Chuyện người con gái Nam Xương - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 9
VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 9 về Tác giả tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Chuyện người con gái Nam Xương như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:
Tác giả tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương - Ngữ văn 9
I. Tác giả văn bản Chuyện người con gái Nam Xương
- Nguyễn Dữ - có sách phiên âm là Nguyễn Tự (chưa rõ năm sinh năm mất)
- Quê quán: Ông là người huyện Trường Tân, nay là Thanh Miện - Hải Dương
- Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỉ XVI, là thời kì Triều đình nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài
- Sự nghiệp sáng tác: Ông học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hóa. Đó là cách phản kháng của nhiều tri thức tâm huyết đương thời.
Bài giảng Ngữ văn lớp 9 Chuyện người con gái Nam Xương
II. Nội dung văn bản Chuyện người con gái Nam Xương
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học, nên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:
- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Nước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình, muôn dặm quan san!
Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đưa con trai, đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng:
- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, làm tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.
Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc ngoan cố chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc, Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư! Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.
Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại giấu không kể lời con nói; chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:
- Đây này!
Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!
Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang, khi trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan Lang thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, bèn đem thả con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trầm Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một cái động rùa ở hải đảo, có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng:
- Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa.
Linh Phi bèn lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đền dao thật nguy nga lộng lẫy, mà chưa biết mình đã lọt vào cung nước của rùa thần. Linh Phi bấy giờ mình mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cười bảo Phan Lang rằng:
- Tôi là Linh Phi trong động rùa, vợ vua biển Nam Hải, nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời xui khiến cho tôi có dịp đền ơn trả nghĩa?
Phi bèn đặt yến ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang. Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ. Trong số đó, có một người mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ Nương. Phan có ý nhìn trộm, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang rằng:
- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?
Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương và gạn hỏi duyên cớ. Nàng nói:
- Tôi ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sông tự tử. Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá, còn đâu mà gặp ông.
Phan nói:
- Nương Tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước. Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?
Vũ Nương nói:
- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa!
Phan nói:
- Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai rợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?
Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:
- Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cản vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.
Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.
Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không tin. Nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói:
- Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi.
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.
III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
1. Bố cục tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Gồm 3 đoạn
- Đoạn 1:… của mình: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
- Đoạn 2: … qua rồi: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa Vũ Nương và Phan Lang trong đội Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.
2. Tóm tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 1)
Vũ Nương là người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 2)
Chuyện người con gái Nam Xương kể về cuộc đời và cái chết thương tâm của nàng Vũ Nương. Vũ Nương, quê Nam Xương, vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, nàng được gả cho Trương Sinh, một người vốn có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Khi Trương Sinh đi lính, ở nhà, Vũ Nương hết lòng chăm lo cho mẹ chồng, con thơ và cáng đáng chuyện gia đình. Những ngày ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình trên vách bảo đó là cha Đản. Khi Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, lại đa nghi, đã nghi oan cho Vũ Nương, nàng không thể giải thích cho chồng hiểu nên đã nhảy xuống sông tự vẫn để minh chứng cho sự thủy chung của mình. Vũ Nương được Linh Phi cứu, sống tiếp đời mình ở chốn thủy cung. Tới khi gặp được Phan Lang, là người cùng làng, nàng tâm sự cùng Phan Làng rồi nhờ gửi lời cho chồng lập đàn giải oan ở bến sông thì nàng sẽ trở về. Trương Sinh theo lời lập đàn giải oan cho vợ, nhưng hình bóng Vũ Nương chỉ hiện lên chốc lát rồi loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất, nàng vĩnh viễn sống ở thủy cung, không thể quay lại nhân gian.
Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 3)
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người con gái thùy mị nết na tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh đem lòng yêu mến bảo mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi,Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, ăn ở đúng mực. Đất nước có chiến tranh, Trương Sinh đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh con và nuôi con chăm sóc mẹ già. Mẹ Trương Sinh nhớ thương con mà ốm Vũ Nương hết lòng chăm sóc tận tình. Khi mẹ chồng chết, Vũ Nương lo ma chay chu đáo như cha mẹ đẻ. Những tưởng hạnh phúc sẽ đến với nàng nhưng ngày nàng mong đợi là ngày nàng phải chịu một nỗi oan khó rửa sạch. Khi bế con ra mộ mẹ, Trương Sinh tình cờ biết con còn có một người khác mà đêm đêm vẫn đến, về đến nhà chàng mắng chửi thậm tệ và ruồng bỏ đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho hàng xóm và nàng đã hết sức thanh minh. Vũ Nương uất ức tự tử ở bến Hoàng Giang được Linh Phi - vợ vua Nam Hải cứu sống và đưa về ở trong động rùa. Ở nhà, đêm tối bóng Trương Sinh in trên vách thấy con gọi cha Trương Sinh mới vỡ lẽ ra nỗi oan của vợ thì quá muộn. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương luôn hướng về gia đinh nhờ sự giúp đỡ của Linh Phi và Phan Lang (người cùng làng). Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang. Sự trở về của nàng vô cùng lộng lẫy lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất.
3. Phương thức biểu đạt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương:
Phương thức biểu đạt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là Tự sự
4. Thể loại:
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương thuộc thể loại Truyện truyền kỳ mạn lục (ghi chép tản mạn những truyện kỳ lạ vẫn được lưu truyền). Viết bằng chữ Hán.
5. Ngôi kể:
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương được kể Ngôi thứ 3
6. Giá trị nội dung tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương:
Tác phẩm đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc
- Giá trị hiện thực:
+ Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công với chế độ nam quyền, chà đạp số phận người phụ nữ (Đại diện là nhân vật Trương Sinh).
+ Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận của người phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và bế tắc, phải tìm đến cái chết để kết thúc bi kịch.
+ Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa làm cho cuộc sống của người dân rơi vào cảnh bế tắc.
- Giá trị nhân đạo:
+ Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương: thùy mị, nết na, luôn giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung với chồng.
+ Tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.
7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương:
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng. Chính chi tiết này đã tạo nên tính bất ngờ đồng thời cũng tăng thêm tính bi kịch cho chuyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
- Sử dụng yếu tố kỳ ảo làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm
IV. Dàn ý tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
I. Mở bài
- Giới thiệu một vài nét chủ yếu nhất về tác giả Nguyễn Dữ: Một tác giả học rộng tài cao nhưng bất đắc chí
- Giới thiệu về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương: Là một trong hai mươi truyện ngắn của Truyền kì mạn lục
II. Thân bài
1. Nhân vật Vũ Nương
a. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương
- Vẻ đẹp trước khi lấy chồng: là một người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” ⇒ một vẻ đẹp chuẩn mực
- Trong cuộc sống vợ chồng:
+ Giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng thất hòa ⇒ Tạo dựng và giữ gìn hạnh phúc gia đình
- Khi tiển chồng đi lính:
+ Dặn dò cẩn thận, đầy tình nghĩa, thủy chung
+ Nàng không mong chồng khi trở về mang “ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ” mà chỉ mong chồng bình yên → ko màng danh lợi
- Khi xa chồng:
+ Đảm đang: Là người mẹ hiền, dâu thảo.
+ Là người vợ thuỷ chung yêu chồng tha thiết: hằng đêm vẫn chỉ vào bóng mình và bảo với con đó là cha nó để vơi đi nỗi nhớ chồng
+ Tận tình, chu đáo rất mực yêu thương con
+ Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu tất
⇒ Là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu người phụ nữ
- Khi bị chồng vu oan:
+ Phân trần để chồng hiểu tấm lòng thủy chung của mình.
+ Nói lên nỗi đau đớn, thất vọng vì không hiểu.
+ Thất vọng tột cùng, nàng chọn cái chết để bày tỏ tấm lòng mình.
⇒ Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiếu thảo, chung thủy, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
- Nguyên nhân của nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương
+ Cuộc hôn nhân không bình đẳng, chiến tranh phi nghĩa
+ Tính Đa nghi của Trương Sinh
+ Lời nói ngây ngô của đứa trẻ con
- Ý nghĩa:
+ Tố cáo chiến tranh, xã hội phong kiến trọng quyền uy người đàn ông và kẻ giàu
+ Bày tỏ niềm cảm thương của tác giả với người phụ nữ
2. Nhân vật Trương Sinh
- Là người không có học thức
- Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng
- Có tính đa nghi, trở về rất buồn vì mẹ mất.
- Cách xử sự của Trương Sinh khi nghe lời bé Đản nói thể hiện sự hồ đồ, độc đoán ⇒ chính sự ghen tuông mù quáng của Trương Sinh là một nguyên nhân dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
⇒ Tác giả phê phán sự ghen tuông mù quáng, bày tỏ sự cảm thông và ngợi ca người phụ nữ đức hạnh mà phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh.
3. Những yếu tố kì ảo
- Những yếu tố kì ảo trong tác phẩm:
+ Chuyện Phan Lang nằm mộng thả rùa
+ Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương dưới thủy cung
+ Vũ Nương hiện về giữa uy nghi
⇒ Là những yếu tố hoang đường nhưng vẫn rất thực và gần gũi
- Ý nghĩa:
+ Hoàn chỉnh nét đẹp của Vũ Nương
+ Kết thúc có hậu
+ Không giảm tính bi kịch của tác phẩm, mà tăng giá trị tố cáo và niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ
III. Kết bài
- Khái quát những nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: Cách dẫn dắt: khéo léo, tăng tính bi kịch, lời thoại và lời tự bạch khắc họa sâu thêm tính cách nhân vật, các yếu tố kì ảo, kết hợp tự sự với trữ tình...
- Đây là một tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc
V. Một số đề văn bài Chuyện người con gái Nam Xương
Đề bài: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương.
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 1
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Tác phẩm xoay quanh số phận và cuộc đời nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái xinh đẹp: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, nàng mang vẻ đẹp toàn diện cả về hình thức và tâm hồn. Nàng là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “mến về dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” càng nhấn mạnh, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp nhan sắc và phẩm hạnh của nàng. Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý. Trước hết, nàng là một người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng. Khi chồng đi lính, thân là phụ nữ nhưng nàng đã một mình đứng ra gánh vác công việc gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con mà đổ bệnh nàng hết sức chăm sóc, “thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” mong cho mẹ mau mau khỏi bệnh. Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu thường chỉ mang tính chất ràng buộc, ông cha ta vẫn thường có câu: “Trời mưa ướt lá đài bi. Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu” hay “Thật thà cũng thể lái trâu/ Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”,… Nhưng những lời bà mẹ trăng trối cuối cùng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành, sâu nặng của Vũ Nương với mẹ chồng. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng yêu thương hết mực của nàng với bà bởi vậy bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy ai trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng yêu mến đến như vậy. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo như cho cha mẹ đẻ của mình. Qua những hành động đó ta thấy Vũ Nương là nàng dâu hết sức nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi muôn đời.Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới, Vũ Nương hiểu rõ chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen và hay phòng ngừa quá mức, bởi vậy nàng luôn giữ gìn khuôn phép, để hai vợ chồng không phải chịu cảnh bất hòa. Chính vậy, trong suốt những năm tháng chung sống bên nhau, trước khi Trương Sinh ra trận gia đình nàng luôn được sống trong cảnh đầm ấm, hạnh phúc.
Ngày Trương Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không phải công danh phú quý mà là “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ba năm xa chồng, một mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm trang, dành tất cả thời gian chăm sóc gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ. Ngay cả khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình. Khi bị chồng nghi oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, không cho cơ hội giãi bày, giải thích nàng chỉ đau khổ, cố gắng thanh minh mà không hề oán hận với người chồng hẹp hòi, ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, về gia đình bé nhỏ của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, sẵn sàng tha thứ cho chồng. Khoảnh khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Qua đây ta có thể thấy, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ đức hạnh, người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với người chồng đã đẩy đến bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam thảo hiền, đức hạnh. Mặc dù mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để được hưởng cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng cuộc đời Vũ Nương lại đầy oan nghiệt, trái ngang. Bắt đầu ngay từ cuộc hôn nhân của nàng, không có sự đăng đối giữa hai gia đình, về phẩm chất giữa hai con người: nàng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất: công-dung-ngôn-hạnh, nhưng Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen.
Lấy chồng không bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi cô đơn, vất vả: gánh vác việc gia đình, nuôi dạy con thơ và chăm sóc mẹ già; nỗi nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi biên ải tha thiết đêm ngày. Đến khi chồng về lại phải gánh nỗi oan lạ, oan thất tiết mà không có cơ hội tìm hiểu nguyên do. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh tấm lòng thủy chung, trong sạch của mình. Đây là phản ứng dữ dội và quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ nhân phẩm cũng như cho thấy nỗi bất hạnh tột cùng của nàng. Dù sống bất tử dưới thủy cung nhưng nàng không hề hạnh phúc, bởi hạnh phúc thực sự của con người là ở trần thế, được chung sống, được hưởng không khí đầm ấm của gia đình. Nhưng điều ấy đối với nàng mãi mãi không thể làm được nữa. Thân ở thủy cung, lòng lại một mực hướng về dương gian, nơi có chồng, có con khiến cho nỗi bất hạnh của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu cho phận bạc của biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo phong kiến.Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình đến chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học, tính tình cục cằn, hay ghen. Cũng bởi do ít học nên khi chiến tranh xảy ra anh ta là người đầu tiên trong danh sách đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con ngây thơ không chịu nghe lời phân trần của vợ.
Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm đến cái chết. Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi ân hận, nỗi đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu cho những người đàn ông vũ phu, những lễ giáo phong kiến hà khắc đã đẩy người phụ nữ rơi vào bi kịch. Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đỉnh điểm: cái bóng là mấu chốt của câu chuyện, là chi tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: dẫn dắt tình huống hợp lí. Kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn, nhân vật được miêu tả nội tâm khá phong phú. Những yếu tố đó góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm là tiếng nói cảm thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời cũng lên án tố cáo xã hội nam quyền và chiến tranh phi nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc và đẩy con người đến bước đường cùng.
Đề bài: Cảm nhận tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
Cảm nhận tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 1
Tác giả Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI và là học trò ưu tú của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dễ nhận thấy được các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam và trong đó nổi tiếng nhất chính là tác phẩm “Truyền kỳ Mạn Lục” trong đó tiêu biểu nhất là chuyện thứ 16 “Chuyện người con gái Nam Xương”. Trong tác phẩm này cũng đã thể hiện được niềm thương cảm sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với nhân vật Vũ Nương – một người con gái đẹp người, đẹp nết thế nhưng phải chịu những sự bất công trong xã hội cũ. Và đây cũng là nhân vật đem lại cho chúng ta nhiều cảm nghĩ nhất.
Đầu tiên người ta nhận thấy ngay được nhân vật Vũ Nương chính là một người phụ nữ mang rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo thế nhưng lại có nhan sắc và lại còn có đức hạnh, ai ai cũng mến yêu. Không thể phủ nhận được vẻ đẹp của Vũ Nương cũng mang vẻ đẹp của một người phụ nữ xưa. Chính vì vẻ đẹp cũng như đức hạnh của nàng khiến cho Trương Sinh say mê và xin mẹ 100 lạng vàng đi hỏi cưới Vũ Nương. Xuất phát từ một cuộc hôn nhân không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen tuông. Thế nhưng với Vũ Nương vẫn luôn giữ phép tắc trong đạo vợ chồng, nàng luôn là một người phụ nữ vô cùng thông minh, đôn hậu và biết giữ gìn khuôn phép không bao giờ để gia đình bị thất hòa. Tất cả những điều này cho thấy Vũ Nương là một người khéo léo và nết na.
Khi nàng phải sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải xa xôi. Trong một buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên thế nhưng đối với Vũ Nương lúc nào nàng cũng chỉ mong chồng có thể bình an trở về không mong gì hơn. Nguyễn Dữ cũng thật tài tình khi nàng không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương cũng còn được xây dựng lên chính là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo. Khi chồng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn một mình. Và để có thể mong bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản mà thôi. Rồi còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang cẩn thận phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Vũ Nương cũng đã làm chọn chữ công với nhà chồng. Thực sự có thể nhận thấy được đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương. Lý do chính bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe đến vậy.
Thực sự có thể nhận thấy được chính tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời với Vũ Nương. Đó chính là câu nói “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông qua đây chúng ta nhận thấy được nhân vật Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh thật đáng học hỏi.
Xây dựng lên nhân vật Vũ Nương còn là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó chính là một thú vui nghi gia, nghi thất – vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Nhưng dù có cố gắng như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời của Vũ Nương cũng giống như cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là một cuộc đời buồn và đầy những giọt nước mắt. Rồi sự bất hạnh của nàng ập đến khi người chồng trở về, cứ mong cảnh đoàn tụ vui vẻ sẽ đến với nàng nhưng không. Trương Sinh vốn ít học lại có thói ghen tuông khi nghe chuyện về cái bóng thôi là đã vội vàng kết tội cho Vũ Nương. Cho dù nàng có hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích mà thôi.
Chính Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi và bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Khi đã thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giãi tỏ nỗi lòng trong trắng của mình. Khi đó Vũ Nương đã tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu và nàng nhảy xuống sông để rồi tự vẫn.
Thông qua đây thì Nguyễn Dữ cũng đã thể hiện được chân lý “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người tác giả như không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Ngay ở phía sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lúc này cũng lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương trở về dù chỉ thấp thoáng trong giây lát thôi cũng cũng đã thể hiện được quan niệm của tác giả. Người phụ nữ trong xã hội cũ luôn bị rơi vào tình cảnh bị tước đoạt hạnh phúc, cho dù họ có tốt như nào đi chăng nữa thì vẫn bị các thế lực khác chà đạp vào mức đường cùng không lối ra.
Tác giả đã thông qua nhân vật Vũ Nương để tố cáo và lên án chiến tranh phi nghĩa làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người. Nguyễn Dữ xây dựng lên nhân vật Vũ Nương thật tài tình, đây là một nhân vật thể hiện được rất nhiều quan điểm nghệ thuật nhân sinh và giúp cho tác phẩm trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn.
Đề bài: Phân tích nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
Phân tích nhân vật Trương Sinh – mẫu 1
“Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất trong giai đoạn văn học thế kỉ XVI – XVII, được xem là “thiên cổ kì văn” xưa nay hiếm có. Nhân vật Trương Sinh tuy không được tác giả kỳ công trau chuốt nhưng chỉ bằng vài nét phác thảo đơn giản đã khiến nhân vật này nổi bậc, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Trước tiên, có thể nói, trong truyện cổ tích, nhân vật Trương Sinh là một loại nhân vật chức năng. Nhà văn xây dựng nhân vật này nhằm phát triển nội dung câu chuyện. Qua nhân vật chức năng thể hiện những thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến người đọc. Những hành động, lời nói của nhân vật chức năng chỉ nhằm làm nổi bật nhân vật trung tâm của truyện. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã hết sức chú ý đến chức năng này. Ông đã phát triển nhân vật chức năng này thành một nhân vật chính có vai trò quyết định đến sự phát triển của truyện. Tuy nhiên, những đặc điểm cơ bản của nhân vật chức năng vẫn hiện hữu một cách đầy đủ trong nhân vật Trương Sinh. Hệ thống nhân vật trong thiên truyện hết sức hạn chế. Có thể kể đến nhân vật chính là Vũ Nương rồi đến nhân vật trương Sinh, nhân vật bé Đản, người mẹ Trương Sinh và nhân vật đám đông (hàng xóm). Tất cả các nhân vật đều xoay quanh tình huống truyện được xây dựng gây cấn, đầy kịch tính. Trong thiên truyện, Trương Sinh đóng vai trò là người tạo dựng nên thảm kịch đối với người vợ Vũ Nương từ tình huống ngộ nhận sự việc một cách mù quáng. Từ lời nói hồn nhiên của con trai, Trương Sinh đã thiếu suy nghĩ nên tự mình hình dung Vũ Nương, vợ chàng, đã không giữ gìn khí tiết, gian díu với người ngoài trong thời gian chàng đi lính. Chính từ suy nghĩ sai lầm ban đầu ấy đã dẫn đến hàng loạt hành động vô tâm, tàn bạo của chàng đối với Vũ Nương. Từ đó khiến nàng phải tìm đến cái chết.
Trong xã hội phong kiến, vị trí của người đàn ông vốn rất được đề cao. Bên cạnh đó, trách nhiệm của họ đối với bản thân, gia đình và đất nước cũng được cũng hết sức lớn lao. Người làm trai trong xã hội xưa luôn có khát vọng tìm kiếm công danh. Họ luôn khát khao làm những điều lớn lao, xứng đáng là bậc anh hùng lưu danh hậu thế. Có thể nói khát vọng công danh là một lý tưởng sáng ngời mà bất cứ người làm trai nào cũng suốt đời theo đuổi. Đó cũng là chuẩn mực để xã hội đánh giá về một người đàn ông trong xã hội. Nói như Nguyễn Công Trứ: “không công danh thà nát với cỏ cây” là muốn khẳng định cái mục đích cao thượng ấy.
Có hai con đường tìm kiếm công danh, sự nghiệp ở đời. Một là chăm chỉ đèn sách đợi ngày kinh thi ứng thí đạt lấy danh hiệu mà ra làm quan vinh quy bái tổ, làm rạng rỡ danh gia vọng tộc. Không những bản thân được kính trọng mà người thân, quyến thuộc cũng được thơm lây. Là người đi học không ai không mong ước điều này. Hoặc là đầu quân làm lính, xông pha trận mạc, giết giặc lập công được phong hầu phong tước. Tuy có mạo hiểm tính mạng nhưng con đường đi đến sự nghiệp có đôi phần dễ thành. Không những có được danh vọng mà còn có công với đất nước, sự nghiệp anh hùng vẻ vang. Ở nhân vật Trương Sinh, chàng không hề có khát vọng công danh, sự nghiệp. Chàng dễ dàng chấp nhận sống cuộc đời bình thường theo kiểu nữ nhi thường tình. Là con nhà hào phú, chàng có điều kiện để học hành thành tài hơn hẳn người khác. Đó cũng là điều mà cha mẹ chàng luôn mong ước. Thế nhưng, chàng ham chơi hơn ham học, thích an nhàn hơn sống cuộc đời mãnh liệt vẻ vang. Tiếng đời tuy không gièm pha nhưng lòng kính trọng cũng không có. Đó cũng là nỗi buồn của mẹ chàng dù bà đã không nói ra. Bởi thế, hình ảnh Trương Sinh bị lẩn khuất trong hệ thống các nhân vật nam trong văn học, không hề có tiếng tăm gì.
Cha trương Sinh sớm qua đời. Một mình chàng ngày đêm chăm lo phụng dưỡng mẹ già. Đó là nghĩa cử hiếu thảo. Trương Sinh cũng đã ý thức lấy được người là “vợ hiền dâu thảo”. Lại sinh được con trai nối dõi tông đường, gìn giữ cho muôn đời sau. Đó là người con có hiếu, có trách nhiệm với gia tộc. Thế nhưng, chữ hiếu của chàng đã không thể thực hiện trọn vẹn. Vì biên cương giặc dã mà chàng phải ra trận, chưa định ngày về. Trong khi mẹ già ngày càng yếu sức, rất cần được phụng dưỡng, kề cận. Khi chàng chưa kịp trở về thì người mẹ đã nhắm mắt xuôi tay. Có lẽ, chi tiết này, tác giả xây dựng để đi đến tình huống hiểu nhầm vợ của Trường Sinh. Đồng thời qua đó bộ lộ đức tính hiếu thảo, tận tâm tận tình của nhân vật Vũ Nương. Thế nhưng điều đó vô tình biến Trương Sinh thành đứa con bất hiếu.
Trong truyền thống Việt Nam ta, khi cha mẹ qua đời mà không được nhìn thấy mặt con, linh hồn sẽ không được siêu thoát. Người con nào không thể về gặp mặt cha mẹ lần cuối cùng cũng phải mang tội bất hiếu. Khi trở về, hay tin mẹ đã mất, Trương Sinh vô cùng đau buồn. Chàng đau buồn vì mẹ già đã không thể gắng gượng đợi ngày chàng về. Chàng cũng buồn vì mình chưa làm trọn đạo hiếu với mẹ. Vốn yêu mến đức hạnh của Vũ Nương, Trương Sinh xin mẹ trăm lạng bạc cưới nàng về làm vợ. Đó là một lựa chọn đúng đắn và đầy trách nhiệm. Tưởng chừng chàng sẽ hài lòng và hết mực yêu thương vợ mình. Thế nhưng, người đọc hết sức bất ngờ khi nhìn thấy cuộc sống gia đình sau đó. Vũ Nương rất thấu hiểu tính chồng hay ghen nên luôn cẩn trọng. Nàng ứng xử chừng mực, biết giữ gìn khuôn phép, vợ chồng chưa lúc nào dẫn đến bất hòa. Bởi thế mà nàng luôn trong căng thẳng bởi cái tính đa nghi và hay ghen của Trương Sinh. Lại thêm chàng là người độc đoán, hành động hồ đồ, không hề tin tưởng ở vợ. Không ít lần chàng lần gây tổn thương đối với vợ. Áp lực ấy cứ tồn tại âm ỉ như ngọn lửa tàn ác. Chỉ cần một lý do nhỏ cũng có thể bùng cháy lớn. Lúc ở nhà, Trương Sinh đã ghen tuông như vậy. Khi ngoài mặt trận, lòng ghen còn lớn hơn.
Vũ Nương tuy con nhà nghèo khó, chưa gây dựng được điều gì lớn lao cho nhà Trương Sinh nhưng nàng đã sinh hạ được người con trai giúp Trương Sinh có người nối dõi. Lại thêm những ngày Trương Sinh đi lính, nàng một mình nuôi con nhỏ, phụng dưỡng mẹ chàng hết sức chu đáo. Khi mẹ mất, nàng lo ma chay tế lễ hết sức vẹn toàn. Nghĩa cử đó khiến ai ai cũng cảm phục. Công ơn ấy đến hết cuộc đời, Trương Sinh cũng không thể đền đáp nổi. Thế mà, chỉ vì ghen tuông mù quáng mà chàng đã quên đi tất cả, sẵn sàng phụ bạc, ruồng bỏ người vợ hiền đức ấy. Cái chết của Vũ Nương là cái chết đầy oan ức. Nhưng đấy có thể lại là điều Trương Sinh và xã hội phong kiến mong muốn. Bởi người phụ nữ trong xã hội xưa là lớp người nhỏ bé, không có danh phận. Cuộc đời và số phận của họ phụ thuộc nhiều vào người đàn ông. Mặt khác, tội lỗi gian tình bị coi là một trong những trọng tội và là điều sỉ nhục bậc nhất của con người. Trương Sinh vì thế mà khó chấp nhận Vũ Nương tiếp tục sống trong gia đình. Cái chết đến với nàng như một điều tất yếu vậy.
Tuy tác giả không đề cập đến vấn đề này nhưng người đọc cũng nhận rõ suy nghĩ của chàng. Thế nên, khi Vũ Nương trầm mình xuống dòng sông, chàng có đi tìm vớt xác nàng nhưng không hề khóc thương hay hối hận. Vũ Nương chết oan khuất, chàng cũng không hề cầu siêu cho linh hồn nàng. Khi biết rõ sự tình vợ mình bị nghi oan, chàng cũng không hề hối lỗi, cũng không hề truy niệm công đức của nàng để linh hồn nàng nơi chín suối được yên nghỉ.
Khi nghe Phan Lang nói đã gặp Vũ Nương ở dưới cung nước Linh Phi, lúc đầu chàng hoài nghi không tin tưởng. Chàng cho rằng Phan Lang đã bịa chuyện ma quỷ. Nếu trong lòng trương Sinh còn nghĩa còn tình thì chỉ cần nghe nói thế đã hồ hởi hỏi tiếp. Nếu trong lòng Trương Sinh còn nhớ đến Vũ Nương và luôn mong nàng tha thứ thì chàng đã khóc thương. Cái bản ngã đàn ông quá lớn khiến Trương Sinh trở thành người vô cảm, không còn chút tình người.
Khi Vũ Nương trở về trên chiếc thuyền hoa mờ ảo, nói lời chia biệt, Trương Sinh đã không tha thiết mong nàng tha thứ và trở về cùng chàng và con. Vũ Nương trở về để chàng có cơ hội bù đắp cho những thiệt thòi mà nàng đã gánh chịu. Nàng trở về để Trương Sinh sửa chữa lỗi lầm của mình. Nàng trở về để con chàng có mẹ, được lớn lên trong vòng tay mẹ. Cái sĩ diện người đàn ông cùng với bản tính cố chấp khiến Trương Sinh hững hờ. Chàng chỉ van gọi nhưng không hề thành khẩn, thiết tha. Vũ Nương đã không trở về. Bởi nàng tự biết, xã hội phong kiến đã không còn nơi nào để nàng dung thân nữa rồi. Chi tiết ấy là lời khẳng định mạnh mẽ Trương Sinh quả thực là một người ích kỉ, cạn tình bạc nghĩa đến tận cùng.
Hậu thuẫn phía sau nhân vật Trương Sinh là cả xã hội phong kiến nam quyền tàn bạo, bất nhân đã tàn nhẫn chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm, tước đoạt quyền sống, quyền làm người của người phụ nữ. Mọi hành động của Trương Sinh đều xuất phát từ những lý do được cho là hợp lý theo lễ giáo của xã hội ấy dù nó mang đến tai họa và thảm kịch cho người khác. Thế nên, Trương Sinh đã hết sức bình tĩnh. Một sự bình tĩnh đến tàn ác.
Dù nhân vật này không được tác giả chú trọng xây dựng nhưng lại có sức biểu đạt sâu sắc. Đó cũng là dụng ý của ông. Cái xã hội phong kiến mục ruỗng cùng với những quy định khắt khe của nó ấy dù không nổi bậc nhưng lại có sức ảnh hưởng âm thầm ghê gớm. Nó giống như một sợi dây vô hình siết chặt và quyết định vận mệnh con người.
Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 9 (sách mới) | Giải bài tập Hóa 9
- Giải sbt Hóa học 9
- Giải vở bài tập Hóa học 9
- Lý thuyết Hóa học 9
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 9
- Giải sgk Toán 9 (sách mới) | Giải bài tập Toán 9 Tập 1, Tập 2
- Giải sbt Toán 9
- Lý thuyết Toán 9
- Các dạng bài tập Toán lớp 9
- Giáo án Toán lớp 9 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 9 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 9 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 9 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 9 (sách mới) | Để học tốt Tiếng Anh 9
- Giải sbt Tiếng Anh 9
- Giải sbt Tiếng Anh 9 (thí điểm)
- Giải sgk Sinh học 9 (sách mới) | Giải bài tập Sinh học 9
- Giải vở bài tập Sinh học 9
- Lý thuyết Sinh học 9
- Giải sbt Sinh học 9
- Giải sgk Vật Lí 9 (sách mới) | Giải bài tập Vật lí 9
- Giải sbt Vật Lí 9
- Lý thuyết Vật Lí 9
- Các dạng bài tập Vật lí lớp 9
- Giải vở bài tập Vật lí 9
- Giải sgk Địa Lí 9 (sách mới) | Giải bài tập Địa lí 9
- Lý thuyết Địa Lí 9
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 9
- Giải sgk Tin học 9 (sách mới) | Giải bài tập Tin học 9
- Lý thuyết Tin học 9
- Lý thuyết Giáo dục công dân 9
- Giải vở bài tập Lịch sử 9
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 9
- Lý thuyết Lịch sử 9
- Lý thuyết Công nghệ 9