Muốn làm thằng Cuội - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 8

VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 8 về Tác giả tác phẩm Muốn làm thằng Cuội gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Muốn làm thằng Cuội như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:

1 3193 lượt xem
Tải về


Muốn làm thằng Cuội - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 8

I. Tác giả văn bản Muốn làm thằng Cuội

- Tản Đà (1889- 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu

- Quê quán: làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây( nay là huyện Ba Vì, Hà Nội)

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

   + Tản Đà xuất thân là một nhà nho

   + Vì mấy lần đi thi không đỗ nên ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ rồi sớm nổi tiếng, nhất là những năm 20 của thế kỉ XX.

   + Ngoài viết thơ Tản Đà còn nổi tiếng với nhiều bài văn xuôi, tản văn, tùy bút, tự truyện…

   + Những tác phẩm tiêu biểu: Giấc mộng con, Thề non nước, Khối tình con…

- Phong cách sáng tác:

   + Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc, thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam

Bài giảng Ngữ Văn 8 Muốn làm thằng cuội

II. Nội dung văn bản Muốn làm thằng Cuội

Bài thơ: Muốn làm thằng Cuội (Tản Đà): nội dung, dàn ý, giá trị, tác giả - Tác giả tác phẩm (mới 2022) | Ngữ văn lớp 8

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

1. Bố cục tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

- Hai câu đề: Cuộc sống trần gian nhàm chán, buồn tẻ.

- Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả.

- Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại.

- Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc.

2. Nội dung chính tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

Muốn làm thằng Cuội là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ tài hoa lãng mạn, đậm chất ngông của Tản Đà. Giọng thơ nhẹ nhàng, chơi vơi, thanh thoát như một lời tâm sự của một con người bất hòa với thực tại, chán ghét cảnh trần thế, khát khao được sống trong sạch hơn, thanh cao hơn, để mãi giữ chọn thiên lương cao đẹp.

3. Tóm tắt tác phẩm Muốn làm thằng cuội

Tóm tắt tác phẩm Muốn làm thằng cuội (mẫu 1)

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.

Tóm tắt tác phẩm Muốn làm thằng cuội (mẫu 2)

Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc. Thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" in trong tập "Khối tình con I" xuất bản năm 1917 là sự sáng tạo, mới mẻ với hình thức thất ngôn bát cú đường luật cổ điển, giọng thơ hóm hỉnh, pha một chút ngông. Qua đó, tác phẩm thể hiện tâm sự của con người bất hòa sâu sắc với thực tại, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng, bầu bạn với chị Hằng để thoát khỏi những thứ tầm thường ấy. 

Tóm tắt tác phẩm Muốn làm thằng cuội (mẫu 3)

Bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" được ra đời vào năm 1916 in trong tập Khối tình con (1916). Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng nó chịu ảnh hưởng của phong cách thơ ông, thể thơ dù dưới hình thức là thơ cổ nhưng có những dấu hiệu mới mẻ, khác của cảm xúc. Đó là lời tâm sự của tác giả ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ được giảm nhẹ đi phần nào tính trang trọng, nghiêm luật như trước. Trong ngôn từ cũng vậy sự giản dị cùng với khẩu ngữ tự nhiên đã làm nên cái sáng tạo, cái hay và nét riêng độc đáo cho bài thơ. Bài thơ tuy ngông nhưng vẫn mang giọng điệu nhẹ nhàng, pha thêm chút hóm hỉnh lãng mạn và cả thêm sự phóng túng ở bài thơ.

4. Phương thức biểu đạt

- Tác phẩm Muốn làm thằng cuội sử dụng phương thức biểu đạt: Biểu cảm

5. Thể thơ

- Tác phẩm Muốn làm thằng cuội thuộc thể thơ: Thất ngôn bát cú

6. Giá trị nội dung tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

Bài thơ là một lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

Sức hấp dẫn của bài thơ là ở hồn thơ lãng mạng pha chút ngông nghênh đáng yêu và ở những tìm tòi đổi mới, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển.

IV. Dàn ý tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

I. Mở bài

- Khái quát về tác giả Tản Đà: Một tác giả như một dấu gạch nối giao thời giữa thơ cũ và thơ Mới

- Giới thiệu chung về bài thơ Muốn làm thằng Cuội: bài thơ là tâm sự của tác giả về thực tại

II. Thân bài

1. Hai câu đầu

- “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!”: lời cảm thán gợi không gian: Đêm thu, trăng sáng

- Nhà thơ bộc lộ trực tiếp suy tư của bản thân về trần thế: “buồn lắm”, “Trần thế em nay chán nửa rồi”: Lí do là vì cõi trần lắm bon chen, bất công, đất nước mất độc lập, tự do, thân phận nô lệ.

- “Chán nửa”: trong sâu thẳm vẫn tha thiết yêu cuộc sống

- Xưng hô: chị- em (nhún nhường mà bất trị- ngông)

⇒ Biểu cảm trực tiếp, giọng thơ như lời than thở nhấn mạnh tâm trạng buồn sầu da diết, không nguôi, niềm bất hoà sâu sắc với xã hội

2. Bốn câu giữa

- Bày tỏ mong muốn thoát li lên cung Quế (cung trăng) - nơi đẹp đẽ, thanh cao trong sáng - ở cạnh chị Hằng - người đẹp .

⇒ Ước muốn rất ngông

- Niềm mong muốn được vui trong cảnh bầu bạn, thả hồn cùng mây gió

⇒ Đó chỉ là niềm vui gượng, vui nhạt vì nó chỉ có trong mộng tưởng.

3. Hai câu kết

- Cảnh: thi sĩ mãi mãi ở trên cung trăng cùng chị Hằng, đêm rằm trung thu tháng 8 thi sĩ kề vai chị Hằng trông xuống thế gian cười

⇒ Hình ảnh bất ngờ, thi vị thể hiện cao độ hồn thơ ngông của Tản Đà.

- Thi sĩ thoả mãn vì đã đạt được khát vọng, thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn được cõi trần bụi bặm

- “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” : sự mỉa mai khinh bỉ cõi trần gian

⇒ Khao khát sự đổi thay XH theo hướng tốt đẹp, thoả mãn nhu cầu sống cá nhân.

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: Với Lời lẽ giản dị, trong sáng, giọng điệu nhẹ nhàng hóm hỉnh, sức tưởng tượng phong phú, bài thơ là lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường mà xấu xa

- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân

V. Một số đề văn bài Muốn làm thằng Cuội

Đề bài: Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" của Tản Đà.

Phân tích Tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội - mẫu 1

   Vầng trăng làm cảm hứng vô tận của thi ca. Vẻ đẹp trong sáng dịu dàng của trăng đem lại cho ta những cảm xúc, những ước vọng về một thế giới đẹp đẽ, thanh cao. Có lẽ Tản Đà là thi sĩ thể hiện sâu sắc nhất khát vọng ấy trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội. Theo Hoài Thanh, đó là nốt nhạc đầu tiên của khát vọng lãng mạn, khơi nguồn cho những sáng tạo của phong trào "Thơ mới" sau này. Đọc bài thơ, ta có dịp tìm hiểu tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ:

Đêm thu bun lm ch Hng ơi!
Trn thế em nay chán na ri.
Cung quế đã ai ngi đó cha?
Cành đa xin ch nhc lên chơi.
Có bu có bn, can chi ti,
Cùng gió cùng mây, thế mi vui.
Ri c mi năm rm tháng tám,
Ta nhau trông xung thế gian cười.

   Tản Đà sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhiều luồng văn hóa tư tưởng khác nhau dần hình thành. Tản Đà và những hoạt động văn chương của ông lúc bấy giờ có một vai trò nhất định trên văn đàn công khai. Thơ văn Tản Đà có nhiều tác phẩm thấm đượm tinh thần yêu nước, những lo âu trăn trở về non sông, vũ trụ, nhân sinh... có tác động tích cực tới xã hội lúc bây giờ. Nhưng cái lớn nhất mà Tản Đà để lại trong thơ văn chính là bản sắc thi sĩ, cái tôi của nhà thơ. Tản Đà đã khẳng định vai trò của cá nhân, của chủ thể con người trong sáng tạo văn học nghệ thuật bằng tác phẩm và lối sống của mình. Điều đó, trước Tản Đà, trong văn học Việt Nam chưa hề có, chính là cái mà người đời gọi, cũng như Tản Đà tự nhận là ngông.

   Theo lời tự thuật của Tản Đà trong cuốn Giấc mộng lớn thì hai câu mở đầu bàỉ thơ Muốn làm thằng Cuội in ở đầu Khối tình con là mãi đến sau này mới làm ra, nhưng cái cảm tưởng thực đã phát từ sau mối tình đầu tiên của ông với một cô gái ở phố Hàng Bồ - Hà Nội. Nhưng gần chục năm sau, qua nhiều từng trải hiểu biết về cuộc đời, Tản Đà mới thấm thía cái thân phận Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo của mình. Cái ước vọng muốn làm thằng Cuội mới hình thành rõ nét trong ông. Trong cái xã hội coi trọng đồng tiền và địa vị thì tài năng cũng như những tình cảm chân thật không đủ đem lại hạnh phúc cho con người. Tâm sự buồn bã dở dang chán nửa rồi của ông đã bật lên thành những lời thở than, nhắn gửi trước hết lên vầng trăng, người bạn muôn đời của những kẻ cô đơn giữa đêm thu:

Đêm thu bun lm ch Hng ơi!
Trn thế em nay chán na ri.

   Lời tâm sự chân thật, hóm hỉnh ấy, ai có thể làm ngơ hay trách cứ? Hơn thế nữa, Tản Đà vốn tự nhận mình là nhà thơ đã có dịp lên "hầu trời". Cho nên nhà thơ có quyền thân mật như thế đấy với chị Hằng! Thi sĩ còn ướm hỏi có ai trên cung quế chưa? Thật là một câu hỏi khéo làm duyên thường gặp trong văn học dân gian: hỏi trăng, tâm sự cùng trăng...

   Đã hỏi khéo rồi mới nói xin chị nhắc lên chơi:

Cung quế đã ai ngi đó cha?
Cành đa xin ch nhc lên chơi.

   Cách lên trăng rất lạ, được nhắc lên như một đứa trẻ - thằng Cuội mà! Và lên trăng rồi vẫn chỉ là một đứa trẻ, làm bầu làm bạn vui cùng mây gió với chị Hằng, ở hai câu đầu, cảnh và tình là nỗi buồn chán, lời là lời than. Đến những câu sau, nỗi chán cánh trần thế chỉ còn gián tiếp qua việc miêu tả cái vui thích trên cung trăng:

Có bu có bn, can chi ti,
Cùng gió cùng mây, thế mi vui.

   Đó chính là thế giới mà Tản Đà mơ ước, là cõi đời trong sáng thanh khiết. Tản Đà muốn làm thằng Cuội vì chán đời, ước mơ chị Hằng nhắc lên mặt trăng chơi, nói là chơi mà là muốn ở đó lâu dài. Tuy nhiên bài thơ không có giọng điệu buồn chán nặng nề về cuộc đời tràn thế, tức là hoàn toàn không phải là tâm sự bế tắc chán nản cuộc đời không lối thoát. Ước vọng ấy còn thể hiện cáitình của ông đối với trăng, là cái lãng mạn của tâm hồn thi nhân khao khát vượt ra khỏi cuộc đời hữu hạn và chật hẹp. Do vậy, nhà thơ muốn xa lánh trần gian mãi mãi, muốn ở một nơi thật xa mà nhìn về, để thấy được cảnh trần thế, thấy cảnh sống khổ đau, chật hẹp, đầy cát bụi.

   Ước vọng thoát li thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình: muốn ngồi trên cung trăng nhìn xuống mà cười chế nhạo thế gian. Đặc biệt, trong tưởng tượng, khi đã thoát tục rồi nhà thơ càng thấy rõ cái chật hẹp bé nhỏ của cõi đời và nguyện được làm tiên mãi mãi để:

Ri c mi năm rm tháng tám,
Ta nhau trông xung thế gian cười.

   Cười cho tất cả những giành giật, lo toan bé nhỏ của kiếp người trần gian, cười sung sướng vì khắp dưới cõi trần kia không ai được biết, được hưởng một cuộc sống thần tiên thoát tục như mình. Đó là niềm vui, là hạnh phúc tinh thần riêng mà Tản Đà tự tạo cho mình trong cõi mộng. Cũng như trong cuộc đời thực, ông thường tìm cho mình những vui thú thanh cao khi dạo chơi các miền đất nước, trong những mối tình tri kỉ với bạn bè khắp nơi. Con người ấy không hề bi quan mà biết làm giàu cho đời sống tinh thần của mình.

   Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà thể hiện tâm trạng buồn chán của nhân vật trữ tình, gợi cho ta những nỗi niềm nghĩ suy man mác, một nỗi buồn trong sáng. Trong bao nhiêu tác phẩm thi ca viết về trăng, bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà vẫn tồn tại mãi với dấu ấn riêng biệt của một tâm hồn thi sĩ, một tâm hồn Việt Nam lãng mạn và tha thiết với trần gian, trần gian thanh cao của ước mơ!

Đề bài: Phân tích cái Ngông của Tản Đà qua bài thơ "Muốn làm thằng Cuội".

Phân tích cái Ngông của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội - mẫu 1

Tản Đà (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu là một người đa tài ông làm thơ, làm văn và còn là một nhà viết kịch nổi tiếng của nước ta. Sở dĩ ông lấy bút danh là Tản Đà cũng là vì ông là một người yêu quê hương đất nước, ông muốn bút danh của mình gắn liền với quê hương, Tản Đà có nghĩa là sự gắn kết giữa núi Tản Viên và sông Đà của quê hương ông.

Ông nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa sáng tạo trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông viết những bài thơ lãng mạn với những ý tưởng rất ngông, đậm chất phóng khoáng, cá tính mạnh mẽ, ông cũng được đánh giá là người chuẩn bị cho sự nghiệp ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối liền giữa hai thời kì văn học cổ điển và hiện đại". Thơ ông chủ yếu mang đậm màu sắc "ngông" tiêu biểu là bài thơ "Muốn làm thằng Cuội".

Bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" được ra đời vào năm 1916 in trong tập Khối tình con (1916). Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng nó chịu ảnh hưởng của phong cách thơ ông, thể thơ dù dưới hình thức là thơ cổ nhưng có những dấu hiệu mới mẻ, khác của cảm xúc.

Đó là lời tâm sự của tác giả ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ được giảm nhẹ đi phần nào tính trang trọng, nghiêm luật như trước. Trong ngôn từ cũng vậy sự giản dị cùng với khẩu ngữ tự nhiên đã làm nên cái sáng tạo, cái hay và nét riêng độc đáo cho bài thơ. Bài thơ tuy ngông nhưng vẫn mang giọng điệu nhẹ nhàng, pha thêm chút hóm hỉnh lãng mạn và cả thêm sự phóng túng ở bài thơ.

Ta bắt gặp một giọng điệu suồng sã ở ngay nhan đề của bài thơ, nói lêm cái ý muốn khác người, hay đó là một giấc mơ kì thú, có thêm phần ngông và tất nhiên có cả lãng mạn. Tác giả muốn làm thằng Cuội có nghĩa là muốn thoát khỏi thế giới trần tục và lên ở cùng cõi tiên.

Làm người thì họ muốn có những ước mơ như sống trong vinh hoa, hưởng lạc trọn đời nhưng còn tác giả tại sao ông lại muốn lên trời sống cũng trăng, sao? Ngay ở phần nhan đề chúng ta đã thấy rất riêng và hấp dẫn thì có lẽ nội dung của tác phẩm còn thú vị hơn nữa. Ở hai câu thơ đầu:

"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi"

Lời thơ tuôn ra như một lời than thở, buồn chán muốn được tâm sự cùng ai đó của một người trần thế. Ta bắt gặp hai đại từ nhân xưng "chị", "em" tác giả tự nhận mình là em nghe rất thân mật gần gũi như đã quen từ lâu, thật êm tai. Đến bốn câu tiếp theo đó là lời ước nguyện:

"Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Có bầu, có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Ở bốn câu thơ này nếu xét về bố cục và đối xứng Đường thi thì đã phạm luật, không đúng với nội dung của hai câu thực, hai câu thực vốn là tả thực còn hai câu luận (suy luận và mở rộng), từ cặp câu chưa đối nhau trong ngôn từ và ngữ nghĩa. Nhưng ta vẫn thấy cái hay của bài thơ, từ ngữ sáng tạo, ngôn ngữ thơ phát triển tự nhiên ta thấy sự cách tân trong bài thơ này của Tản Đà.

Bốn câu thơ này nói về ước nguyện của tác giả và cầu xin ước mơ độc đáo của ông trở thành hiện thực. Đầu tiên ông hỏi dò xem đã có ai ở trên cung trăng hay là chưa. Sau đó ông tiếp cầu xin ngỏ lời muốn chị Hằng đưa mình lên cành đa chơi. Những hình ảnh trong thơ như "cung quế", "cành đa", đó là những nơi chỉ người tiên mới ở được và chỉ có ở trong tưởng tượng của người Việt ta hay thường nhắc tới câu chuyện cây đa chú cuội.

Ý thơ như là tác giả đang chìm đắm trong một giấc mơ đẹp. Và ở hai câu luận tác giả đã được thỏa lòng mong muốn của mình khi được bầu bạn với mây gió và cùng nhau chơi đùa trên cung trăng, thỏa lòng mong muốn "thế mới vui" như là tác giả đã quên đi hết nỗi buồn ở trần gian và được vui ở chốn tiên cảnh. Câu thơ mang cảm giảm hóm hỉnh, tinh nghịch khiến cho người đọc có cảm giác như đang phiêu lưu trên cung trăng cùng tác giả. Ở hai câu kết còn có sự bất ngờ vô cùng lớn:

"Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cười".

Trung thu là đêm hạnh phúc của mỗi gia đình, gia đình sum họp ngoài trời cùng nhau ngắm trăng, trăng đêm trung thu là sáng nhất mọi người cùng nhau vui vẻ trò chuyện. Vậy mà nhà thơ lại khác, nhà thơ đang ngồi trên cung trăng, tựa lưng vào chị Hằng rồi cùng nhau trông xuống thế gian, ngắm nơi trần thế mọi người đang vui vẻ nhưng tại sao nhà thơ lại cười, là tại vì ông vui nên cười hay còn ngụ ý khác?

Đúng vậy nhà thơ cười là đang cười chế giễu vì nhà thơ đang ở tầm cao nên có thể thấy hết mọi chuyện đáng cười, đang khinh ở trên đời, cũng có thể nhà thơ đang tự cười mình có cái ý tưởng ngông nghênh khác đời.

Qua bài thơ "Muốn làm thằng cuội" ta thấy rõ cái ngông của ông trong đó, và cũng thấy được nỗi chán ghét nơi trần thế của ông, ông muốn bỏ nơi đó thật xa, ông muốn được lên ở cõi tiên, ông du dương trong giấc mơ, tưởng tượng của mình để được lên trời cao làm bạn với mây gió. Ta cũng thấy được sự cách tân Đường thi ở bài này, ông đã góp một phần quan trọng trong giai đoạn cách tân đổi mới thơ ca hiện đại Việt Nam.

Phân tích cái Ngông của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội - mẫu 2

Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.

Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ... thật là thành thực!

Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú - cũng là một kiểu nói ngông. Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,

Trần thế em nay chán nửa rồi!

Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thằng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành.

Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên.

Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ - Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo - Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"... Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán.

Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.

Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nếu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:

Có bầu có bạn, cùng tri kỷ

Cùng gió cùng mây, thế mới vui.

Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm".

Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.

Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đây chưa", "xin chị nhắc lên chơi", "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị - em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.

Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 8 hay, chi tiết khác:

Cô bé bán diêm

Đánh nhau với cối xay gió (trích Đôn Ki-hô-tê)

Chiếc lá cuối cùng (trích)

Hai cây phong (trích Người thầy đầu tiên)

Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000

1 3193 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: