TOP 12 mẫu Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (2025) hay, ngắn gọn - Chân trời sáng tạo

Với Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Ngữ văn lớp 12 hay, ngắn gọn sách Chân trời sáng tạo giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc từ đó học tốt môn Ngữ văn 12.

1 32 03/12/2024


Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Chân trời sáng tạo

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 1

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: là bài văn tế những người nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú Đường luật gồm bốn phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết.

- Phần 1: Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang như mõ): khái quát bối cảnh của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân. Đất nước bị xâm lăng trong cái dữ dội, ác liệt. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Trước sự làm ngơ của triều đình nhà Nguyễn đã đặt người nông dân vào thử thách lịch sử, một khung cảnh bão táp của thời đại, vận nước là thước đo lòng người, những biến cố chính trị lớn lao. Người nghĩa sĩ không coi trọng chuyện được mất, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.

- Phần 2: Thích thực (từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng nổ): kể về nguồn gốc, phẩm hạnh, công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là những người nông dân 100% mộc mạc, chất phác sau lũy tre làng nhưng suốt đời vẫn nghèo khó. Họ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, quen việc quốc, cày, bừa, cấy và hoàn toàn xa lạ với việc nhà binh: tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… Mặc dù khi vào trận đánh họ có nhiều thiếu thốn nhưng họ tự nguyện đứng lên kiên quyết xông pha vào mặt trận: “nào đợi ai đòi ai bắt”, “ra sức đoạn kình”, “ra tay bộ hổ” và giành được nhiều thắng lợi.

- Phần 3: Ai vãn (từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ): Bày tỏ lòng thương tiếc, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ. Đó là tiếng khóc quặn lòng cho một thời đại bi thương: Già trẻ trai gái Trường Bình khóc,chùa Tông Thạnh khóc, cây cỏ khóc, sông Cần Giuộc khóc, tác giả khóc. Đó cũng là tiếng khóc thể hiện niềm tự hào.

- Phần 4: Khốc tận (Kết) đoạn còn lại: Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ. Tác giả đề cao quan niệm cao đẹp: Chết vinh còn hơn sống nhục. Nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân, họ ra trận không cần công danh, bổng lộc, gượng ép mà chỉ vì một điều rất đơn giản là lòng yêu nước, thương dân.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

(Ảnh: Tượng Đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 2

Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu làm để đọc tại buổi truy điệu những anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Mặc dù diệt trừ được một số quan quân của giặc và bọn quan lại bán nước nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh quả cảm, để lại niềm xúc động lớn lao, khôn xiết trong lòng nhân dân. Chính vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng phần nào thể hiện tiếng lòng xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 3

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế - tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ - người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 4

Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kỳ lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kỳ một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc - những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 5

Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu làm để đọc tại buổi truy điệu những anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Mặc dù diệt trừ được một số quan quân của giặc và bọn quan lại bán nước nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh quả cảm, để lại niềm xúc động lớn lao, khôn xiết trong lòng nhân dân. Chính vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng phần nào thể hiện tiếng lòng xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 6

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công lao của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 7

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn tế những những nghĩa sĩ nông dân đã anh dũng chiến đấu, hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Bài văn tế kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 8

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế tôn vinh những người nông dân nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Bài văn được viết theo thể phú Đường luật và chia thành bốn phần.

Phần đầu tiên, Lung khởi, miêu tả bối cảnh của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân trong bối cảnh đất nước đang bị xâm lăng và ác liệt.

Phần Thích thực kể về nguồn gốc, phẩm hạnh và công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người nông dân chất phác và bền bỉ.

Phần Ai vãn bày tỏ lòng thương tiếc và sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với những người nghĩa sĩ đã hi sinh.

Phần Khốc tận (Kết) ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ, đề cao quan niệm cao đẹp về sự hy sinh vì nghĩa quân và tình yêu nước.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 9

"Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc" là văn tế viết theo thể phú Đường Luật để tóm tắt cần đọc kĩ để hiểu nội dung. Đây là các ý tóm tắt nội dung của bài:

- Kẻ thù vũ khí tối tân, hiện đại còn người dân chỉ có lòng yêu nước.

- Mười năm vỡ ruộng ko ai biết đến một trận đánh tây tiếng vang như mõ.

- Xa với việc binh đao nhưng khi giặc pháp chiếm trở thành người nghĩa sĩ.

- Ban đầu lo sợ, căm ghét giặc nhưng chỉ biết chờ đợi triều đình.

- Nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước.

- Anh dũng đứng dậy đấu tranh.

- Nỗi tiếc thương vô hạn không chỉ của lòng người mà còn của cỏ cây hoa lá đối với người nghĩa sĩ.

- Niềm cảm phục trước quan niệm cao đẹp "sống vinh còn hơn chết nhục".

- Ca ngợi khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng dân.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 10

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Văn tế (hiện nay thường gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng trong các nghi lễ tế, cúng người đã khuất. Bài văn tế thường bao gồm các phần: Lung khởi (cảm tưởng chung về người đã qua đời); Thích thực (tưởng nhớ công đức của người đã mất); Ai vãn (bày tỏ lòng than khóc); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời kính mời của người viết đối với linh hồn người đã khuất). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng có đủ bốn phần như vậy.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ - người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện 'ruộng trâu ở trong làng bộ' nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 11

Tác phẩm này là một bài văn tế, viết để tôn vinh những nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích tại đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Nó kể về cuộc chiến đấu dũng cảm, sự hi sinh của các nghĩa sĩ và thể hiện sự đau buồn, mất mát, lòng biết ơn của những người còn sống đối với những người đã ra đi.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 12

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân dũng cảm đã đứng lên chống giặc. Năm 1858, quân Pháp xâm lược Đà Nẵng, dân Nam Bộ đồng lòng chống lại giặc. Vào đêm 14 - 12 năm 1861, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, Gia Định, gây tổn thất cho kẻ thù, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, nhưng chứa đựng tình cảm chân thành của Đồ Chiểu dành cho những người hy sinh vì nền nghĩa lớn.

Tìm hiểu văn bản Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

1. Thể loại

- Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thuộc thể loại: văn tế (điếu văn).

2. Xuất xứ

- Theo Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX (1858 – 1900), NXB Văn học, 1976, tr.51 – 55; có tham khảo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang, Nguyễn Thị Dương biên soạn, NXB Đại học sư phạm, 2003.

3. Hoàn cảnh sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Hoàn cảnh sáng tác: đêm 16 – 12 – 1861, 20 nghĩa quân đã hi sinh trong trận chiến tấn công đồn Cần Giuộc. Chính vì thế Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này để ghi nhận công lao của những người nông dân áo vải trở thành những anh hùng đó.

4. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

5. Bố cục Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

- Phần 1 (từ đầu đến “tiếng vang như mõ”) – phần Lung khởi: Khái quát về cuộc đời những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

- Phần 2 (từ “Nhớ linh xưa” đến “tàu đồng súng nổ”) – phần Thích thực: Kể lại cuộc đời, công đức của những người nghĩa sĩ.

- Phần 3 (từ “Ôi!” đến “cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”) – phần Ai vãn: Lời thương tiếc trước sự ra đi của người đã khuất.

- Phần 4 (đoạn còn lại) – phần Kết: Lòng biết ơn, sự khẳng định đối với những công lao, phẩm tiết của những người nghĩa sĩ.

6. Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.

7. Giá trị nội dung

- Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta.

- Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kỳ lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kỳ một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc - những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

8. Giá trị nghệ thuật

- Ngôn ngữ chân thực, giàu cảm xúc

- Lời văn biền ngẫu, uyển chuyển, giàu hình ảnh

- Thủ pháp liệt kê, đối lập,...

1 32 03/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: