Hệ thống kiến thức Lịch sử lớp 9 Giữa học kì 2

Hệ thống kiến thức Lịch sử lớp 9 Giữa học kì 2 chi tiết giúp học sinh ôn luyện để đạt điểm cao trong bài thi Lịch sử 9 Giữa học kì 2. Mời các bạn cùng đón xem:

1 1291 lượt xem


Hệ thống kiến thức Lịch sử lớp 9 Giữa học kì 2

CHỦ ĐỀ 1: Việt Nam trong những năm 1919-1930

III. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài (1919 - 1925).

1. Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917 - 1923).

- Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp gửi tới Hội nghị Véc-xai bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam.

- Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn toàn tin theo Lê-nin và đứng về Quốc tế thứ ba.

- Tháng 12 - 1920, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và tham gia sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước: đó là con đường CM vô sản, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

- Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Hội liên hiệp Thuộc địa. Năm 1922, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Người cùng khổ, viết bài cho các báo Nhân đạo, viết Bản án chế độ thực dân Pháp. Các sách báo trên được bí mật chuyển về Việt Nam.

2. Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923 - 1924).

- Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó ở lại Liên Xô vừa học tập nghiên cứu vừa làm việc (viết bài cho báo Sự thật và tạp chí Thư tín Quốc tế). 

- Năm 1924, tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Nguyễn Ái Quốc đã đọc tham luận về Nhiệm vụ cách mạng ở các nước thuộc địa và mối quan hệ giữa cách mạng ở các nước thuộc địa với phong trào công nhân ở các nước đế quốc.

- Những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận được dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là bước chuẩn bị về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam.

3. Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924 - 1925).

- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thanh niên yêu nước mới sang để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mà nòng cốt là tổ chức Cộng sản đoàn (6 - 1925).

- Người đã lập ra báo Thanh niên, trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo cán bộ cách mạng. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã được tập hợp và in thành sách Đường Kách mệnh (1927), nêu ra phương hướng cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.

- Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tiến hành “vô sản hóa”, góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

IV. Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

1. Bước phát triển mới của phong trào cách mạng Việt Nam (1926 - 1927).

- Trong hai năm 1926 - 1927, nhiều cuộc bãi công của công nhân liên tiếp nổ ra như các cuộc bãi công của nhà máy sợi Nam Định, đồn điền cao su Cam Tiêm và Phú Riềng,...

- Phong trào mang tính thống nhất trong toàn quốc và mang tính chính trị, có sự liên kết với nhau ở nhiều ngành, nhiều địa phương. Tình hình đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân đã nâng lên.

- Phong trào nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác phát triển thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước, nhiều tổ chức cách mạng lần lượt ra đời.

2. Tân Việt Cách mạng Đảng (7 - 1928).

* Hội Phục Việt sau nhiều lần đổi tên, đến tháng 7 - 1928, lấy tên là Tân Việt Cách mạng Đảng. Thành phần của đảng chủ yếu là những trí thức trẻ và thanh niên tiểu tư sản yêu nước. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Trung Kì.

* Hoạt động:

- Khi mới thành lập, mới là một tổ chức yêu nước, chưa có lập trường giai cấp rõ rệt.

- Do ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhiều đảng viên của Tân Việt đã đi theo Hội.

- Nội bộ Tân Việt đã phân hóa thành hai khuynh hướng: khuynh hướng cải lương (đứng trên lập trường quốc gia tư sản) và khuynh hướng vô sản.

- Những đảng viên tích cực nhất của Tân Việt đã họp lại, chuẩn bị thành lập một Đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

3. Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930).

* Việt Nam Quốc dân đảng:

- Bối cảnh ra đời: do sự phát triển mạnh của phong trào dân tộc dân chủ, ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng bên ngoài,... ngày 25 - 12 - 1927, Việt Nam Quốc dân đảng ra đời do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Phó Đức Chính sáng lập trên cơ sở hạt nhân ban đầu là Nam Đồng thư xã; có ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc với chủ nghĩa “Tam dân” của Tôn Trung Sơn...

- Những điểm chính về chính trị, tư tưởng và tổ chức: đây là một chính đảng chính trị theo xu hướng cách mạng dân tộc, dân chủ tư sản; mục tiêu của đảng là đánh đuổi thực dân Pháp, thiết lập dân quyền; tổ chức chưa thành hệ thống, ít cơ sở quần chúng, thành phần phức tạp (tư sản, học sinh, sinh viên, công chức, thân hào, binh lính, hạ sĩ quan,...), dễ bị kẻ thù lợi dụng.

* Khởi nghĩa Yên Bái:

- Bị động trước tình thế thực dân Pháp tiến hành khủng bố sau vụ mưu sát Ba-danh, mặc dù bị tổn thất nặng, nhưng những người chủ chốt còn lại đã quyết định khởi nghĩa với khẩu hiệu: “Không thành công thì cũng thành nhân”.

- Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái đêm 9 - 2 - 1930, sau đó là Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội, nhưng nhanh chóng bị thất bại. Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông bị Pháp xử chém...

- Nguyên nhân thất bại: do thực dân Pháp còn mạnh, bản thân Việt Nam Quốc dân đảng còn non kém về chính trị, tổ chức; cuộc khởi nghĩa lại nổ ra trong tình thế bị động...

- Ý nghĩa: Cổ vũ lòng yêu nước và ý chí căm thù của nhân dân ta với bè lũ cướp nước và tay sai...

4. Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929.

* Hoàn cảnh: Cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc, dân chủ ở nước ta, đặc biệt là phong trào công nhân đi theo con đường cách mạng vô sản phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu phải có một chính đảng của giai cấp vô sản để lãnh đạo cách mạng.

* Quá trình ra đời:

- Trong nội bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phân biệt thành hai tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng thành lập  ở Bắc Kì (tháng 6 - 1929), An Nam Cộng sản đảng thành lập ở Nam Kì (tháng 8 - 1929).

- Bộ phận tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng đã thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 9 - 1929).

* Ý nghĩa lịch sử: Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong vòng chưa đầy 4 tháng, chứng tỏ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc, chứng tỏ các điều kiện thành lập đảng cộng sản ở Việt Nam đã chín muồi. 

CHỦ ĐỀ 2: VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1930 - 1939.

I. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

1. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3 - 2 - 1930).

* Hoàn cảnh lịch sử:

- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ phát triển. Trước sự phát triển của phong trào, đế quốc, phong kiến và bọn tay sai đã điên cuồng đàn áp.

- Ba tổ chức cộng sản ra đời song lại hoạt động riêng rẽ, công kích, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, không có lợi cho phong trào cách mạng.

- Yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam là phải có một chính đảng thống nhất trong cả nước. Quốc tế Cộng sản đã ủy nhiệm cho Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội nghị đã họp từ (ngày 6 tháng 1 năm 1930  đến ngày 8 tháng 2 năm 1930), tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc).

* Nội dung Hội nghị:

- Hội nghị đã tán thành việc thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Thông qua Chính cương , Sách lược và Điều lệ (vắn tắt) của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Nội dung của chính cương, sách lược vắn tắt: (Đó là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam.. Mang tính chất dân tộc và giai cấp sâu sắc).

- Nguyễn Ái Quốc đã ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Ngày 24 - 2 - 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cũng gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, ba tổ chức cộng sản đã hợp nhất thành một đảng duy nhất.

* Ý nghĩa của Hội nghị thành lập Đảng:

- Hội nghị có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng.( Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã quyết định lấy ngày 3 - 2 hằng năm làm ngày kỉ niệm thành lập Đảng).

- Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đường lối cơ bản cho cách mạng Việt Nam.

2. Luận cương chính trị (10/1930)

* Hội nghị lần thứ nhất BCH TW Đảng họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) tháng 10 - 1930, đã quyết định:

- Đổi tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương.

- Bầu Ban Chấp hành TW chính thức và cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.

- Thông qua Luận cương chính trị do Trần Phú khởi thảo..

* Nội dung cơ bản của Luận cương:

- Khẳng định tính chất của CM Đông Dương lúc đầu là một cuộc CM tư sản dân quyền, sau đó bỏ qua thời kì TBCN mà tiến thẳng lên con đường XHCN.

- Nhiệm vụ của cách mạng TSDQ: Đánh đổ ĐQ và PK, hai nhiệm vụ này quan hệ khăng khít với nhau.

- Động lực chính của CM: Vô sản và nông dân, trong đó giai cấp vô sản lãnh đạo.

- Vị trí CM VN: Quan hệ mật thiết với CMTG.

- Phương pháp đấu tranh: Đảng phải coi trọng việc vận động tập hợp lực lượng đa số quần chúng,...phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa nhất là vô sản Pháp. Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của CMVN là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng:

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở VN; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN.

- Là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo cách mạng.

- Từ đây cách mạng Việt Nam đã trở thành bộ phận của cách mạng thế giới.

- Là sự chuẩn bị có tính tất yếu, quyết định những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng VN.

II. Phong trào cách mạng trong những năm 1930 - 1931.

1. Việt Nam trong thời kì khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933).

* Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm (1929 - 1933) là cuộc khủng hoảng thừa, từ các nước tư bản lan nhanh sang các nước thuộc địa và phụ thuộc. Việt Nam là thuộc địa của Pháp, kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Pháp nên chịu nhiều hậu quả nặng nề:

- Về kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp đều bị suy sụp, xuất nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm,...

- Về xã hội: đời sống mọi giai cấp, tầng lớp đều bị ảnh hưởng. Đã thế còn phải gánh chịu hậu quả của thiên tai như: lụt lội, hạn hán, mất mùa...

- Thực dân pháp còn đẩy mạnh khủng bố, đàn áp, tăng thuế,... làm cho tinh thần cách mạng của nhân dân ta càng lên cao.

2. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh.

* Nửa đầu năm 1930, phong trào đấu tranh của nhân dân ta đã nổ ra mạnh mẽ khắp cả nước. Tiêu biểu là ngày 1 - 5 - 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân và nông dân cả nước đã tổ chức kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động dưới nhiều hình thức để biểu dương lực lượng và tỏ rõ sự đoàn kết với vô sản thế giới.

* Phong trào nổ ra mạnh mẽ nhất ở Nghệ - Tĩnh:

- Tháng 9 - 1930, phong trào công - nông đã phát triển dến đỉnh cao với những cuộc đấu tranh quyết liệt như: tuần hành thị uy, biểu tình có vũ trang tự vệ, tấn công cơ quan chính quyền địch.

- Chính quyền của đế quốc, phong kiến ở nhiều huyện bị tê liệt, nhiều xã tan rã. Các Ban Chấp hành Nông hội xã do các Chi bộ Đảng lãnh đạo đứng ra quản lí mọi mặt đời sống chính trị xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ của chính quyền nhân dân theo hình thức Xô viết. Lần đầu tiên, nhân dân ta thực sự nắm chính quyền ở một số huyện thuộc hai tỉnh Nghệ - Tĩnh.

- Chính quyền cách mạng đã kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, bãi bỏ các thứ thuế, thực hiện quyền tự do dân chủ, chia lại ruộng đất,...

- Xô viết Nghệ - Tĩnh diễn ra được 4 - 5 tháng thì bị đế quốc phong kiến tay sai đàn áp. Từ giữa năm 1931, phong trào tạm thời lắng xuống.

* Ý nghĩa lịch sử của phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh:

- Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử nước ta. Lần đầu tiên, liên minh công nông được thiết lập để chống đế quốc, phong kiến và đã giáng một đòn mạnh mẽ vào nền thống trị của đế quốc phong kiến. Chứng tỏ sức mạnh của công nhân và nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có khả năng đánh đổ chính quyền của thực dân phong kiến, xây dựng xã hội mới.

- Đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng để chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám sau này.

3. Lực lượng cách mạng được phục hồi.

* Khi địch khủng bố, các cơ quan lãnh đạo và các cơ sở của Đảng đã bị phá vỡ.

* Các đảng viên cộng sản và những người yêu nước vẫn tiếp tục đấu tranh để khôi phục và gây dựng lại phong trào:

- Ở trong tù, các đảng viên cộng sản đã kiên cường đấu tranh.

- Những đảng viên ở bên ngoài tìm mọi cách gây dựng lại cơ sở và phong trào quần chúng.

* Tháng 3 - 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc) đưa CMVN sang giai đoạn mới.

III. Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936 - 1939.

1. Tình hình thế giới và trong nước.

* Tình hình thế giới:

- Chủ nghĩa phát xít được thiết lập và lên nắm quyền ở Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản, trở thành mối nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến tranh thế giới mới đe dọa hòa bình và an ninh thế giới.

- Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản (7 - 1935) đề ra những chủ trương mới: thành lập Mặt trận Nhân dân ở các nước nhằm tập trung lực lượng chống phát xít và nguy cơ chiến tranh.

- Ở Pháp, Mặt trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền, ban bố một số chính sách tiến bộ đối với các thuộc địa. Một số tù chính trị ở Việt Nam được thả.

* Trong nước: Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế cùng những chính sách phản động của thực dân Pháp ở thuộc địa đã làm cho đời sống nhân dân ta càng đói khổ, ngột ngạt.

2. Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ.

* Chủ trương của Đảng:

- Xác định kẻ thù trước mắt là bọn phản động Pháp và tay sai.

- Nhiệm vụ là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa, tay sai, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

- Chủ trương thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương, sau đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

- Hình thức đấu tranh: hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai, nửa công khai.

* Diễn biến:

- Phong trào Đông Dương Đại hội (8 - 1936) nhằm thu thập nguyện vọng của quần chúng, tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội.

- Phong trào “đón rước” Phái viên Chính phủ Pháp và Toàn quyền mới, thực chất là biểu dương lực lượng, đưa “dân nguyện”.

- Phong trào đấu tranh của quần chúng với các cuộc bãi công, bãi thị, biểu tình... Tiêu biểu là cuộc mít tinh tại Khu Đấu xảo (Hà Nội) nhân ngày Quốc tế Lao động 1 - 5 - 1938.

- Trong phong trào báo chí công khai, nhiều tờ báo của Đảng và Mặt trận ra đời như Tiền phong, Dân chúng, Lao động,... nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chính sách của Đảng.

* Ý nghĩa của phong trào:

- Qua phong trào, tư tưởng Mác - Lê-nin, đường lối của Đảng được tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng. Các tổ chức Đảng được phát triển, cán bộ cách mạng được rèn luyện.

- Qua phong trào, quần chúng nhân dân được giác ngộ, tập dượt đấu tranh, đội quân chính trị của quần chúng gồm hàng triệu người từ thành thị đến nông thôn được tập hợp.

- Phong trào dân chủ 1936 - 1939 là cuộc tập dượt lần thứ hai cho Cách mạng tháng Tám năm 1945.

CHỦ ĐỀ 3: CUỘC VẬN ĐỘNG TIẾN TỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945.

 I. Việt Nam trong những năm 1939 - 1945.

1. Tình hình thế giới và Đông Dương.

* Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công nước Pháp, Chính phủ tư sản phản động Pháp đầu hàng và làm tay sai cho Đức.

* Ở Viễn Đông, quân phiệt Nhật đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc và cho quân tiến sát biên giới Việt - Trung. Tháng 9 - 1940, Nhật xâm lược Đông Dương.

* Pháp đầu hàng Nhật rồi câu kết với Nhật để cùng áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương:

- Pháp: Thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”; tăng các loại thuế.

- Nhật: Thu mua lương thực (chủ yếu là lúa gạo) theo lối cưỡng bức.

* Dưới hai tầng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật, đời sống của các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân bị đẩy đến tình trạng cực khổ, điêu đứng. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với Pháp - Nhật ngày càng sâu sắc.

2. Những cuộc nổi dậy đầu tiên.

a. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27 - 9 - 1940).

- Quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, quân Pháp thua chạy qua châu Bắc Sơn.

- Đảng bộ Bắc Sơn đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước vũ khí của tàn quân Pháp, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng (27 - 9 - 1940).

- Nhật - Pháp thỏa hiệp với nhau, Pháp tập trung lực lượng đàn áp rất dã man. Lực lượng vũ trang rút vào rừng, bảo toàn lực lượng, thành lập đội du kích Bắc Sơn.

b. Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23 - 11 - 1940).

- Cuộc xung đột Pháp - Xiêm (Thái Lan) nổ ra, thực dân Pháp bắt binh lính Việt Nam đi làm bia đỡ đạn cho chúng, nhân dân và binh lính đã nổi dậy đấu tranh.

- Trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Kì họp, quyết định khởi nghĩa (đêm 22 rạng ngày 23 - 11 - 1940) ở hầu hết các tỉnh của Nam Kì. Ở một số nơi, chính quyền cách mạng được thành lập.

- Thực dân Pháp tập trung lực lượng, dùng nhiều thủ đoạn đàn áp cuộc khởi nghĩa. Cách mạng bị tổn thất nặng nề, nhưng một số cán bộ và nghĩa quân rút vào rừng, chờ thời cơ để hoạt động trở lại.

c. Binh biến Đô Lương (13 - 1 - 1941).

- Binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp (ở Nghệ An) bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho chúng ở biên giới Lào - Thái Lan nên đã nổi dậy đấu tranh.

- Ngày 13 - 1 - 1941, binh lính ở Chợ Rạng nổi dậy chiếm đồn Đô Lương, sau đó kéo về thành Vinh, định phối hợp với binh lính ở đây giết giặc chiếm thành, song kế hoạch không thành công.

- Binh biến Đô Lương nhanh chóng bị thực dân Pháp dập tắt.

* Ý nghĩa của ba sự kiện trên:

- Nêu cao lòng yêu nước, tinh thần anh hùng, bất khuất của nhân dân ta. “Đó là tiếng súng báo hiệu của cuộc khởi nghĩa toàn quốc”.

- Để lại cho Đảng nhiều bài học bổ ích về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, trực tiếp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

II. Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

1. Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941).

a.  Hoàn cảnh lịch sử:

* Hoàn cảnh thế giới:   

-  Phát xít Đức chuẩn bị tiến công Liên Xô.

- Trên thế giới dần hình thành hai trận tuyến, một bên là các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu, một bên là khối phát xít Đức - Ý - Nhật. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta là một bộ phận trong cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ.

* Hoàn cảnh trong nước:

- Nhật vào Đông Dương, Pháp - Nhật câu kết với nhau để áp bức, thống trị nhân dân Đông Dương, vận mệnh của dân tộc đang nguy vong hơn bao giờ hết.

- Ngày 28 - 1 - 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Người đã chủ trì Hội nghị TW lần thứ 8 (từ ngày 10 đến ngày 19 - 5 - 1941) họp tại Pác Bó (Cao Bằng).

- Hội nghị đã chủ trương: trước hết phải giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách Pháp - Nhật. Tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thực hiện khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”. Hội nghị đã thành lập Mặt trận Việt Minh (ngày 19 - 5 - 1941).

b. Hoạt động của Mặt trận Việt Minh.

* Xây dựng lực lượng cách mạng:

- Ở căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai: Các đội du kích đã được thống nhất thành đội Cứu quốc quân và phát động chiến tranh du kích, sau phân tán nhỏ để gây cơ sở trong quần chúng.

- Ở các nơi khác: Đảng tranh thủ tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân như học sinh, sinh viên, trí thức, tư sản dân tộc vào Mặt trận cứu quốc.

- Đảng và Mặt trận Việt Minh đã xuất bản một số tờ báo để tuyên truyền đường lối cách mạng.

* Tiến lên đấu tranh vũ trang:

- Tháng 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa.

- Ngày 22 - 12 - 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập.

- Lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của ta đã phát triển mạnh, hỗ trợ cho nhau, góp phần mở rộng căn cứ địa cách mạng Việt Bắc và thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước.

2. Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

a. Nhật đảo chính Pháp (9 - 3 - 1945).

- Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nước Pháp được giải phóng. Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật bị nguy khốn. Quân Pháp ở Đông Dương cũng ráo riết chuẩn bị, chờ thời cơ để giành lại địa vị thống trị cũ. Tình thế trên buộc Nhật phải tiến hành đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương.

- Đêm 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính pháp trên toàn Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng.

b. Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

* Ngay khi Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ TW Đảng đã họp và ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định kẻ thù chính, cụ thể của dân tộc lúc này là phát xít Nhật.

Hội nghị quyết định phát động cao trào “Kháng Nhật cứu nước” mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

* Những hoạt động tiến tới Tổng khởi nghĩa:

- Phong trào đấu tranh, khởi nghĩa từng phần phát triển mạnh ở thượng du và trung du miền Bắc.

- Thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân (15 - 4 - 1945).

- Khu giải phóng Việt Bắc ra đời (6 - 1945).

- Khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” đã dấy lên phong trào đánh chiếm kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Không khí khởi nghĩa sục sôi trong cả nước.

III. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

1. Lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố.

- Chiến tranh thế giới thứ hai đã bước vào giai đoạn cuối: phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện (8 - 19454). Ở trong nước, quân Nhật hoang mang, dao động cực độ.

- Ngay khi nghe tin Chính phủ Nhật đầu hàng, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra Quân lệnh số 1 kêu gọi toàn dân nổi dậy.

- Đảng ta họp Hội nghị toàn quốc (ngày 14 và 15 - 8 - 1945) ở Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào nước ta.

- Tiếp đó, Đại hội Quốc dân Tân Trào họp (16 - 8) tán thành quyết định khởi nghĩa của Đảng, lập Ủy ban Giải phóng dân tộc. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy khởi nghĩa.

2. Giành chính quyền ở Hà Nội.

- Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, không khí cách mạng rất sôi động... Các đội Tuyên truyền xung phong của Việt Minh hoạt động khắp thành phố...

- Ngày 15 - 8, Việt Minh tổ chức diễn thuyết ở ba rạp hát trong thành phố. Ngày 16 - 8, truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi khởi nghĩa xuất hiện khắp nơi. Chính phủ bù nhìn lung lay đến tận gốc rễ.

- Ngày 19 - 8, mít tinh tại Nhà hát lớn biến thành cuộc biểu tình đánh chiếm các công sở chính quyền địch, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội

3. Giành chính quyền trong cả nước.

- Từ ngày 14 đến 18 - 8, bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất cả nước là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam.

- Khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Huế (23 - 8), Sài Gòn (25 - 8). Đến ngày 28 - 8, Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước.

- Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 

4. Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng Tám.

* Ý nghĩa:

- Đối với dân tộc: Cách mạng tháng Tám là sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc, phá tan hai xiềng xích nô lệ Nhật - Pháp, lật đổ ngai vàng phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nước ta trở thành một nước độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập, tự do, làm chủ nước nhà; mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta - kỉ nguyên độc lập, tự do.

- Đối với thế giới: Thắng lợi của cách mạng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc; góp phần củng cố hòa bình ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, trên toàn thế giới nói chung.

* Nguyên nhân thành công:

- Dân tộc có truyền thống yêu nước sâu sắc, khi có Đảng Cộng sản Đông dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì được mọi người hưởng ứng.

- Tình đoàn kết của tất cả các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội (đặc biệt là khối liên minh công - nông) trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.

- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, Liên Xô và các nước Đồng minh đã đánh bại phát xít Nhật.

CHỦ ĐỀ 4: VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (1945 - 1946)

 1. Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

* Khó khăn:

Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta gặp phải rất nhiều khó khăn, ở vào tình thế hiểm nghèo như “ngàn cân treo sợi tóc”:

- Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch và bọn tay sai phản động ồ ạt kéo quân vào nước ta, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính quyền tay sai. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh cũng kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta.

- Trong nước, các lực lượng phản cách mạng ngóc đầu dậy chống phá cách mạng.

- Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, còn bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hậu quả của nạn đói năm Ất Dậu (cuối 1944 - đầu 1945) chưa được khắc phục, lụt lội, hạn hán diễn ra, sản xuất  đình đốn, nạn đói mới đe dọa đời sống nhân dân.

- Ngân sách nhà nước hầu như trống rỗng. Nhà nước chưa kiểm soát được Ngân hàng Đông Dương.

- Hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội vẫn còn phổ biến.

* Thuận lợi:

- Phong trào cách mạng thế giới lên cao.

- Nhân dân ta phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

2. Bước đầu xây dựng chế độ mới:

- Ngày 6 - 1 - 1946, hơn 90% nhân dân cả nước tham gia Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa 1.

- Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên, lập ra Ban Dự thảo Hiến pháp và thông qua danh sách Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu.

- Bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân ở Trung và Bắc Bộ được kiện toàn từ tỉnh đến xã đều tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.

- Ngày 29 - 5 - 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) được thành lập.

3. Diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài chính.

- Diệt giặc đói: Biện pháp trước mắt là tổ chức quyên góp, lập hũ gạo cứu đói, tổ chức “Ngày đồng tâm”, kêu gọi đồng bào nhường cơm sẻ áo. Biện pháp lâu dài là đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chia ruộng đất cho nông dân. Kết quả là nạn đói được đẩy lùi.

- Diệt giặc dốt: Ngày 9 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, kêu gọi mọi người tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Các trường học sớm được khai giảng, nội dung và phương pháp dạy học bước đầu đổi mới.

- Giải quyết khó khăn tài chính: kêu gọi nhân dân đóng góp, xây dựng “Quỹ Độc lập”, phát động phong trào “Tuần lễ vàng”. Quốc hội quyết định phát hành tiền Việt Nam (11 - 1946).

4. Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược.

- Đêm 22 rạng sáng 23 - 9 - 1945, quân Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

- Nhân dân ta anh dũng đánh trả quân xâm lược ở Sài Gòn - Chợ Lớn, sau đó là Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

- Nhân dân miền Bắc tích cực chi viện cho nhân dân miền Nam chiến đấu: những đoàn quân “Nam tiến” nô nức lên đường.

5. Đấu tranh chống quân Tưởng  và bọn phản cách  mạng.

- Nhằm hạn chế sự phá hoại của bọn tay sai của Tưởng, ta đồng ý chia cho cho chúng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và một số ghế bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp.

- Ta còn nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi về kinh tế như cung cấp lượng thực, nhận tiêu tiền “quan kim”,…

- Mặt khác, Chính phủ ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng; giam giữ, lập tòa án quân sự để trừng trị bọn phản cách mạng.

6. Hiệp định Sơ bộ (6 - 3 - 1946) và Tạm ước Việt - Pháp (14 - 9 - 1946).

- Tưởng Giới Thạch và Pháp kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28 - 2 - 1946), bắt tay chống phá cách mạng nước ta. Trước tình hình đó, ta chủ động đàm phán, hòa hoãn với Pháp và kí Hiệp định Sơ bộ (6 - 3 - 1946) nhằm đuổi quân Tưởng về nước, tranh thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

- Nội dung Hiệp định Sơ bộ: Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng. Quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng để giải giáp quân Nhật và sẽ rút dần trong 5 năm.

- Cuộc đàm phán chính thức tại Phông-ten-nơ-blô (Pháp) thất bại. Hồ Chí Minh đã kí với Pháp bản Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam.

- Ý nghĩa: Việc ta kí Hiệp định Sơ bộ và bản Tạm ước Việt - Pháp đã giúp chúng ta loại được một kẻ thù là quân Tưởng, có thêm thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài.

CHỦ ĐỀ 5: VIỆT NAM TỪ CUỐI NĂM 1946 ĐẾN NĂM 1954.

I. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950).

1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (19 - 12 - 1946).

a. Hoàn cảnh lịch sử:

- Sau khi kí Hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946) và Tạm ước (14 - 9 - 1946), thực dân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích, tiến công quân ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, ở Hải Phòng, Lạng Sơn, nhất là ở Hà Nội (12 - 1946).

Ngày 18 - 12 - 1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu... nếu không chúng sẽ hành động vào sáng ngày 20 - 12 - 1946.

- Trước đó, Ban Thường vụ TW Đảng họp (ngày 18 và 19 - 12 - 1946), quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Tối 19 - 12 - 1946, Hồ Chủ Tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

- Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch, nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến.

b. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của ta:

- Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện trong các văn kiện: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ TW Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh (9 - 1947).

- Đó là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Tập trung vào hai nội dung:

+ Kháng chiến toàn dân, tất cả mọi người tham gia kháng chiến.

+ Kháng chiến toàn diện, trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao,...

2. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16.

- Tại Hà Nội: cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt ở Bắc Bộ phủ, Hàng Bông,... Quân dân Hà Nội đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, giam chân chúng trong thành phố... Đến đêm 17 - 2 - 1947, Trung đoàn Thủ đô thực hiện cuộc rút quân khỏi vòng vây của địch ra căn cứ an toàn.

- Tại các thành phố khác như: Nam Định, Huế, Đà Nẵng,... quân ta tiến công, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và giam chân chúng ở đây.

- Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã giam chân địch trong các đô thị, làm giảm bước tiến của chúng, tạo điều kiện cho Đảng, Chính phủ rút lên căn cứ Việt Bắc và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

3. Tích cực chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

* Cuối tháng 11 - 1946, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, ta tiến hành đợt tổng di chuyển máy móc, thiết bị, hàng hóa đến nơi an toàn. Đồng thời ta tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”.

* Sau khi đã hoàn thành việc di chuyển, Nhà nước tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài:

- Về chính trị, chia nước ta thành 12 khu hành chính và quân sự.

- Về quân sự, tích cực huy động mọi người tham gia lực lượng chống Pháp, vũ khí vừa tự tạo, vừa lấy của địch.

- Về kinh tế, Chính phủ ban hành chính sách để duy trì và phát triển sản xuất, thành lập Nha tiếp tế,...

- Về giáo dục, phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển.

4. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947.

a. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

- Thực dân Pháp mở cuộc tiến công lên căn cứ Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, khóa chặt biên giới Việt - Trung,...

- Ngày 7 - 10 - 1947, Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc với việc cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn,...; một cánh quân từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng đánh lên Bắc Cạn; một cánh quân khác ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đài Thị. Các cánh quân tạo thành hai gọng kìm bao vây căn cứ Việt Bắc.

b. Quân dân ta chiến đấu bảo vệ căn cứ Việt Bắc.

* Diễn biến:

- Tại Bắc Cạn, quân dân ta chủ động phản công bao vây, chia cắt, đánh tập kích địch.

- Ở hướng Đông, quân ta phục kích, chặn đánh địch trên đường Bản Sao - đèo Bông Lau.

- Ở hướng Tây, quân ta phục kích địch ở Đoan Hùng, Khe Lau,...

* Kết quả: Đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, căn cứ Việt Bắc vẫn được bảo toàn, bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.

* Ý nghĩa: Chiến thắng của ta buộc Pháp phải chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang đánh lâu dài.

5. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.

- Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, phát động chiến tranh du kích.

- Về chính trị - ngoại giao: Năm 1948, tại Nam Bộ, lần đầu tiên ta tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân từ cấp xã đến cấp tỉnh. Củng cố Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp. Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân đã đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.

- Về kinh tế: Ta chủ trương phá hoại kinh tế địch, xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc.

- Về văn hóa, giáo dục: Tháng 7 - 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông.

II. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1950 - 1953).

1. Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.

a. Hoàn cảnh lịch sử mới:

- Cách mạng Trung Quốc thắng lợi (1 - 10 - 1949), tình hình thế giới và Đông Dương có lợi cho cuộc kháng chiến của ta.

- Pháp liên tiếp bị thất bại trên chiến trường và lệ thuộc vào Mĩ nhiều hơn. Mĩ ngày càng can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.

b. Quân ta tiến công địch ở biên giới phía Bắc:

* Âm mưu của Pháp:  Thực hiện “Kế hoạch Rơ-ve” nhằm khóa chặt biên giới Việt - Trung, thiết lập “Hành lang Đông - Tây”, chuẩn bị tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc lần thứ hai.

* Chủ trương của ta: Tháng 6 - 1950, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, khai thông biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

* Diễn biến:

- Quân ta tiêu diệt Đông Khê (18 - 9 - 1950) uy hiếp Thất Khê; Cao Bằng bị cô lập; hệ thống phòng ngự của địch trên Đường số 4 bị lung lay.

- Pháp được lệnh rút khỏi Cao Bằng theo Đường số 4, đồng thời lực lượng của chúng ở Thất Khê được lệnh đánh lên Thất Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng xuống.

- Quân ta mai phục, chặn đánh địch trên Đường số 4 làm cho hai cánh quân của chúng không gặp được nhau. Đến ngày 22 - 10 - 1950, quân Pháp phải rút chạy khỏi Đường số 4.

* Kết quả, ý nghĩa:

- Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, ta đã giải phóng được tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn) với 35 vạn dân, thế bao vây cả trong và ngoài căn cứ Việt Bắc của địch bị phá vỡ. Kế hoạch Rơ-ve của địch bị phá sản.

- Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi đã đưa cuộc kháng chiến của ta chuyển sang giai đoạn mới.

2. Âm mưu đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp.

- Sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, thực dân Pháp thực hiện âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất. Mĩ tăng cường viện trợ cho Pháp để đẩy mạnh chiến tranh ở Đông Dương, từng bước thay chân Pháp.

- Pháp đề ra kế hoạch Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi (12 - 1950), gấp rút xây dựng lực lượng, bình định vùng tạm chiếm,...

3. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2 - 1951).

* Đại hội đại biểu lần thứ II (2 - 1951) họp tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang).

- Đại hội đã thông qua “Báo cáo chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” của Tổng Bí thư Trường Chinh.

- Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, bầu Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

* Đại hội đã đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi.

4. Phát triển hậu phương kháng chiến về mọi mặt.

- Về chính trị, thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (3 - 1951). Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào được thành lập.

- Về kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, xây dựng nền tài chính, thương nghiệp, giảm tô ở một số xã thuộc vùng tự do,...

- Về văn hóa, giáo dục, tiến hành cải cách giáo dục, số học sinh phổ thông và đại học tăng nhanh. Ngày 1 - 5 - 1952, tại Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất đã bầu chọn được 7 anh hùng.

5. Các chiến dịch giữ vững quyền chủ động đánh địch trên chiến trường.

- Trong đông - xuân 1950 - 1951, quân ta đã mở ba chiến dịch là: Trung Du, Đường số 18 và Hà - Nam - Ninh, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 vạn tên địch.

- Ta chủ động đón đánh địch ở Hòa Bình (11 - 1951), phá tan âm mưu tiến công Hòa Bình, nối lại hành lang Đông - Tây của chúng.

- Tiếp đó, quân ta mở chiến dịch Tây Bắc (cuối năm 1952), tiến công địch ở thị xã Nghĩa Lộ, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái,...giải phóng được toàn tỉnh Nghĩa Lộ, hầu hết tỉnh Sơn La,...phá tan âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của địch.

- Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta phối hợp với Chính phủ kháng chiến và Mặt trận Ít-xa-la của Lào mở chiến dịch Thượng Lào (8 - 4 - 1953), giải phóng toàn tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Phong Xa-lì và tỉnh Xiêng  Khoảng. Căn cứ kháng chiến ở Thượng Lào được mở rộng, nối liền với Tây Bắc Việt Nam.

III. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi (1953 - 1954).

1. Kế hoạch Na-va của Pháp - Mĩ.

* Ngày 7 - 5 - 1953, tướng Na-va được cử sang làm Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch quân sự Na-va (gồm hai bước).

- Bước một: thu - đông 1953 và xuân 1954, giữ vững thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Trung và Nam Đông Dương.

- Bước hai: từ thu - đông 1954, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Bắc, giành thắng lợi quân sự quyết định, kết thúc chiến tranh.

* Thực hiện kế hoạch Na-va, Pháp xin tăng thêm viện trợ Mĩ, tăng thêm quân ở Đông Dương, tập trung quân ở đồng bằng Bắc Bộ gồm 44 tiểu đoàn...

2. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

a. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.

- Tháng 9 - 1953, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, đề ra phương hướng chiến lược của ta là: tập trung lực lượng mở các cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà lực lượng địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta.

- Thực hiện phương hướng chiến lược trên, tháng 12 - 1953, bộ đội ta tiến công vào giải phóng tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ), Pháp buộc phải điều quân tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành điểm tập trung quân thứ hai của chúng.

- Đầu tháng 12 - 1953, Liên quân Lào - Việt mở cuộc tiến công Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt, buộc địch phải tăng cường lực lượng cho Xê-nô, biến nơi đây thành điểm tập trung binh lực thứ ba của Pháp.

- Tháng 1 - 1954, Liên quân Lào - Việt tiếp tục tiến công địch ở Thượng Lào, giải phóng toàn tỉnh Phong Xa-lì, buộc Pháp phải tăng quân cho Luông Pha-bang, biến nơi đây thành điểm tập trung quân thứ tư của Pháp.

- Tháng 2 - 1954, quân ta giải phóng thị xã Kon Tum, uy hiếp Plâycu, địch phải tăng cường lực lượng và biến Plâycu thành nơi tập trung quân thứ năm của Pháp.

B. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954).

* Được sự giúp đỡ của Mĩ, Pháp cho xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương với 49 cứ điểm, 3 phân khu...

* Đầu tháng 12 - 1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.

* Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 13 - 3 - 1954 đến hết ngày 7 - 5 - 1954, chia làm 3 đợt:

- Đợt 1: Quân ta tiến công và tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.

- Đợt 2: Quân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm phía Đông phân khu Trung tâm.

- Đợt 3: Quân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm còn lại ở phân khu Trung tâm và phân khu Nam. Chiều 7 - 5 - 1954, tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch đầu hàng.

* Kết quả: Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.

* Ý nghĩa: Làm phá sản hoàn toàn kế hoạch Na-va, buộc Pháp phải kí Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

3. Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.

* Ngày 8 - 5 - 1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương chính thức được khai mạc. Phái đoàn ta do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu.

* Cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị diễn ra gay gắt và phức tạp. Ngày 21 - 7 - 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết.

* Nội dung Hiệp định:

- Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

- Hai bên tham chiến cùng ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dương.

- Hai bên tập kết quân đội, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời.

- Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7 - 1956.

* Ý nghĩa: Với Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương. Đây là văn bản mang tính pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của các nước Đông Dương, buộc Pháp phải rút hết quân về nước; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.

4. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).

* Ý nghĩa lịch sử:

- Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta trong gần một thế kỉ. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN, tạo điều kiện để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

- Giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

* Nguyên nhân thắng lợi:

- Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo,...

- Có chính quyền dân chủ nhân dân, có lực lượng vũ trang với ba thứ quân không ngừng được mở rộng, có hậu phương vững chắc.

- Tình đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt - Miên - Lào; sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN cùng các lực lượng tiến bộ khác.

1 1291 lượt xem


Xem thêm các chương trình khác: