Chương 1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP: Những quy định chung
Số hiệu: | 158/2005/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 27/12/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/04/2006 |
Ngày công báo: | 03/01/2006 | Số công báo: | Số 4 |
Lĩnh vực: | Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2016 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết.
2. Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
a) Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc;
b) Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.
3. Việc đăng ký kết hôn; nhận cha, mẹ, con; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.
Người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đăng ký hộ tịch phải tự giác đăng ký các sự kiện hộ tịch theo quy định của Nghị định này.
Cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm tạo điều kiện thuận tiện để mọi cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.
1. Mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác theo quy định của Nghị định này.
2. Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng thẩm quyền quy định của Nghị định này.
3. Cơ quan quản lý hộ tịch cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo đối với cơ quan quản lý hộ tịch cấp dưới; trường hợp phát hiện thấy sai phạm phải chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
4. Cơ quan đăng ký hộ tịch phải niêm yết công khai, chính xác các quy định về giấy tờ mà người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải xuất trình hoặc nộp khi đăng ký hộ tịch, thời hạn giải quyết và lệ phí đăng ký hộ tịch.
1. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân đó.
2. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người đó.
3. Giấy tờ hộ tịch do Cơ quan đại diện Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam) cấp có giá trị như giấy tờ hộ tịch được cấp ở trong nước.
1. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp, khi sử dụng tại Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Giấy tờ hộ tịch do Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cấp cho công dân nước đó để sử dụng tại Việt Nam được miễn hợp pháp hóa lãnh sự trên cơ sở nguyên tắc có đi, có lại.
2. Giấy tờ hộ tịch quy định tại khoản 1 Điều này bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt, bản dịch phải được công chứng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Công dân Việt Nam có giấy tờ hộ tịch quy định tại khoản 1 Điều này mà về nước thường trú, thì phải làm thủ tục ghi vào sổ hộ tịch theo quy định tại mục 4 chương III của Nghị định này.
1. Trong trường hợp Nghị định này quy định việc làm chứng, thì người làm chứng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và biết rõ sự việc làm chứng.
2. Người làm chứng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của sự việc mà mình làm chứng.
Trong trường hợp Nghị định này quy định thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo nơi cư trú, thì thẩm quyền đăng ký hộ tịch được xác định như sau:
1. Đối với công dân Việt Nam ở trong nước, thì việc đăng ký hộ tịch được thực hiện tại nơi người đó đăng ký hộ khẩu thường trú; nếu không có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, thì việc đăng ký hộ tịch được thực hiện tại nơi người đó đăng ký tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ khẩu.
2. Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, thì việc đăng ký hộ tịch được thực hiện tại nơi người đó đăng ký thường trú; nếu không có nơi đăng ký thường trú, thì việc đăng ký hộ tịch được thực hiện tại nơi người đó đăng ký tạm trú.
Khi đăng ký hộ tịch, nếu cán bộ Tư pháp hộ tịch xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cán bộ Tư pháp hộ tịch) hoặc cán bộ Tư pháp của Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cán bộ Tư pháp của Phòng Tư pháp) hoặc cán bộ hộ tịch của Sở Tư pháp không biết rõ về nhân thân hoặc nơi cư trú của đương sự, thì yêu cầu xuất trình các giấy tờ sau đây để kiểm tra:
1. Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu của người đi đăng ký hộ tịch để xác định về cá nhân người đó;
2. Sổ hộ khẩu, Giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể hoặc Giấy đăng ký tạm trú có thời hạn (đối với công dân Việt Nam ở trong nước); Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú hoặc Chứng nhận tạm trú (đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) để làm căn cứ xác định thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này.
Người có yêu cầu đăng ký hộ tịch (trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký việc nuôi con nuôi, đăng ký giám hộ, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con) hoặc yêu cầu cấp các giấy tờ về hộ tịch mà không có điều kiện trực tiếp đến cơ quan đăng ký hộ tịch, thì có thể uỷ quyền cho người khác làm thay. Việc uỷ quyền phải bằng văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực hợp lệ.
Nếu người được uỷ quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người uỷ quyền, thì không cần phải có văn bản uỷ quyền.
Cơ quan đăng ký hộ tịch được thu lệ phí theo quy định của pháp luật, trong đó đã bao gồm cả chi phí cho giấy tờ, biểu mẫu hộ tịch.
Mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hộ tịch do Bộ Tài chính quy định.
Article 1. Civil status and registration of civil status
1. Civil status means fundamental events determining the personal status of a person from the time he/she is born to the time he/she dies.
2. Civil status registration under the provisions of this Decree means that competent state agencies:
a/ Certify the events of birth; marriage; death; child adoption; guardianship; recognition of father, mother, child; change, correction, supplement, adjustment of civil status; re-determination of gender; re-determination of ethnicity;
b/ Based on decisions of competent state agencies, write in civil status books the events of determination of father, mother, child; change of citizenship; divorce; annulment of illegal marriage; termination of child adoption.
3. The registration of marriage; the recognition of father, mother, child; and the child adoption which involve foreign elements shall comply with the Government's Decree No. 68/2002/ND-CP of July 10, 2002, detailing the implementation of a number of articles of the Law on Marriage and Family regarding marriage and family relations involving foreign elements.
Article 2. Purposes of civil status management
Civil status management is an important and regular task of the administration at all levels, aiming to monitor the actual situation of and changes in civil status and, on that basis, to protect the legitimate rights and interests of individuals and families, at the same time contribute to formulating economic, social, security, defense, population and family planning policies.
Article 3. Right and obligation to register civil status
Individuals shall have the right and obligation to make civil status registration
Persons responsible for performing civil status registration must voluntarily register civil status events in accordance with the provisions of this Decree.
Civil status registration offices shall have to create favorable conditions for every individual to exercise his/her right and perform his/her obligation to make civil status registration.
Article 4. Principles on civil status registration and management
1. All civil status events must be registered fully, promptly and accurately in accordance with the provisions of this Decree.
2. Each civil status event can be registered only at one place strictly according to the competence provided for in this Decree.
3. Superior civil status management offices must regularly examine, urge, guide and direct their subordinates; if detecting violations, they must rectify and handle them in time.
4. Civil status registration offices must post up publicly and accurately the regulations on papers to be produced or submitted by civil status registration applicants for civil status registration, on the time limit for settlement and civil status registration fees.
Article 5. Legal validity of civil status papers
1. Civil status papers granted to individuals by competent state agencies under the provisions of law on civil status shall serve as legal bases for certification of civil status events of such individuals.
2. The birth certificate is an original civil status paper of each individual. All files and papers of individuals written with their family names, given names, middle names; dates of birth; gender, ethnicity; citizenship; native places; parental, offspring relations must be compatible with the birth certificates of such persons.
3. Civil status papers granted by overseas-based diplomatic missions, consular offices of Vietnam (hereinafter referred to as Vietnamese diplomatic missions and consulates) shall have the same validity as civil status papers granted domestically.
Article 6. Use of civil status papers issued by competent foreign bodies
1. Civil status papers issued by competent foreign bodies must be consular legalized when they are used in Vietnam, except otherwise provided for by treaties to which the Socialist Republic of Vietnam is a party.
Civil status papers issued by Vietnam-based foreign diplomatic missions or consulates to their citizens for use in Vietnam shall be exempt from consular legalization on the basis of reciprocity.
2. Civil status papers specified in Clause 1 of this Article in foreign languages must be translated into Vietnamese and the translations must be notarized according to the provisions of Vietnamese law.
3. Vietnamese citizens who possess civil status papers specified in Clause 1 of this Article and return to the country for permanent residence shall have to carry out the procedures for recording in civil status books according to the provisions in Section 4, Chapter III of this Decree.
1. In cases where this Decree provides for testimonies, witnesses must have full civil act capacity and clearly know the facts they testify to.
2. Witnesses must bear responsibility before law for the accuracy of the facts they have testified to.
Article 8. Determination of the competence for civil status registration
Where this Decree provides the civil status registration competence according to residence places, the civil status registration competence shall be determined as follows:
1. For Vietnamese citizens living in the country, civil status registration shall be made at the places where they register their permanent residence in household registration books; in case of non-availability of such places of permanent residence registration, civil status registration shall be made at the places where they register their temporary residence for a definite period according to the provisions of law on household registration.
2. For foreigners residing in Vietnam, civil status registration shall be made at the places where they register their permanent residence; in case of non-availability of such places of permanent residence registration, civil status registration shall be made at the places where such persons register their temporary residence.
Article 9. Personal papers to be produced upon civil status registration
Upon civil status registration, if civil status judicial officials of communes, wards or district townships (hereinafter called civil status judicial officials) or judicial officials of Justice Sections of rural districts, urban districts, provincial capitals or towns (hereinafter called judicial officials of Justice Sections) or civil status officials of provincial/municipal Justice Services do not know clearly about the personal identities or residence places of the persons concerned, they shall request the latter to produce the following papers for examination:
1. People’s identity cards or passports of the civil status registration applicants in order to identify such individuals;
2. Household registration books, written certifications of collective residence registration or temporary residence registration papers (for Vietnamese citizens living in the country); permanent residence cards, temporary residence cards or certificates (for foreigners residing in Vietnam) for use as grounds to determine the civil status registration competence under the provisions of this Decree.
Persons who request civil status registration (except for marriage registration, child adoption registration, guardianship registration, registration of recognition of father, mother or child) or apply for civil status papers but have no conditions to personally go to civil status registration offices may authorize other persons to do such things for them. Authorization must be made in writing and notarized or lawfully authenticated.
If the authorized persons are the grandfathers, grandmothers, fathers, mothers, children, spouses or siblings of the authorizing persons, letters of authorization are not required.
Article 11. Application of treaties
In cases where treaties to which the Socialist Republic of Vietnam is a party contain provisions different from those of this Decree, the provisions of such treaties shall apply.
Article 12. Civil status registration fees
Civil status registration offices shall be entitled to collect fees according to the provisions of law which are inclusive of expenses for civil status papers and forms.
The levels, collection, remittance and use of civil status registration fee shall be prescribed by the Finance Ministry.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực