Con chó bấc - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 9

VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 9 về Tác giả tác phẩm Con chó bấc gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Con chó bấc như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:

1 1,287 13/07/2022
Tải về


Tác giả tác phẩm: Con chó bấc - Ngữ văn 9

I. Tác giả văn bản Con chó bấc

- G. Mô- pa- xăng (1850-1893) tên đầy đủ là Guy de Maupassant

- Quê quán: vùng Normandie ở miền Bắc nước Pháp

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân

+ Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục

+ Hoạt động văn chương của ông bắt đầu khoảng giữa thời gian từ 1871-1880, bắt đầu bằng những bài thơ

+ Trong khoảng 1880-1891, ông đã sáng tác thêm khoảng 300 truyện ngắn, trong đó có rất nhiều truyện xuất sắc như: Người đã khuất, Món tư trang, Cái thùng con, …

Bài giảng Ngữ văn lớp 9 Con chó bấc

II. Nội dung văn bản Con chó bấc

Tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó. Trước kia nó chưa hề cảm thấy một tình yêu thương như vậy lúc ở tại nhà Thẩm phán Mi-lơ dưới thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng. Với những cậu con trai của ông thẩm, trong những buổi đi săn hoặc đi lang thang đây đó, tình cảm ấy chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường; với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là trách nhiệm ra oai hộ vệ; còn đối với bản thân ông Thẩm, đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng.

Nhưng tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt thì phải đến Giôn Thoóc-tơn mới khơi dậy lên được.

Con người này đã cứu sống nó, đó là một lẽ; nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng. Những người khác chăm nom chó của họ xuất phát từ ý thức về nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là con cái của anh vậy, bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia. Anh không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống chuyện trò lâu với chúng (mà anh gọi là “tầm phào”), điều mà cả anh và chúng đều thích thú. Anh có thói quen dùng hai bàn tay túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa rủ rỉ bên tai ấy, và theo mỗi cái lắc đẩy tới đẩy lui, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì quá ngây ngất. Và khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động; những lúc ấy Giôn Thoóc-tơn lại như muốn kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”

Bấc có tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Và cũng như Bấc hiểu các tiếng rủa là những lời nói nựng, con người cũng hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve.

Tuy nhiên, tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, nhưng nó không săn đón những biểu hiện ấy. Khác với cô ả Xơ-kít có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về, cũng khác với Ních thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn, Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng. Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt. Hoặc cũng có lúc nó nằm ra xa hơn, về một bên hoặc đằng sau anh, quan sát hình dáng của anh và từng cử động của thân thể anh.

Và thường thường, như mối giao cảm giữa họ với nhau, sức mạnh ánh mắt của Bấc làm cho Giôn Thoóc-tơn quay đầu sang và nhìn lại nó, không nói năng gì, đôi mắt anh toả rạng tình cảm tự đáy lòng, trong khi tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó toả rạng ra ngoài.

Một thời gian dài sau khi được cứu sống, Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về, Bấc luôn bám theo gót chân anh.Việc thay thầy đổi chủ xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ và không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Ngay cả ban đêm, trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ...

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Con chó bấc

1. Bố cục tác phẩm Con chó bấc

Gồm 4 phần:

+ Phần 1: Nỗi tuyệt vọng của Xi- mông

+ Phần 2: Xi- mông gặp bác Phi- líp

 + Phần 3: Bác Phi- líp đưa Xi- mông về nhà

+ Phần 4: Ngày hôm sau ở trường

2. Tóm tắt tác phẩm Con chó bấc

Tóm tắt Con chó bấc (mẫu 1)

Bấc là một con chó bị bắt cóc đưa lên Bắc cữ để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thoóc-tơn là người chủ có lòng nhân từ đã cảm hóa Bấc. Về sau, khi Thoóc-tơn chết, Bấc hoàn toàn dứt bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành con sói hoang.

Tóm tắt Con chó bấc (mẫu 2)

Tác phẩm kể về con chó Bấc - đây là loài chó duy nhất được đưa lên vùng bắc cực sinh sống với mục đích làm xe kéo trượt tuyết cho những thợ đào vàng nơi đây. Nó tốt hay xấu, được ăn no hay bỏ đói đều phục thuộc vào tay người chủ. Trước đây Bấc đã từng qua tay của rất nhiều thợ đào vàng độc ác, chúng hành hạ đối xử bất công với những chú chó bấc của họ. Duy nhất mỗi Thuooc - tơn - một người được biết đến là rất yêu quý những giống động vật, ông không coi những con chó bấc là phương tiện kiếm sống mà coi nó như những người thân trong gia đình. Từ đó, chú chó Bấc đã được cảm hóa. Sau khi Thooc - tơn qua đời chú chó quyết định rời xa cuộc sống thực tại để đi theo tiếng gọi của thiên nhiên hoang dã.

Tóm tắt Con chó bấc (mẫu 3)

Con chó Bấc là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Mác – xim Go – rơ – ki người Nga. Câu chuyện này làm tái hiện lên tình cảm gắn bó giữa con người và một chú chó là Bấc - một giống chó đặc biệt có hơi phần hoang dã với người chủ đã cứu và đối đãi rất mực tử tế với nó là Thoóc-tơn thông qua trí tưởng tượng phong phú của nhà văn lỗi lạc Lân-đơn. Cách cư xử của Thoóc-tơn đối với Bấc có những điểm đặc biệt là: Anh là người đã cứu sống Bấc, đồng thời đã cưu mang, coi Bấc như gia đình của mình: chào hỏi, cưng nựng, yêu thương chú hết mực Nhà văn dành một đoạn để nói về tình cảm của Thoóc-tơn với Bấc trước khi diễn tả tình cảm của Bấc Vì: Nhà văn muốn cho người đọc thấy được Thoóc-tơn là một ông chủ tốt, nó khác hẳn với những ông chủ khác mà Bấc đã gặp trước đó. Để qua đó ta cảm nhận được, tình cảm của Bấc dành cho ông chủ mình là xứng đáng. Tình cảm của con chó Bấc đối với ông chủ được biểu hiện qua những khía cạnh như: Vờ cắn vào tay Thoóc-tơn như của chỉ vuốt ve, Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng, nằm phục ở chân, mắt tỉnh táo, háo hức, ngước nhìn chủ, ám sát không rời chủ.

3. Phương thức biểu đạt tác phẩm Con chó bấc

Phương thức biểu đạt tác phẩm Con chó bấc là Tự sự + miêu tả + biểu cảm.

4. Thể loại

Tác phẩm Con chó bấc thuộc thể loại trích tiểu thuyết

5. Ngôi kể

Tác phẩm Con chó bấc được kể theo Ngôi kể thứ 3.

6. Giá trị nội dung tác phẩm Con chó bấc

Văn bản là bài ca ca ngợi lòng nhân ái : Con người và loài vật đều cần đến tinh yêu thương. Tình yêu thương nào cũng cần chân thật, sâu nặng và thuỷ chung. Qua đó bộc lộ những nhận xét tinh tế của tác giả về con chó Bấc đồng thời thể hiện tình cảm của tác giả với loài vật.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Con chó bấc

- Không sử dụng nhân hóa một cách triệt để. Chỉ qua lời kể chuyện cũng đã bộc lộ “tâm hồn” của con chó Bấc.

- Nhà văn đứng ngoài quan sát miêu tả chứ không nhập vào nhân vật, đống vai nhân vật.

- Đi sâu miêu tả nội tâm (tâm hồn) loài vật bằng trí tưởng tượng phong phú .

- Truyện vẫn rất sinh động, chân thật, nhờ tài năng quan sát, vốn hiểu biết và tình cảm của tác giả với loài vật.

IV. Dàn ý tác phẩm Con chó bấc

I. Mở bài

- Vài nét về tác giả G. Mô- pa- xăng: Một nhà văn Pháp tài năng với gia tài văn chương đồ sộ

- Khái quát về đoạn trích Bố của Xi-mông: Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi- mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng- sốt và Phi- líp

II. Thân bài

1. Nhân vật Xi-mông

- Là một đứa trẻ đáng thương: "Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát gần như vụng dại", là đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc

- Ý nghĩa và hành động: Bỏ nhà ra bờ sông định tự tử.

- Tâm trạng: cảm giác uể oải, buồn bã vô cùng, chẳng nhìn thấy gì và chẳng nghĩ gì?

- Cử chỉ, hành động: Khóc, nức nở, khóc hoài

- Về nhà, nhìn thấy mẹ: - Nhảy lên ôm cổ mẹ, oà khóc

- Nói năng: ấp úng, ngắt quãng, không nên lời.

- Khi được bác Phi-líp nhận làm con: Kiêu hãnh, tự tin

+ Hết cả buồn.

+ Đưa con mắt thách thức lũ bạn.

⇒ Nghệ thuật miêu tả, so sánh ⇒ Đây là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu và đáng thương nhưng đồng thời Xi – mông cũng là đứa rất có nghị lực

2. Nhân vật Blăng- sốt

- Được giới thiệu: là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị.

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị…như muốn cám đàn ông bước qua ngướng cửa.

- Nỗi lòng với con

+ Tái tê đến tận xương tuỷ, nước mắt lã chã tuôn rơi.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

⇒ Nghệ thuật miêu tả, tác giả đã cho thấy Blăng- sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

3. Nhân vật Phi - lip

- Được giới thiệu là một người :

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông:

+ Đặt tay lên vai em ôn tồn hỏi, nhìn em nhân hậu.

- Trên đường đưa Xi-mông về nhà nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị - “tự nhủ thầm”

- Hành động: Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

⇒ Nghệ thuật kể chuyện sinh động, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ đối thoại ⇒ Bác Phi-líp là người nhân hậu, giàu tình thương đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em.

II. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Nghệ thuật: miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật sắc nét.

Nội dung: Nhắc nhở lòng thương yêu con người, bè bạn.

- Liên hệ bản thân

V. Một số đề văn bài Con chó bấc

Đề bài: Phân tích văn bản “Con chó Bấc” của Giắc Lân-đơn.

Phân tích văn bản Con chó Bấc - mẫu 1

Giắc Lân-đơn (1876 – 1916) là nhà văn Mĩ, tên thật là Giôn Gri-phit Lân-đơn, sinh ở bang San Phran-xi-xcô. Ông trải qua thời kì thơ ấu rất vất vả, từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng những truyện ngắn đăng trên một tờ báo của sinh viên. Thời kì phát triển cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là vào đầu thế kỉ XX.

“Tiếng gọi nơi hoang dã” (1903) là tiểu thuyết ra mắt bạn đọc sau khi ông đi theo những người tìm vàng đến miền Clân-đai-cơ trở về. Con chó Bấc là một đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết đó. Tác phẩm kể về Bấc, một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thoóc-tơn là người đã có lòng nhân từ đối với nó. Sau khi Thoóc-tơn chết, nó rời bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con chó hoang. Trong đoạn trích, nhà văn Lân-đơn đã có những nhận xét tinh tế và trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào đời sống “tâm hồn” của con chó Bấc, đồng thời bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật. Bài văn được chia làm ba phần. Phần một. Từ đầu đến… nói khơi dậy lên được: Quan hệ của Bấc đối với gia đình chủ cũ. Phần hai. Tiếp đến… hầu như biết nói đấy! Tình cảm yêu mến của Thoóc-tơn đối với Bấc. Phần ba. Đoạn còn lại: Tình cảm gắn bó của Bấc đối với Thoóc-tơn,

Qua cách miêu tả và kể chuyện, ta thấy nhà văn chủ yếu muốn thể hiện lòng biết ơn và tình cảm yêu thương của con chó Bấc đối với người chủ giàu lòng nhân ái. Ở đoạn thứ nhất, tác giả kể về quan hệ của con chó Bấc đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ là chủ để lấy đó làm cơ sở so sánh tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn: Với những cậu con trai của ông Thẩm, trong những buổi đi săn hoặc đi lang thang đây đó, tình cảm ấy chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường; với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là trách nhiệm ra oai hộ vệ. Còn đối với bản thân ông Thẩm, đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng.Mức độ tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn lại hoàn toàn khác những tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt thì phải đến Giôn Thoóc-tơn mới khơi dậy lên được. Với con chó Bấc thì Giôn Thoóc-tơn là một ông chủ lí tưởng: Các ông chủ trước chăm sóc nó chỉ là vì nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh (trông nhà hoặc kéo xe trượt tuyết để đi tìm vàng) chứ không thực sự yêu thương nó.

Trước hết, ta hãy xem tình cảm của Thoóc-tơn đối với con chó Bấc. Thoóc-tơn đối xử với bầy chó của anh như thể chúng là con cái của anh vậy. Riêng đối với Bấc, trong ý nghĩ và trong tình cảm, dường như anh không coi nó chỉ là một con chó, mà còn là một người bạn thân thiết: Con người này đã cứu sống nó đó là một lẽ; nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng. Những người khác chăm nom chó của họ xuất phát từ ý thức về nghĩa vụ và về lợi ích kinh doanh; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là con cái của anh vậy, bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia. Anh không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống chuyện trò lâu với chúng (mà anh gọi là (tầm phào), điều mà cả anh và chúng đều thích thú. Anh có thói quen dùng hai bàn tay túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm. Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rửa rú ri bên tai ấy và theo mỗi cái lắc đẩy tới đẩy lui, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì quá ngây ngất. Và khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động…Tình cảm của Thoóc-tơn biểu hiện rõ rệt nhất khi anh kêu lên, trân trọng: Trời đất ! Đằng ấy hình như biết nói đấy ! Anh coi Bấc như một người bạn tri âm, tri kỉ.

Trong đoạn văn này, mục đích chủ yếu của Lân-đơn là tập trung miêu tả những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc. Trước đó, nhà văn kể về tình cảm của Thoóc-tơn đối với bầy chó của anh nói chung và đối với con chó Bấc nói riêng, nhằm nhấn mạnh tình cảm đặc biệt mà con chó Bấc dành cho anh. Không phải đối với bất cứ ông chủ nào con chó Bấc cũng yêu quý như với Thoóc-tơn vì Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác, chỉ riêng Thoóc- tơn là có lòng nhân từ với nó. Đọc những dòng miêu tả Bấc, chúng ta sẽ thấy tài quan sát và sự hiểu biết của nhà văn đối với loài chó: Bấc có cái tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cán lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Và cùng như Bấc hiểu các tiếng rủa là những lời nói nựng, con người cũng hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve.

Lân-đơn có những nhận xét tinh tế, tỉ mỉ khi miêu tả từng con chó trong bầy chó kéo xe. Những biểu hiện tình cảm của chúng là đặc điểm chung của loài chó nhưng nhà văn chú trọng đến nét riêng của mỗi con để làm nổi bật nét khác biệt của Bấc so với những con chó khác trong bầy. Bấc có tình cảm đặc biệt đối với Thoóc-tơn. Có lúc nó bày tỏ thái độ âu yếm qua những cái cắn vờ hoặc theo sát Thoóc-tơn không rời một bước : Tuy nhiên, tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, nhưng nó không săn dồn những biểu hiện ấy. Khác với cô ả Xơ-kít có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thooc-tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về, cũng khác với Ních thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối của Thoóc-tơn,

Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng. Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt. Hoặc cũng có lúc nằm ra xa hơn, về một bên hoặc đằng sau anh, quan sát hình dáng của anh và từng cử động của thân thể anh. Và thường thường, như mối giao cảm giữa họ với nhau, sức mạnh ánh mắt của Bấc làm cho Giôn Thoóc-tơn quay đầu sang và nhìn lại nó, không nói năng gì, đôi mắt anh tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng, trong khi tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó tỏa rạng ra ngoài.Tình cảm của con chó Bấc được tác giả miêu tả cụ thể và tinh tế. Nhà văn không nhân cách hóa con chó Bấc theo kiểu của La Phông-ten trong thơ ngụ ngôn. Lúc muốn bày tỏ tình cảm với chủ, họng nó chỉ rung lên những âm thanh không thốt nên lời… Thoóc-tơn cảm thấy Bấc hầu như biết nói và anh thấu hiểu thế giới tâm hồn phong phú của nó: Trước kia, nó chưa hề cảm thấy một tình thương yêu như vậy…, Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy…, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực…

Nhà văn kể rằng: Một thời gian dài sau khi được cứu sống, Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về, Bấc luôn bám theo gót chân anh. Việc thay thầy đổi chủ xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây.Ngay cả ban đêm, trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…

Đoạn văn trên vừa phản ánh trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn, vừa nói lên tình yêu thương loài vật của ông. Điều mà ông muốn nhắn gửi tới chúng ta là hãy hết lòng thương yêu loài vật, nhất là những loài vật có nghĩa, có tình.

Đề bài: Phân tích hình ảnh Con chó Bấc trong truyện ngắn Tiếng gọi nơi hoang dã của Giắc Lân-đơn.

Phân tích hình ảnh con chó Bấc - mẫu 1

Nghệ thuật văn chương, miêu tả tâm lí, tình cảm đã là khó (miêu tả tâm lí nhân vật là một bước tiến lớn trong lịch sử văn học), miêu tả tình cảm của một con chó lại càng khó hơn, dẫu rằng trong số các loài vật nuôi, chó được coi là loài gần gũi nhất, tình nghĩa nhất đối với con người.

Thế nhưng khi Giấc Lân-đơn viết Tiếng gọi nơi hoang dã, điều đó dường như không gây ra bất cứ một trở ngại nào. Câu chuyện về chú chó Bấc, mọi tâm tư, tình cảm của nó được dựng lên hết sức sinh động, gần gũi đến mức nếu chưa nắm bắt được cốt truyện, bất chợt đọc một đoạn nào dó, bạn đọc dễ lầm tưởng nhân vật chính trong truyện là một con người. Mặc dù câu chuyện được kể từ ngôi thứ ba nhưng có thể coi đó là si hóa thân toàn vẹn của nhà văn vào nhân vật. Đoạn trích hầu như không có sự kiện nào đáng kể, chỉ là những tâm tư, tình cảm của Bấc đối với chủ, thế nhưng đây lại là một trong nhiều đoạn văn thành công của tác phẩm. Một phần nguyên do là bởi trong đó, những tâm tư, tình cảm của Bấc đã được miêu tả hết sức sâu sắc, thể hiện khả năng quan sát và cảm nhận nhạy bén, tinh tế của nhà văn.

Đoạn mở đầu chỉ có tính chất giới thiệu, nhưng không vì thế mà kém sức hấp dẫn. Đó là một thứ tình cảm hoàn toàn mới mẻ mà Bấc chưa từng cảm thấy bao giờ. Đối chứng cụ thế là mối quan hệ của Bấc với các thành viên trong gia đình thẩm phán Mi-lơ:

- Với những cậu con trai của ông Thẩm, tình cảm ấy "chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường".

- Với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là "trách nhiệm ra oai hộ vệ".

- Với ông Thẩm, đó là thứ "tình bạn trịnh trọng và đường hoàng".

Trong những mối quan hệ này, Bấc có vị thế hoàn toàn khác với một con chó thông thường. Đó không phải là môi quan hệ của một con vật nuôi đối với chủ mà là mối quan hệ bình đẳng giữa một con người với một con người. Nhưng điều quan trọng nhất là trong khoảng thời gian đó, Bấc chưa bao giờ cảm thấy một "tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt" như tình cảm đối với Thoóc-tơn. Đó là một cách mở đầu thực sự ấn tượng.

Trong mối quan hệ với Thoóc-tơn, vị thế của Bấc cũng không thay đổi. Nó tự coi mình là một người bạn trung thành. Có lẽ điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt trong tình cảm của Bấc chính là cách nghĩ của Thoóc-tơn. Đôi với Thẩm phán Mi-lơ và những người chủ khác, Bấc chẳng qua cũng chỉ là một con vật nuôi mà thôi (nói như ngôn ngữ của Bấc thì đó là quan hệ thuần túy vì công việc), dù nó có lập được bao nhiêu chiến tích đi chăng nữa. Nhưng Thoóc-tơn thì khác. Anh thực sự coi Bấc như một người bạn và đối xử với nó cũng như với một người bạn. Những sự việc hằng ngày diễn ra trong mối quan hệ giữa Thoóc-tơn và Bấc được tác giả kể lại rất giản dị nhưng có sức hấp dẫn thật đặc biệt. Những cử chỉ, hành động được miêu tả xen kẽ với những chi tiết cụ thể, sinh động cho thấy tình cảm của Thoóc-tơn dành cho Bấc đã vượt qua mối quan hệ chủ tớ thông thường. Anh chăm sóc những con chó "như thể chúng là con cái của anh vậy". Bấc vốn là một con chó thông minh, nó hiểu những cử chỉ của chủ có ý nghĩa như thế nào, bởi vậy, nó cũng đáp lại bằng một tình cảm chân thành nhưng không kém phần nồng nhiệt. Bản thân nó quá đỗi vui sướng, đến độ "tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thế vì quá ngây ngất". Mỗi cử chỉ của Bấc cũng thể hiện quá nhiều ý nghĩa khiến cho Thoóc-tơn cũng như muốn kêu lên, tưởng như con chó đang nói với anh bằng lời chứ không phải chỉ qua hành động.

Cách biểu lộ tình cảm của Bấc cũng rất khác thường. Cái cách nó ép hai hàm răng vào tay chủ một lúc lâu cho thấy tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn mãnh liệt đến mức nào. Mặt khác, nó lại không hề vồ vập, săn đón như những con chó khác mà chỉ lặng lẽ tôn thờ, quan sát chủ theo một cách rất riêng mà chỉ nó mới có thể bộc lộ như vậy. Sự giao cảm bằng ánh mắt giữa nó và Thoóc-tơn đã nói lên tất cả sự ngưỡng mộ, thành kính, tình thương yêu của Bấc đối với người chủ mang trong mình những tinh cảm mà trước đó nó chưa từng cảm nhận được bao giờ. Sự gắn bó về tình cảm giữa Bấc và chủ được thể hiện sâu hơn trong phần cuối của đoạn trích. Càng yêu chủ bao nhiêu thì Bấc lại càng sợ mất bấy nhiêu. Bởi vậy, nó luôn bám theo Thoóc-tơn và không rời anh nửa bước. Chi tiết Bấc không ngủ "trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ..." rất sống động, có sức diễn tả lớn hơn cả những lời giãi bày trực tiếp, nó biểu hiện khả năng quan sát và miêu tả rất tinh tế của tác giả. Sức hấp dần của đoạn trích này nói riêng và cả truyện ngắn Tiếng gọi nơi hoang dã nói chung đối với bạn đọc còn ở ý nghĩa xã hội sâu sắc mà nó đã gợi lên. 

Trong cuộc đua tranh khốc liệt để giành giật của cải, giành giật sự sống của con người, mọi quan hệ tình cảm đều bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tình cảm, lòng yêu thương sâu sắc giữa Bấc và Thoóc-tơn là lời ca ca ngợi những tình cảm nhân hậu, cao quý, kêu gọi con người hãy tạm gác lại những đam mê vật chất để hưởng đến một cuộc sống tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. 

Đề bài: Cảm nhận văn bản “Con chó Bấc” của Giắc Lân-đơn.

Cảm nhận Con chó Bấc - mẫu 1

Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của G. Lân-đân. Truyện là kết qủa của những chuyến đi cùng với cùng với các nhóm tìm vàng lên tận miền bắc Ca-na-đa gần Bắc cực. Tiếng gọi nơi hoang dã kể về số phận con chó Bấc. Bấc là một chú chó nhà khoẻ mạnh tinh khôn. Nó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã phải qua tay nhiều ông chủ tàn bạo, độc ác. Chỉ có Giôn Thoóc-tơn là ông chủ duy nhất thương yêu nó và cảm hoá được nó. Nhóm tìm vàng của Thoóc-tơn cùng lũ chó tiến sâu mãi vào núi rừng miền Bắc hoang vu, lạnh lẽo. Sống giữa thiên nhiên hoang dại, khắc nghiệt, tiếng gọi của rừng thẳm, của tổ tiên hoang dã cứ thức dậy trong lòng Bấc. Dần dần nó đã trở thành một con chó to lớn hung dữ, ranh ma, chỉ thờ phụng riêng mình Thoóc-tơn.

Nhưng rồi Thoóc-tơn và cả nhóm chết thê thảm trong rừng. Không cò gì có thể níu giữ Bấc với con người, nó mãi mãi đi theo tiếng gọi hoang dã của bầy sói rừng và trở thành một con sói thần khủng khiếp. Truyện hấp dẫn người đọc bởi cảnh thiên nhiên miền Bắc hoang dã, khắc nghiệt, dữ dội, đầy bí ẩn, bởi "xã hội" những người đi tìm vận may ở vùng đất bốn mùa tuyết phủ. Một xã hội có cả người mạnh mẽ, tự tin, dũng mãnh và nhân từ như Thoóc-tơn, có cả những kẻ tham lam, ngu xuẩn và độc ác như Han. Nhưng truyện còn đặc biệt hấp dẫn bởi những trang miêu tả đời sống tình cảm loài chó vừa sát thực, vừa sinh động. Do đâu mà tác giả có được những trang miêu tả đời sống "tâm hồn" con chó Bấc như đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 ? Chính là do khả năng quan sát tinh tế của nhà văn. G. Lân-đân không nhân cách hoá các con chó của ông. Ông chỉ miêu tả chúng một cách chính xác, tinh tế, tỉ mỉ. Những biểu hiện tình cảm của các con chó trong đoạn trích là của chung loài chó, nhưng nhà văn, với tài quan sát của mình vẫn thấy chúng khác nhau. Xơ-kít, Ních, Bấc đều yêu mến, trung thành với Thoóc-tơn, nhưng mỗi con có một biểu hiện riêng. Cô ả Xơ-kít thì thích được chủ vuốt ve, âu yếm. Nó "có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mãi cho đên khi được vỗ về". Còn con Ních biểu lộ tình cảm sôi nổi vụng về hơn "thường chồm lên, tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn.

Đặc biệt, mọi hành động, mọi biểu hiện của Bấc được tác giả quan sát và miêu tả vô cùng tỉ mỉ, tinh tường. Dường như Bấc cũng có các cung bậc tình cảm như con người. Khi thì Bấc "bật dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời...". Ấy là lúc chú ta sung sướng ngây ngất khi được Thoóc-tơn đùa với nó, mắng yêu nó. Cũng có khi Bấc bộc lộ tình cảm như một đứa trẻ con: "Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thooc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu". Ấy là những lúc tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn phá bờ tràn ra mãnh liệt. Thật thú vị khi ta đọc những câu miêu tả sự tôn thờ của Bấc đối với Thoóc-tơn. Sự miêu tả ấy đúng hành động của loài chó mà chúng ta thường thấy, nhưng không nhận ra hết ý nghĩa của nó. Chỉ đến khi đọc đoạn trích Con chó Bấc chúng ta mới hiểu được "loài khuyển mã chí tình" này : "Nó thường nằm phục ở chân Thoóc- tơn hàng giờ, mắt háo hức tỉnh táo nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt.", và "tình cảm của Bấc ngời lên qua ánh mắt toả rạng ra ngoài". Đặc biệt, tác giả đã hết sức nhạy cảm, tinh tế khi nhận xét : "Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về" chính là xuất phát từ nỗi sợ hãi bản năng, như là một dự cảm mơ hồ của Bấc về những nỗi hiểm nguy, về cả cái chết có thể ập đến với ông chủ bất cứ lúc nào.

Đó là nỗi sợ hãi mất Thoóc-tơn (mà sau này là sự thật thê thảm) : "Việc thay thầy đổi chủ luôn xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thooc-tơn lại cũng biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và hai anh chàng người lai Ê-cốt dã đi qua rồi biến mất trước đây. Ngay cả ban đêm, trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ". Đoạn trích Con chó Bấc thể hiện óc quan sát tinh tế, tài miêu tả loài vật của G. Lân-đơn. Nhưng sức hấp dẫn người đọc của đoạn trích, cũng như của toàn bộ tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã không phải là ở đó mà là con chó Bấc kì lạ làm thức dậy trong lòng ta những tình cảm con người trong sáng vị tha. Ai có lòng thương yêu bao dung loài vật chân thành, người đó ít có khả năng làm điều ác, sẽ sống cao đẹp, lương thiện với con người.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Bắc Sơn

Mây và sóng

Bến quê

Những ngôi sao xa xôi

Bố của Xi Mông

1 1,287 13/07/2022
Tải về