in their family names, given names, middle names, ethnicity, citizenship, native places in the above-said dossiers and papers, registration shall be made in accordance with the dossiers, papers which were made first. In case of changes in geographic names, their native places shall be declared with their current geographic names.
The sections for information on parents in birth certificates and birth registration books shall be written with information at the time of late registration. Particularly, in cases where the father, mother has relinquished the Vietnamese citizenship and obtained foreign citizenship, the section on citizenship of father, mother must still be written with the Vietnamese citizenship; the current citizenship of the father, mother shall be noted in the birth registration book and on the back of the original birth certificate.
Article 46. Re-registration of births, deaths, marriages, child adoptions
Births, deaths, marriages or child adoptions, which have been registered but for which the civil status books and original civil status papers have lost or been unusable damaged can be re-registered.
Article 47. Competence for re-registration of births, deaths, marriages, child adoptions
The commune-level People's Committees of the localities where the involved persons reside or with which the births, deaths, marriages, child adoptions were registered shall effect re-registration.
Article 48. Procedures for re-registration of births, deaths, marriages, child adoptions
1. The applicants for re-registration of births, deaths, marriages or child adoptions must submit their declarations (made according to a set form).
Where re-registration is made at the commune-level People's Committees of the localities other than those where the involved persons previously made their civil status registration, the declarations must be certified by the commune-level People's Committees with which the civil status events were registered, except where the involved persons can produce valid civil status papers issued previously.
2. Within 5 days after the full receipt of valid papers, civil status judicial officials shall record such civil status events in the civil status books and the original birth certificates, death certificates, marriage certificates or child adoption recognition decisions. Commune-level People's Committee presidents shall sign and grant the original civil status papers made based on each civil status event to applicants, each with one. The old civil status papers related to the re-registered civil status events shall be revoked and filed. In the notes column of the civil status books and under the headings of the original civil status papers, the words "dang ky lai" (re-registration) must be clearly written.
Where it is necessary to make verification, the above-said time limit shall be prolonged for 5 days at most.
3. Upon re-registration of births, deaths, marriages or child adoptions, if the applicants therefor produce copies of the valid papers granted previously, the contents of birth, death, marriage or child adoption registration shall be written according to the contents of such copies.
In case of birth re-registration for persons who have no copies of the granted birth certificates but have such personal dossiers and papers as household registration books, people’s identity cards, school result books, diplomas, curricula vitae, Party member's history books, which are consistent in their family names, given names, middle names; dates of birth; ethnicity; citizenship; native places, registration shall comply with such contents. In case of inconsistency in the family names, given names, middle names; dates of birth; ethnicity; citizenship; native places of such persons in the above-said dossiers and papers, registration shall comply with the dossiers, papers which were made first. In case of changes in geographical names, the section on native place shall be written with the current geographical names.
The sections for information on parents in the birth certificates and birth registration books shall be written with the information available at the time of birth re-registration. Particularly, if the father or mother has relinquished the Vietnamese citizenship and obtained foreign citizenship, the section on citizenship of father or mother must still be written with the Vietnamese citizenship; the current citizenship of the father or mother shall be noted in the birth registration book and on the back of the original birth certificate.
4. Upon re-registration of marriages or child adoptions, the presence of the involved persons is required. The marriage relations or relations between adoptive parents and adopted children shall be recognized as from the date of previous registration of marriage or child adoption.