Chương 14 Luật hàng hải 1990: Tổn thất chung
Số hiệu: | 42-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 30/06/1990 | Ngày hiệu lực: | 01/01/1991 |
Ngày công báo: | 31/08/1990 | Số công báo: | Từ số 15 đến số 16 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Giao thông - Vận tải | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2006 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1- Tổn thất chung bao gồm những hy sinh hoặc chi phí bất thường được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì sự an toàn chung nhằm cứu tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển hoặc tiền công vận chuyển hành khách thoát khỏi hiểm hoạ chung.
2- Tổn thất là hậu quả trực tiếp của hành động gây ra tổn thất chung mới được tính vào tổn thất chung. Tổn thất gián tiếp liên quan đến hành động gây ra tổn thất chung như tổn thất do lưu tầu hoặc do chênh lệch giá đều không được tính vào tổn thất chung.
3- Chi phí đặc biệt vượt quá mức cần thiết chỉ được tính vào tổn thất chung trong giới hạn hợp lý đối với từng trường hợp cụ thể.
1- Tổn thất chung được phân bổ theo một tỉ lệ tương ứng với giá trị của tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển, tiền công vận chuyển hành khách ở nơi và thời điểm mà tầu ghé vào lánh nạn sau khi xảy ra tổn thất chung.
2- Các quy định tại khoản 1, Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hiểm hoạ chung phát sinh do lỗi của người cùng có lợi ích trong tổn thất chung hoặc của người thứ ba.
3- Tổn thất chung cũng được phân bổ ngay cả khi đã phải hy sinh tầu hoặc toàn bộ hàng hoá mà không đạt được hiệu quả mong muốn.
4- Việc phân bổ tổn thất chung không loại trừ quyền của người liên quan đòi người có lỗi phải bồi thường cho mình.
Tổn thất của số hàng hoá được bốc lậu lên tầu hoặc khai sai về chủng loại và giá trị không được tính vào tổn thất chung; nếu hàng hoá đó cũng được cứu thoát khỏi hiểm hoạ chung, thì cũng phải chịu một giá trị phân bổ tương ứng.
Mọi tổn thất về tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển không được tính vào tổn thất chung theo các nguyên tắc trên đây, được gọi là tổn thất riêng. Người bị thiệt hại không được bồi thường, nếu không chứng minh được tổn thất xảy ra do lỗi của người khác.
1- Việc xác định tổn thất chung, giá trị tổn thất và phân bổ tổn thất chung do các chuyên viên phân bổ tổn thất chung thực hiện theo yêu cầu và chỉ định của chủ tầu.
2- Chủ tầu có nghĩa vụ chỉ định chuyên viên phân bổ tổn thất chung của mình chậm nhất là sau ba mươi ngày, kể từ ngày tầu ghé vào nơi lánh nạn, sau khi xảy ra tổn thất chung. Sau thời hạn đó mà chủ tầu chưa chỉ định được, thì bất cứ ai trong số những người liên quan cũng có quyền chỉ định chuyên viên phân bổ tổn thất chung.
3- Các nguyên tắc dùng để xác định cụ thể giá trị tổn thất và giá trị phân bổ tổn thất chung do các bên thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp không có thoả thuận trước trong hợp đồng, thì chuyên viên phân bổ tổn thất chung căn cứ vào tập quán quốc tế để giải quyết.
Thời hiệu khiếu nại về tổn thất chung là hai năm, tính từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời hiệu này tạm dừng khi các chuyên viên phân bổ tổn thất chung bắt đầu tiến hành hoạt động xác định tổn thất chung và tiếp tục được tính từ ngày hoạt động đó chấm dứt.
Hội đồng bộ trưởng ban hành Quy chế về chuyên viên phân bổ tổn thất chung.
1. General average comprises extraordinary sacrifices or expenditure intentionally and reasonably made or incurred for the common safety for the purpose of preserving from a common peril the vessel, the cargo, the freight or the passage money for the carriage of passengers.
2. Only such losses which are the direct consequence of the general average act are allowed as general average. Indirect losses whatsoever, such as losses resulting from the vessels detention or difference in prices are not be admitted as general average.
3. Any extra expense in excess of necessary expenses which would have been allowable as general average is allowed as general average, but only upto the amount of reasonable expenditure depending on each specific case.
1. General average losses are apportioned over the vessel, the cargo, the freight and the passage money for the carriage of passengers upon the basis of their actual values at the place and time where and when the vessel shall have entered for refuge after the general average occurrence.
2. General average losses are apportioned according to item 1 of this Article even though the common peril which has given rise to the extraordinary sacrifice or expenditure has been due to the fault of any party to the general average or a third party.
3. Apportionment of general average losses is also carried out even where the sacrifice has involved the vessel or the whole cargo but not brought about the intended result.
4. The apportionment of general average losses does not deprive any party in the general average from the right to recourse against the party through whose fault the loss has arisen.
Any loss of or damage to the cargo loaded on board without the permission of the shiponwer or wrongly declared as to its kind and value are not allowed as general average; however, such cargo, if saved from the peril, contributes to general average in accordance with general principles.
Any damages to or losses of the vessel, the cargo or the freight which are not allowed as general average are particular averages. They are borne by the suffering party unless he proves that the other party is responsible for their occurrence.
1. Establishing whether there is a general average, the assessment of the amount of general average losses and also their apportioned is carried out by the average adjusters on the order of the shipowner.
2. The order should be given by the shipowner to the average adjuster immediately, but not later than within thirty days after the date when the vessel have entered the place for refuge after the general average occurrence. In the event of delay on the part of the shipowner, any party involved in the general average has the right to appoint the average adjuster.
3. Principles applying for a detailed adjustment of the loss value and contribution value are agreed by parties. In the absence of the agreement of parties, the average adjuster shall carry out according to international customs.
Any claim arising from the general average is barred at the expiration of two years from the date of the general average occurrence. The operation of time limit is interrupted by the commencement of adjustment proceedings. The time limit continues to operate anew from the date of the termination of such proceedings.
The Council of Ministers shall promulgate a Statute on average adjusters.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực