Thông tư 03/2012/TT-BYT hướng dẫn thử thuốc trên lâm sàng
Số hiệu: | 03/2012/TT-BYT | Loại văn bản: | Thông tư |
Nơi ban hành: | Bộ Y tế | Người ký: | Nguyễn Thị Kim Tiến |
Ngày ban hành: | 02/02/2012 | Ngày hiệu lực: | 20/03/2012 |
Ngày công báo: | 08/02/2012 | Số công báo: | Từ số 153 đến số 154 |
Lĩnh vực: | Y tế | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/02/2021 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Cấm thử thuốc lâm sàng khi chưa được phép
Người tham gia thử thuốc trên lâm sàng phải được tuyển chọn theo đúng các nguyên tắc về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học.
Nội dung này được quy định trong Thông tư 03/2012/TT-BYT vừa được Bộ trưởng Bộ Y Tế ký ban hành ngày 02/02/2012 hướng dẫn về thử thuốc lâm sàng (LS).
Đồng thời, thuốc thử LS phải đảm bảo các yêu cầu: đã được nghiên cứu ở giai đoạn tiền LS, có tài liệu chứng minh tính an toàn để có thể thử nghiệm các giai đoạn tiếp theo; có công thức, dạng bào chế và quy trình bào chế ổn định; có kết quả nghiên cứu thử LS các giai đoạn trước nếu đề nghị thử thuốc trên LS giai đoạn tiếp theo; đạt tiêu chuẩn chất lượng theo hồ sơ đăng ký thử thuốc trên LS; nhãn thuốc có dòng chữ “Sản phẩm dùng cho thử LS. Cấm dùng cho mục đích khác”.
Bên cạnh đó, Thông tư cũng quy định các hành vi bị nghiêm cấm như: thử thuốc trên LS khi chưa được phép của BYT; tự ý sửa đổi, bổ sung nội dung hồ sơ, đề cương nghiên cứu đã được BYT phê duyệt; sử dụng thuốc thử LS vào các mục đích khác; ép buộc đối tượng tham gia nghiên cứu hoặc che dấu thông tin, hoặc không cung cấp thông tin theo quy định dành cho người tham gia nghiên cứu.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 20/3/2012.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Thông tư này hướng dẫn về thuốc phải thử lâm sàng, miễn thử lâm sàng, miễn một số giai đoạn thử lâm sàng; điều kiện thử thuốc trên lâm sàng; đăng ký, thẩm định, phê duyệt thử thuốc trên lâm sàng, các giai đoạn thử thuốc trên lâm sàng; quyền và nghĩa vụ của các đối tượng liên quan; giám sát, kiểm tra, nghiệm thu đánh giá kết quả thử thuốc trên lâm sàng ở Việt Nam phục vụ cho việc nghiên cứu, cho phép lưu hành các loại thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế, vắc xin và thuốc đông y, thuốc từ dược liệu sử dụng trong chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh trực tiếp trên người (sau đây được gọi chung là thuốc).
Trong Thông tư này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Nước tham chiếu là một trong các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật Bản, Úc, Canada hoặc Cơ quan quản lý các sản phẩm y tế của Châu Âu (European Medicines Agency - EMA).
2. Nghiên cứu đa trung tâm là một thử nghiệm lâm sàng được tiến hành ở hai trung tâm nghiên cứu trở lên để bảo đảm tính phổ quát về số lượng người tham gia thử thuốc trên lâm sàng, các yếu tố nhân khẩu học hoặc nhân chủng học đa dạng hơn.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, phân phối thuốc có nhu cầu thử thuốc của mình trên lâm sàng.
4. Tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng là các cơ sở y tế có chức năng nghiên cứu khoa học, có đủ điều kiện về nhân lực chuyên môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc thực hiện thử thuốc trên lâm sàng và được Bộ Y tế thẩm định, cho phép.
5. Người tham gia thử thuốc trên lâm sàng là người bệnh hoặc người tình nguyện khoẻ mạnh tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
6. Tổ chức nghiên cứu lâm sàng (Contract Research Orgnization: CRO) là tổ chức có tư cách pháp nhân, có năng lực chuyên môn phù hợp theo quy định của Bộ Y tế, độc lập với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng, được tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng ký hợp đồng để thực hiện các công việc hỗ trợ cho nghiên cứu như viết đề cương nghiên cứu, giám sát nghiên cứu, phân tích dữ liệu.
7. Tổ chức quản lý địa điểm nghiên cứu (Site Management Organization: SMO) là tổ chức có tư cách pháp nhân, đủ năng lực theo quy định của Bộ Y tế, độc lập với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng, tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng được tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng hoặc tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng ký hợp đồng để thực hiện các công việc hỗ trợ cho việc quản lý địa điểm nghiên cứu.
8. Dữ liệu lâm sàng nước ngoài là phương pháp, kết quả nghiên cứu lâm sàng đã được thực hiện ở nước ngoài.
9. Yếu tố chủng tộc là các yếu tố liên quan đến nhóm dân cư lớn có chung các đặc tính về di truyền, văn hóa, tập quán và môi trường sống.
10. Các quy định quốc tế về thử thuốc trên lâm sàng được Bộ Y tế công nhận là các hướng dẫn thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của khối các khu vực nằm trong Hội nghị hài hoà quốc tế về sử dụng dược phẩm trên người (ICH) và hướng dẫn thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng (Good Clinical Practice - GCP) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
1. Việc thử thuốc trên lâm sàng phải theo đúng quy định của Thông tư này, các quy định của pháp luật về khoa học công nghệ, thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Người tham gia thử thuốc trên lâm sàng phải được tuyển chọn theo đúng các nguyên tắc về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học.
1. Thử thuốc trên lâm sàng khi chưa được phép của Bộ Y tế.
2. Tự ý sửa đổi, bổ sung nội dung hồ sơ, đề cương nghiên cứu đã được Bộ Y tế phê duyệt.
3. Sử dụng thuốc thử lâm sàng vào các mục đích khác.
4. Ép buộc đối tượng tham gia nghiên cứu hoặc che dấu thông tin hoặc không cung cấp thông tin theo quy định dành cho người tham gia nghiên cứu.
1. Đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế:
a) Thuốc hóa dược chứa dược chất mới, thuốc có sự kết hợp mới của các dược chất đã lưu hành.
b) Sinh phẩm y tế lần đầu tiên được phát minh hoặc có sự kết hợp mới của các thành phần đã được lưu hành.
c) Thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế nước ngoài đã được lưu hành hợp pháp nhưng chưa đủ 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép).
d) Thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế đã thử lâm sàng trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực nhưng chưa đáp ứng các quy định về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế hoặc các hướng dẫn của quốc tế về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng được Bộ Y tế công nhận.
2. Đối với vắc xin:
a) Vắc xin mới được nghiên cứu, sản xuất và lần đầu tiên được sử dụng.
b) Vắc xin nước ngoài đã được lưu hành hợp pháp nhưng chưa đủ 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép).
c) Vắc xin đã thử lâm sàng trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực nhưng chưa đáp ứng các quy định về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế hoặc các hướng dẫn của quốc tế về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng được Bộ Y tế công nhận.
3. Đối với thuốc đông y, thuốc từ dược liệu:
a) Thuốc có chứa dược liệu mới lần đầu sử dụng trên người.
b) Thuốc đã thử lâm sàng trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực nhưng chưa đáp ứng các quy định về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế hoặc các hướng dẫn của quốc tế về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng được Bộ Y tế công nhận.
1. Đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế:
a) Thuốc hóa dược mang tên gốc (thuốc generic).
b) Thuốc nước ngoài chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó xác nhận là an toàn và hiệu quả, có cùng đường dùng, hàm lượng và có chỉ định ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
c) Thuốc nước ngoài đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam, nhưng có thay đổi hoặc bổ sung về chỉ định mới, đường dùng mới, dạng bào chế mới giống như chỉ định, đường dùng, dạng bào chế của thuốc đó đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép).
2. Đối với vắc xin:
a) Vắc xin nước ngoài đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam còn hiệu lực, được nhập khẩu vào Việt Nam để hoàn thành giai đoạn dán nhãn, vào hộp.
b) Vắc xin đăng ký lại tại Việt Nam do hết hiệu lực số đăng ký và không có bất kỳ thay đổi nào.
3. Đối với thuốc đông y, thuốc từ dược liệu:
a) Các bài thuốc đông y được Bộ Y tế công nhận.
b) Thuốc đông y, thuốc từ dược liệu nước ngoài chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó xác nhận là an toàn và hiệu quả, có cùng đường dùng, hàm lượng và có chỉ định ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
1. Đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế:
Thuốc nước ngoài đã có số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng có thay đổi hoặc bổ sung về chỉ định mới, đường dùng mới, dạng bào chế mới khác với chỉ định, đường dùng, dạng bào chế của thuốc đang được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) phải thực hiện:
a) Thử lâm sàng đánh giá về tính an toàn;
b) Thử lâm sàng đánh giá về tính hiệu quả trong trường hợp chưa thử lâm sàng đánh giá về tính hiệu quả hoặc đã thử lâm sàng đánh giá về tính hiệu quả nhưng chưa đáp ứng các quy định về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế hoặc các hướng dẫn của quốc tế về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng được Bộ Y tế công nhận.
2. Đối với vắc xin:
a) Thử lâm sàng đánh giá về tính an toàn đối với:
- Vắc xin nước ngoài chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam, đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó xác nhận là an toàn và hiệu quả, có cùng đường dùng, hàm lượng và có chỉ định ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
- Vắc xin sản xuất tại Việt Nam được làm từ sản phẩm chờ đóng gói nhập khẩu từ nước ngoài mà thành phẩm của vắc xin đó đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép).
- Vắc xin đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng thay đổi hoặc bổ sung tá dược, chất bảo quản, thay đổi cơ sở sản xuất (không thay đổi quy trình sản xuất).
b) Thử lâm sàng đánh giá về tính an toàn và tính sinh miễn dịch ở giai đoạn 3 đối với:
- Vắc xin nước ngoài đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) chuyển giao công nghệ sản xuất tại Việt Nam.
- Vắc xin sản xuất tại Việt Nam được làm từ sản phẩm trung gian nhập khẩu mà thành phẩm của vắc xin đó đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép).
- Vắc xin đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng thay đổi hoặc bổ sung một trong những nội dung: quy trình sản xuất, dạng bào chế, chỉ định, đối tượng sử dụng (lứa tuổi, giới tính, chủng tộc), đường dùng, liều dùng, lịch tiêm chủng.
3. Đối với thuốc đông y, thuốc từ dược liệu:
Thử lâm sàng đánh giá về tính an toàn đối với thuốc đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam và các bài thuốc đông y được Bộ Y tế công nhận nhưng có thay đổi hoặc bổ sung về chỉ định, đường dùng, công thức, dạng bào chế khác với chỉ định, đường dùng, công thức, dạng bào chế của thuốc đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép).
Bộ trưởng Bộ Y tế xem xét quyết định miễn một số giai đoạn thử thuốc trên lâm sàng trên cơ sở tư vấn của Hội đồng Tư vấn cấp số đăng ký lưu hành thuốc và Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Bộ Y tế đối với các trường hợp sau:
1. Thuốc dùng trong các trường hợp đặc biệt, khẩn cấp liên quan đến an ninh sức khỏe gồm:
a) Thuốc hóa dược, sinh phẩm y tế, vắc xin đã được lưu hành hợp pháp nhưng chưa đủ 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép), đã có dữ liệu thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm được tiến hành tại Việt Nam và Châu Á, kết quả nghiên cứu chứng minh đạt an toàn và hiệu quả, có cùng hàm lượng, chỉ định và đường dùng ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
b) Thuốc hóa dược, thuốc đông y, thuốc từ dược liệu đáp ứng yêu cầu điều trị đặc biệt, thuộc danh mục thuốc hiếm do Bộ Y tế ban hành, có dạng bào chế đặc biệt trong nước chưa sản xuất được, chưa có thuốc thay thế mà không có thuốc đó sẽ ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh, chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam, đã được lưu hành hợp pháp nhưng chưa đủ 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó xác nhận là an toàn và hiệu quả, có cùng đường dùng, hàm lượng và có chỉ định ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
c) Vắc xin dùng để phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh hoặc các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao, chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam, đã được lưu hành hợp pháp nhưng chưa đủ 05 năm tại nước xuất xứ (hoặc nước tham chiếu nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho phép) và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó xác nhận là an toàn và hiệu quả, có cùng đường dùng, hàm lượng và có chỉ định ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
2. Thuốc đã có kết quả nghiên cứu từ các công trình, đề tài nghiên cứu cấp Bộ hoặc tương đương trở lên được thực hiện trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực mà đã thực hiện theo đúng quy định của Thông tư này và các hướng dẫn về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng, được hội đồng khoa học công nghệ cấp Bộ hoặc tương đương trở lên nghiệm thu đánh giá đạt yêu cầu và đề nghị cho phép áp dụng rộng rãi.
Thuốc thử lâm sàng phải bảo đảm các yêu cầu sau:
1. Đã được nghiên cứu ở giai đoạn tiền lâm sàng, có các tài liệu chứng minh tính an toàn để có thể thử nghiệm các giai đoạn tiếp theo.
2. Có công thức, dạng bào chế và quy trình bào chế ổn định.
3. Có kết quả nghiên cứu thử lâm sàng các giai đoạn trước nếu đề nghị thử thuốc trên lâm sàng giai đoạn tiếp theo.
4. Đạt tiêu chuẩn chất lượng theo hồ sơ đăng ký thử thuốc trên lâm sàng.
5. Nhãn thuốc thử lâm sàng có dòng chữ “Sản phẩm dùng cho thử lâm sàng. Cấm dùng cho mục đích khác”.
Hồ sơ đăng ký thử thuốc trên lâm sàng bằng tiếng Việt (01 bản gốc có chữ ký, đóng dấu hợp pháp và 03 bản sao) gồm:
1. Đơn đề nghị thử thuốc trên lâm sàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng (Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư này).
2. Hồ sơ sản phẩm dành cho nghiên cứu viên bằng tiếng Việt hoặc bằng tiếng Anh kèm theo bản tóm tắt bằng tiếng Việt (Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư này).
3. Đơn đề nghị thẩm định, xét duyệt đề cương nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng của tổ chức nhận thử (Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư này).
4. Hợp đồng hợp tác nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử và tổ chức nhận thử và hợp đồng hợp tác giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử với tổ chức nghiên cứu lâm sàng, tổ chức quản lý địa điểm nghiên cứu nếu có (Phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư này).
5. Thuyết minh đề cương nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng (Phụ lục 5 ban hành kèm theo Thông tư này).
6. Lý lịch khoa học và Giấy chứng nhận về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của nghiên cứu viên chính/ chủ nhiệm đề tài do Bộ Y tế hoặc do các tổ chức được Bộ Y tế công nhận cấp.
7. Bản cung cấp thông tin về nghiên cứu và phiếu tình nguyện tham gia nghiên cứu (Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này).
8. Biên bản đánh giá về mặt khoa học và đạo đức trong nghiên cứu của hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp cơ sở (tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng).
9. Văn bản xác nhận tham gia của các tổ chức nghiên cứu đối với nghiên cứu đa trung tâm tại Việt Nam.
10. Văn bản chấp thuận tham gia nghiên cứu của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với các nghiên cứu tại thực địa.
11. Các tài liệu về thuốc thử lâm sàng, gồm:
a) Tài liệu nghiên cứu về thuốc: thành phần công thức, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng, phiếu kiểm nghiệm thuốc (đối với thuốc hóa dược, thuốc đông y, thuốc từ dược liệu: phiếu kiểm nghiệm của cơ quan kiểm nghiệm thuốc trung ương hoặc của nhà sản xuất đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP); đối với vắc xin: phiếu kiểm nghiệm chất lượng của cơ quan kiểm định quốc gia hoặc chứng nhận xuất xưởng đối với lô vắc xin, sinh phẩm của cơ quan quản lý thuốc quốc gia nước sở tại).
b) Tài liệu nghiên cứu tiền lâm sàng của thuốc cần thử: các báo cáo nghiên cứu về tác dụng dược lý, độc tính, tính an toàn, đề xuất về liều dùng, đường dùng, cách sử dụng.
c) Tài liệu nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng các giai đoạn trước (nếu đề nghị thử thuốc trên lâm sàng ở giai đoạn tiếp theo).
12. Bản sao có chứng thực giấy chứng nhận sản phẩm (CPP) hoặc giấy phép lưu hành thuốc (FSC) và giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP) của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với các thuốc đề nghị nghiên cứu thử lâm sàng đánh giá về tính an toàn, thử lâm sàng giai đoạn 4.
13. Nhãn thuốc nghiên cứu theo quy định tại khoản 5 Điều 9 Thông tư này và ảnh chụp mẫu thuốc nghiên cứu.
1. Tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng phải đạt các tiêu chí về thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng (GCP); độc lập về kinh tế, tổ chức nhân sự đối với cá nhân, tổ chức có thuốc thử trên lâm sàng và cam kết thực hiện thử nghiệm lâm sàng hoàn toàn không có bất kỳ xung đột lợi ích nào giữa các bên tham gia.
2. Nghiên cứu viên chính thử thuốc trên lâm sàng phải là người có trình độ kiến thức sâu về chuyên ngành, kinh nghiệm lâm sàng, năng lực thực hành bảo đảm các nguyên tắc thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng, nắm vững các quy định thử thuốc trên lâm sàng, có khả năng triển khai thực hiện đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt đầy đủ, đúng tiến độ, có giấy chứng nhận GCP do Bộ Y tế hoặc do các tổ chức được Bộ Y tế công nhận cấp.
3. Nghiên cứu viên phải là người có kiến thức chuyên ngành phù hợp, được tập huấn về những nội dung và kỹ năng cần thiết để thực hiện nghiên cứu, có giấy chứng nhận GCP do Bộ Y tế hoặc do các tổ chức được Bộ Y tế công nhận cấp.
1. Người tham gia thử thuốc trên lâm sàng phải là người tình nguyện, đáp ứng yêu cầu chuyên môn và phải ký cam kết với tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng, trừ trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có năng lực hành vi dân sự.
2. Trường hợp người tham gia thử thuốc trên lâm sàng chưa đủ 18 tuổi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có năng lực hành vi dân sự thì phải được sự đồng ý của người đại diện theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp người thử thuốc trên lâm sàng là phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú: Hồ sơ nghiên cứu phải nêu rõ lý do tuyển chọn đối tượng này và phải được sự phê duyệt của Bộ trưởng Bộ Y tế trên cơ sở xem xét, thẩm định đề cương nghiên cứu về tính khoa học, tính đạo đức của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Bộ Y tế.
1. Kinh phí phải được cấp đủ để hoàn thành các hoạt động trong toàn bộ quá trình thử thuốc trên lâm sàng (bao gồm các mục: kinh phí triển khai nghiên cứu; kinh phí quản lý, giám sát, thanh tra) do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc cần thử lâm sàng cung cấp thể hiện bằng hợp đồng nghiên cứu giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử và tổ chức nhận thử lâm sàng.
2. Đối với các thuốc nghiên cứu do các chương trình, đề tài sử dụng ngân sách nhà nước hoặc đề tài hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cấp kinh phí, chủ nhiệm và tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng cần dự trù kinh phí thử nghiệm lâm sàng trong tổng kinh phí được cấp cho nghiên cứu.
3. Tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng và nghiên cứu viên chính có trách nhiệm quản lý kinh phí được giao để chi cho việc nghiên cứu đúng nội dung và định mức chi theo quy định của pháp luật hoặc hợp đồng đã ký kết giữa hai bên.
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng nộp hồ sơ đăng ký bao gồm các tài liệu quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 10 Thông tư này về Bộ Y tế.
2. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đăng ký, Bộ Y tế có văn bản trả lời làm cơ sở cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng triển khai các bước tiếp theo.
Căn cứ vào văn bản chấp thuận của Bộ Y tế, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng phối hợp với nghiên cứu viên chính và tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng xây dựng hồ sơ nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng bao gồm:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng cung cấp các tài liệu quy định tại các khoản 1, 2, 7, 11, 12 và 13 Điều 10 Thông tư này cho nghiên cứu viên chính và tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng.
2. Nghiên cứu viên chính phối hợp cùng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng và các thành viên nhóm nghiên cứu thiết kế đề cương nghiên cứu, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 10 của Thông tư này.
1. Hồ sơ nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng theo quy định tại Điều 10 Thông tư này gửi về Bộ Y tế làm cơ sở cho việc thẩm định, xem xét và phê duyệt.
2. Hồ sơ nộp về Bộ Y tế trước ngày 20 hàng tháng sẽ được xem xét thẩm định trong tháng đó. Hồ sơ nộp sau thời hạn trên sẽ chuyển sang thẩm định ở tháng tiếp theo.
3. Thông tin liên quan đến đăng ký, xây dựng và nộp hồ sơ có thể truy cập tại Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế www.moh.gov.vn hoặc qua trang điện tử của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Bộ Y tế www.iecmoh.vn.
1. Thẩm định hồ sơ nghiên cứu:
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, sau khi nhận đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 10 Thông tư này, Bộ Y tế tổ chức họp Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học.
2. Thông báo kết quả:
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, sau khi có kết quả thẩm định của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học, Vụ Khoa học và Đạo tạo sẽ tổng hợp, hoàn chỉnh hồ sơ và thông báo kết quả bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng, tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng.
3. Phê duyệt:
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, sau khi thông báo kết quả và nhận hồ sơ bổ sung hoàn chỉnh (nếu có), Vụ Khoa học và Đạo tạo sẽ tổng hợp, trình Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt.
1. Giai đoạn 1:
a) Là giai đoạn lần đầu tiên thử nghiệm hoạt chất mới hay công thức mới của thuốc trên người (thường được thực hiện ở người tình nguyện khỏe mạnh).
b) Mục đích nghiên cứu giai đoạn 1: nhằm thiết lập đánh giá sơ bộ về tính an toàn và bước đầu đánh giá dược động học và dược lực học của hoạt chất trên người.
c) Cỡ mẫu: cần cân nhắc thận trọng dựa trên kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng, cỡ mẫu 10-30 đối tượng.
2. Giai đoạn 2:
a) Là giai đoạn thử nghiệm được tiến hành trên số lượng người bệnh hạn chế.
b) Mục đích nghiên cứu giai đoạn 2: nhằm đánh giá hiệu quả trị liệu, tính an toàn của hoạt chất trên người bệnh, xác định liều sử dụng và chế độ liều thích hợp để đưa ra trị liệu tối ưu cho thử nghiệm lâm sàng.
c) Cỡ mẫu: tối thiểu 50 người bệnh.
3. Giai đoạn 3:
a) Là giai đoạn thử nghiệm được nghiên cứu trên số lượng người bệnh lớn hơn. Các điều kiện thử nghiệm lâm sàng trong giai đoạn này được tiến hành gần với điều kiện sử dụng thông thường. Thường tiến hành đa trung tâm, ngẫu nhiên, có nhóm chứng.
b) Mục đích nghiên cứu giai đoạn 3: nhằm xác định tính ổn định của công thức, tính an toàn, hiệu quả ngắn hạn và dài hạn của hoạt chất, đánh giá hiệu quả trị liệu ở mức tổng thể. Nghiên cứu các phản ứng có hại thường xảy ra, phát hiện các đặc điểm đặc biệt của sản phẩm nghiên cứu.
c) Cỡ mẫu: tối thiểu 200 người bệnh.
4. Giai đoạn 4:
a) Là các nghiên cứu lâm sàng được tiến hành sau khi thuốc đã được đưa vào lưu hành. Thiết kế nghiên cứu có thể khác nhau nhưng các tiêu chuẩn khoa học và đạo đức giống với tiêu chuẩn trước khi thuốc lưu hành.
b) Mục đích nghiên cứu giai đoạn 4: thử nghiệm lâm sàng giai đoạn này được tiến hành trên cơ sở của các đặc tính của sản phẩm đã được phép lưu hành, thông thường dưới hình thức giám sát sau lưu hành hay đánh giá hiệu quả trị liệu hoặc đánh giá các chiến lược điều trị.
c) Cỡ mẫu: tối thiểu 1.000 người bệnh.
1. Giai đoạn 1:
a) Là giai đoạn đầu tiên thử nghiệm vắc xin mới ở mức quy mô nhỏ để đánh giá sơ bộ về tính an toàn của vắc xin qua thu nhận thông tin sơ bộ về khả năng chịu đựng thuốc. Thông thường giai đoạn 1 được thực hiện trên người trưởng thành tình nguyện khoẻ mạnh, có nguy cơ nhiễm bệnh và biến chứng thấp trước khi sử dụng cho đối tượng đích.
b) Giai đoạn 1 thường là nghiên cứu mở, không ngẫu nhiên với nhóm chứng giả dược có thể thực hiện với một số lứa tuổi hoặc nhóm dân cư để xác định liều dùng, tính an toàn, lịch tiêm, đường tiêm chủng vắc xin.
c) Những vắc xin sống giảm độc lực (vi rút hoặc vi khuẩn) có khả năng nhiễm cho người tiếp nhận hoặc tiếp xúc phải được đánh giá và giám sát chặt chẽ về liều dùng, dấu hiệu lâm sàng nhiễm bệnh và tính gây phản ứng (tức thì, sớm và muộn). Nghiên cứu giai đoạn 1 có thể cung cấp thông tin sơ bộ về sự phát tán, đặc tính hồi độc, lây truyền cho người tiếp xúc và tính ổn định di truyền học của chủng vắc xin.
d) Cỡ mẫu: cần cân nhắc thận trọng dựa trên kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng, cỡ mẫu 30-50 đối tượng.
2. Giai đoạn 2:
a) Được tiến hành sau khi hoàn thành giai đoạn 1 với kết quả được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Bộ Y tế chấp thuận. Mục đích giai đoạn 2 để chứng minh tính sinh miễn dịch của thành phần có hoạt tính, tính an toàn của vắc xin thử trên đối tượng đích. Nghiên cứu giai đoạn 2 đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch liên quan đến tuổi, chủng tộc, giới tính. Nghiên cứu thiết kế có nhóm chứng và ngẫu nhiên.
b) Đối với vắc xin sống giảm độc lực, ngoài việc giám sát các thông số như giai đoạn 1 cần quan tâm đến sự xuất hiện và tồn tại hiệu giá kháng thể: kháng thể trung hoà hoặc kháng thể ngưng kết chéo hoặc miễn dịch trung gian tế bào và những tương tác ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch (ví dụ: kháng thể tồn tại trước đó, việc tiêm chủng đồng thời với vắc xin hoặc thuốc khác).
c) Cỡ mẫu: tối thiểu 200 đối tượng.
3. Giai đoạn 3:
a) Nghiên cứu giai đoạn 3 được thực hiện trên quy mô lớn, đa trung tâm để đánh giá hiệu quả bảo vệ (efficacy) và tính an toàn của các thành phần có hoạt tính miễn dịch trong vắc xin trên các đối tượng đích.
b) Cỡ mẫu: tối thiểu 500 đối tượng.
4. Giai đoạn 4:
a) Nghiên cứu giai đoạn 4 được tiến hành sau khi vắc xin được phép cấp lưu hành. Giai đoạn 4 được coi như giám sát sau cấp phép hoặc nghiên cứu sau cấp phép với mục đích xác định phản ứng có hại và theo dõi hiệu quả bảo vệ sau khi vắc xin được dùng rộng rãi trong cộng đồng dân cư dưới điều kiện sử dụng. Giai đoạn 4 có thể được tổ chức để đánh giá:
- Điều kiện tối ưu để sử dụng vắc xin (tuổi tối ưu để tiêm chủng, sử dụng đồng thời với một vắc xin khác và các điều kiện khác).
- Hiệu quả bảo vệ trong nhóm nguy cơ (người cao tuổi, người bệnh tổn thương miễn dịch, người bị bệnh nhất định).
- Duy trì mức độ bảo vệ và tính an toàn lâu dài.
b) Cỡ mẫu: tối thiểu 10.000 đối tượng.
1. Giai đoạn 1:
a) Nghiên cứu thường được tiến hành trên người tình nguyện đáp ứng đủ tiêu chuẩn thử nghiệm lâm sàng với mục đích xác định liều an toàn (là liều tối đa mà với liều đó không gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng), cụ thể:
b) Liều đầu tiên phải bằng 1/3 - 1/5 liều dự kiến từ nghiên cứu tiền lâm sàng. Từ liều đầu tiên đến liều tối đa có thể chia làm nhiều liều. Giai đoạn này kết thúc khi xác định được liều an toàn.
c) Cỡ mẫu: cần cân nhắc thận trọng dựa trên kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng, cỡ mẫu 10-30 đối tượng.
2. Giai đoạn 2:
a) Nghiên cứu đánh giá về tính an toàn và hiệu lực của thuốc. Thiết kế nghiên cứu có nhóm chứng, ngẫu nhiên, mỗi nhóm tối thiểu là 25 người bệnh.
b) Liều điều trị: liều lượng thuốc dùng trong giai đoạn này phải căn cứ vào kết quả của nghiên cứu giai đoạn 1.
c) Cỡ mẫu: tối thiểu 50 người bệnh.
3. Giai đoạn 3:
a) Để khẳng định lại tính an toàn và hiệu lực của thuốc trong điều kiện mở rộng. Đối tượng nghiên cứu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên có đối chứng hoặc tự đối chứng.
b) Cỡ mẫu: tối thiểu 100 người bệnh.
4. Giai đoạn 4:
a) Áp dụng như đối với thuốc hóa dược.
b) Cỡ mẫu: tối thiểu 200 người bệnh.
1. Khi triển khai nghiên cứu tại nhiều cơ sở khác nhau, tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng cần thành lập ban chỉ đạo chung bao gồm nghiên cứu viên chính, các nghiên cứu viên chính các nhánh và đại diện các đơn vị chủ trì nghiên cứu để thống nhất mục tiêu, nội dung, các tiêu chí đánh giá, kế hoạch và tiến độ nghiên cứu.
2. Đối với những nghiên cứu lâm sàng đa quốc gia, trong đó có Việt Nam là thành viên tham gia thì thủ tục hồ sơ phải theo đúng các quy định của Thông tư này. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu thử nghiệm tại Việt Nam, các hoạt động phối hợp triển khai nghiên cứu với các quốc gia phải được thể hiện chi tiết trong đề cương nghiên cứu.
Bộ trưởng Bộ Y tế quyết định cụ thể mục tiêu, nội dung và cỡ mẫu nghiên cứu được quy định tại Điều 18, 19, 20, 21 của Thông tư này trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đối với từng trường hợp hồ sơ, đề cương nghiên cứu.
Xử lý các bất thường trong quá trình nghiên cứu được thực hiện như sau:
1. Trường hợp xảy ra tai biến gây nguy hiểm, đe doạ đến tính mạng người tham gia thử thuốc trên lâm sàng, nghiên cứu viên chính và tổ chức nhận thử lâm sàng phải dừng ngay thử nghiệm trên người tham gia thử đó, tổ chức cấp cứu, khắc phục và giải quyết hậu quả, lập biên bản, đồng thời báo cáo khẩn cho Hội đồng đạo đức cấp cơ sở, Hội đồng đạo đức - Bộ Y tế, Vụ Khoa học Đào tạo, Bộ Y tế.
2. Trường hợp thử nghiệm dẫn đến tổn thương về sức khoẻ người tham gia thử thuốc trên lâm sàng, nghiên cứu viên chính phải dừng nghiên cứu để điều trị và theo dõi diễn biến sức khoẻ của người tham gia thử lâm sàng và xem xét, quyết định tiếp tục hoặc dừng thử lâm sàng.
3. Trường hợp bất thường đã được dự kiến trước và đã áp dụng biện pháp xử lý có hiệu quả thì vẫn tiếp tục tiến hành thử thuốc trên lâm sàng.
1. Các thông tin ghi nhận trong quá trình nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng phải ghi trong bệnh án nghiên cứu (CRFs). Bệnh án nghiên cứu được coi là tài liệu gốc, bảo quản lưu trữ theo đúng quy định làm căn cứ cho việc giám sát, nghiệm thu đánh giá kết quả thử nghiệm.
2. Các tài liệu liên quan cần thiết cho quá trình đánh giá lâm sàng (phiếu xét nghiệm, kết quả chẩn đoán hình ảnh, đơn thuốc) phải được sao chụp từ bản gốc ghi rõ họ tên người kiểm tra đối chiếu, nêu rõ nguồn gốc và phải được quản lý, lưu trữ theo quy định.
1. Các số liệu nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng phải được xử lý theo phương pháp thống kê y sinh học và phải do một cơ quan, tổ chức độc lập với cơ quan, tổ chức nhận thử chịu trách nhiệm xử lý số liệu nhằm đảm bảo tính khách quan, trung thực và tin cậy.
2. Kết quả phân tích thống kê phải được trình bày rõ ràng để giúp cho việc nhận định sự khác biệt về kết quả lâm sàng; khi đánh giá hiệu quả điều trị, phải dựa vào mức độ tin cậy và các kết quả đạt được từ phân tích thống kê. Báo cáo kết luận cuối cùng của nghiên cứu lâm sàng phải nhất quán với kết quả phân tích thống kê.
1. Các số liệu, tài liệu gốc, phiếu xét nghiệm, kết quả chẩn đoán hình ảnh, các tài liệu thu thập có liên quan đến thử thuốc trên lâm sàng, biên bản họp các hội đồng, biên bản giám sát, báo cáo tiến độ, hồ sơ đăng ký thử nghiệm và các tài liệu khác liên quan đến nghiên cứu phải được bảo quản đầy đủ, lưu trữ ít nhất 15 năm tại cơ sở nghiên cứu, tính từ thời điểm kết thúc nghiên cứu.
2. Nghiên cứu viên chính chịu trách nhiệm về toàn bộ quá trình bảo quản lưu trữ tài liệu của nghiên cứu và có trách nhiệm xuất trình khi có yêu cầu của các đoàn thanh tra, giám sát và của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
1. Báo cáo kết quả thử thuốc trên lâm sàng tuân thủ theo đúng mẫu quy định (Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này), bao gồm đầy đủ các thông tin về thuốc, mô tả phương pháp nghiên cứu, quá trình thử, phân tích các số liệu, đánh giá kết quả, so sánh với mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu; đưa ra được kết luận chính xác, trung thực và khách quan. Nội dung báo cáo phải phù hợp với mục tiêu và nội dung nghiên cứu trong đề cương đã được phê duyệt.
2. Nghiên cứu viên chính chịu trách nhiệm về tính khoa học, tính chính xác, trung thực của các số liệu, kết luận, nhận định và các nội dung khác của báo cáo.
1. Việc xuất, nhập khẩu thuốc thử lâm sàng cần thực hiện theo quy định hiện hành về xuất, nhập khẩu thuốc.
2. Việc quản lý thuốc thử lâm sàng phải được thực hiện đúng các quy định hiện hành từ các khâu lấy mẫu, kiểm nghiệm chất lượng, đóng gói, vận chuyển, giao nhận, bảo quản, ghi nhãn và phân phối.
3. Phải có sổ ghi chép để theo dõi việc sử dụng thuốc cho thử lâm sàng kèm theo các thông tin về số lượng, chất lượng của thuốc.
4. Thuốc chưa dùng hết và thuốc lưu phải được quản lý chặt chẽ, để riêng và bảo quản theo đúng quy định. Thuốc không sử dụng hết phải được bàn giao cho tổ chức, cá nhân có thuốc thử.
5. Thuốc không bảo đảm chất lượng phải lập biên bản xử lý theo đúng quy định của Bộ Y tế.
6. Mẫu thuốc lưu (03 đơn vị đóng gói nhỏ nhất) phải được bảo quản ít nhất ba năm (36 tháng) tại tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng sau khi kết thúc nghiên cứu.
1. Được cung cấp thông tin đầy đủ và trung thực trước khi thử lâm sàng về quá trình thử nghiệm và những rủi ro có thể xảy ra.
2. Được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử lâm sàng bồi thường thiệt hại nếu do thử lâm sàng gây ra.
3. Được giữ bí mật về những thông tin cá nhân có liên quan.
4. Không phải chịu trách nhiệm khi đơn phương chấm dứt hợp đồng tham gia thử thuốc trên lâm sàng.
5. Khiếu nại, tố cáo những vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân có thuốc thử trên lâm sàng và nhận thử thuốc trên lâm sàng.
6. Được chăm sóc sức khoẻ trong quá trình thử nghiệm theo đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt.
1. Lựa chọn và đề xuất tổ chức đáp ứng quy định về cơ sở vật chất và cán bộ chuyên môn để thử thuốc trên lâm sàng.
2. Được sở hữu toàn bộ kết quả nghiên cứu của thuốc thử trên lâm sàng.
3. Được quyền đề nghị chấm dứt nghiên cứu nếu tổ chức nhận thử thuốc vi phạm nghiêm trọng đề cương.
1. Xin phép và được Bộ trưởng Bộ Y tế đồng ý bằng văn bản trước khi thử lâm sàng.
2. Bồi thường thiệt hại cho người tham gia thử thuốc trên lâm sàng nếu rủi ro xảy ra do thử thuốc trên lâm sàng theo quy định của pháp luật hiện hành.
3. Ký kết hợp đồng về thử thuốc trên lâm sàng với tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng và tổ chức nghiên cứu lâm sàng (nếu có).
4. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng và tính an toàn của thuốc do mình cung cấp.
1. Được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử lâm sàng cung cấp thuốc, kinh phí để tiến hành thử lâm sàng theo quy định của pháp luật.
2. Được sử dụng kết quả nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng theo thoả thuận với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử lâm sàng.
1. Tuân thủ các quy định thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng, báo cáo với Bộ Y tế về quá trình, kết quả thử nghiệm lâm sàng và báo cáo đột xuất trong trường hợp cần thiết.
2. Ký kết hợp đồng về việc thử thuốc trên lâm sàng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thuốc thử lâm sàng và với người tham gia thử lâm sàng.
3. Tiếp tục theo dõi sức khoẻ và bệnh tật của người tham gia thử lâm sàng theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc đề cương nghiên cứu.
1. Giám sát, kiểm tra nhằm bảo đảm quyền, lợi ích, sức khoẻ của người tham gia thử thuốc trên lâm sàng, bảo đảm các số liệu ghi chép của nghiên cứu được tiến hành đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định theo đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt.
2. Bộ Y tế thành lập đoàn giám sát, kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với từng trường hợp cụ thể.
3. Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân có thuốc thử lâm sàng, tổ chức nghiên cứu lâm sàng (CRO) hoặc tổ chức quản lý địa điểm nghiên cứu (SMO) được Bộ Y tế chấp thuận bằng văn bản có thể đề xuất cử người theo dõi, giám sát quá trình nghiên cứu một cách có hệ thống. Người được giao nhiệm vụ giám sát không được là thành viên của nhóm nghiên cứu, thực hiện đúng các quy định về bảo mật số liệu nghiên cứu và các thông tin liên quan đến người tham gia thử lâm sàng và chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý về công việc của mình.
4. Nghiên cứu viên chính và các nghiên cứu viên có trách nhiệm tạo điều kiện cho người giám sát tham khảo các số liệu nghiên cứu khi có yêu cầu.
5. Đoàn giám sát, kiểm tra có trách nhiệm báo cáo, đề xuất bằng biên bản giám sát, kiểm tra các nội dung giám sát với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền làm cơ sở cho việc xem xét, xử lý theo đúng các quy định của pháp luật.
1. Để bảo đảm nghiên cứu có đủ độ tin cậy, các phân tích, nhận định kết luận về kết quả phải xuất phát từ số liệu gốc. Trong mỗi giai đoạn nghiên cứu cần phải thẩm tra tất cả các số liệu lâm sàng và chỉ tiêu xét nghiệm.
2. Trong trường hợp cần thiết, hội đồng nghiệm thu các cấp sẽ mời chuyên gia đánh giá kết quả, kiểm tra số liệu, kiểm định sản phẩm của nghiên cứu hoặc thành lập Ban giám sát số liệu (DSMB) theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
1. Nghiệm thu kết quả nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng được thực hiện theo các quy định hiện hành về đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ và hướng dẫn thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng.
2. Việc nghiệm thu được tiến hành ở hai cấp: cấp cơ sở và cấp Bộ Y tế. Khi kết thúc nghiên cứu, nghiên cứu viên chính có trách nhiệm báo cáo với tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng để đánh giá kết quả nghiên cứu ở cấp cơ sở và hoàn thiện hồ sơ báo cáo Bộ Y tế để nghiệm thu cấp Bộ.
Hồ sơ báo cáo nghiệm thu cấp Bộ (01 bộ gốc có chữ ký, đóng dấu hợp pháp và 03 bản sao) gồm:
1. Công văn của tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng đề nghị nghiệm thu cấp Bộ.
2. Bản sao đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt.
3. Quyết định phê duyệt đề cương nghiên cứu.
4. Quyết định thành lập hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở.
5. Biên bản họp hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở.
6. Báo cáo toàn văn kết quả nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng theo quy định và có thể bổ sung những thông tin có liên quan khác khi thấy cần thiết.
1. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị nghiệm thu, Bộ Y tế sẽ tổ chức họp hội đồng nghiệm thu kết quả nghiên cứu theo quy định hiện hành.
2. Nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng chỉ được coi là hoàn thành khi báo cáo kết quả cuối cùng được hội đồng đánh giá nghiệm thu và chấp nhận những bổ sung của nghiên cứu viên chính theo các ý kiến góp ý của hội đồng (nếu có).
3. Các số liệu và kết quả thử lâm sàng chỉ được công bố khi đã được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Bộ Y tế đánh giá nghiệm thu.
Vụ Khoa học và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Vụ, Cục có liên quan:
1. Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ đăng ký, hướng dẫn tổ chức, cá nhân có thuốc thử và tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng thực hiện đúng các quy định của Thông tư này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Tổ chức thẩm định các điều kiện về hồ sơ thử thuốc trên lâm sàng, năng lực chuyên môn, cơ sở vật chất và tính pháp lý của tổ chức nhận thử thuốc trên lâm sàng, tổ chức nghiên cứu lâm sàng (CRO), tổ chức quản lý địa điểm nghiên cứu (SMO) báo cáo Lãnh đạo Bộ cho phép tiến hành thử nghiệm.
3. Tổ chức các phiên họp của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Bộ Y tế xét duyệt đề cương nghiên cứu, thẩm định các nội dung về đạo đức trong nghiên cứu và khoa học chuyên ngành, đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng, tổng hợp trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt.
4. Tổ chức giám sát, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất quá trình nghiên cứu.
5. Tổ chức phổ biến, hướng dẫn thực hiện nội dung Thông tư này, hướng dẫn thực hành lâm sàng tốt và đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Các hồ sơ đăng ký thử thuốc trên lâm sàng nộp trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành được xem xét và thẩm định theo “Quy định về thử thuốc trên lâm sàng” được ban hành theo Quyết định số 01/2007/QĐ-BYT ngày 11/01/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/3/2012.
2. Bãi bỏ Quyết định số 01/2007/QĐ-BYT ngày 11/01/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành “Quy định về thử thuốc trên lâm sàng” kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực.
3. Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến, triển khai thực hiện Thông tư cho các đối tượng biết và thực hiện.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Y tế để xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp./.
Nơi nhận: |
BỘ TRƯỞNG |
MINISTRY OF HEALTH |
SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM |
No.: 03/2012/TT-BYT |
Hanoi, February 02, 2012 |
Pursuant to the Pharmacy Law dated 14/6/2005 and the Decree No.79/2006/ND-CP dated 09/08/2006 of the Government detailing the implementation of some Articles of the Pharmacy Law;
Pursuant to Decree No.188/2007/ND-CP dated 27/12/2007 of the Government regulating functions, duties, powers and organizational structure of Ministry of Health,
Ministry of Health guides clinical trial on drugs as follows:
This Circular guides on the drugs required to be conducted clinical trial, exempted from clinical trial, exempted from some stages of clinical trial, conditions of clinical drugs trial; registration, evaluation and approval of clinical drugs trial, the clinical drug trial stages, rights and obligations of the stakeholders; supervision, inspection, acceptance and evaluation of clinical drug trial in Vietnam for the study, permission of the circulation of pharmaceutical drugs, medical biological products, vaccines and traditional medicines or drugs from medicinal plants used in the diagnosis, treatment and disease prevention directly on human (hereinafter referred to as drugs).
Article 2. Interpretation of terms
In this Circular, the following terms are construed as follows:
1. A reference country means one of the countries as UK, France, Germany, USA, Japan, Australia, Canada or management bodies of medical products in Europe (European Medicines Agency - EMA).
2. Multi-center research means a clinical trial which is conducted in two or more research centers to ensure the universality of the number of participants in clinical drug trial, more diversity of elements of demography, anthropology.
3. Agencies, organizations and individuals having drugs required to be conducted clinical trial mean the agencies, organizations and individuals that undertake research, production, import, export, distribution of drugs wishing for their drugs to be conducted clinical trial.
4. Organizations undertaking clinical drug trial mean the health facility with function of science research that are eligible for professional personnel, material facilities, equipment for conducting clinical drug trial and to be evaluated, permitted by the Health Ministry.
5. Participants in the clinical drug trial mean patients or healthy volunteers participating voluntarily in the research.
6. Clinical Research Organization (Contract Research Organization: CRO) means an organization with legal entity status, professional capacity in accordance with the provisions of the Health Ministry, independent of agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial, contracted with organizations, individuals with drugs of clinical trial to perform the works of research support such as writing research outline, research monitoring, data analysis.
7. Management organization of research sites (Site Management Organization: SMO) means an organization with legal entity status, full capacity in accordance with provisions of the Ministry of Health, independent of agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial, organizations undertaking clinical drugs trial, contracted with organizations, individuals with drugs of clinical trial or organizations undertaking clinical drug trial to perform the works of supporting the research site management .
8. Foreign clinical data means the method and results of clinical research which have been done abroad.
9. Racial factors mean the factors related to group of large populations with common genetic characteristics, culture, traditions, and environment.
10. The international regulations for clinical drug trial accredited by the Health Ministry means good clinical practice guidelines of the blocks of regions located in the meeting of international harmonization of pharmaceutical use in humans (ICH) and good clinical practice guidelines (Good Clinical Practice - GCP) of the World Health Organization (WHO).
Article 3. Principles of clinical drugs trial
1. The clinical drug trial must comply with the provisions of this Circular, the provisions of law on science and technology, good clinical practice and the international treaties to which Vietnam is a member.
2. Participants in clinical drug trial must be selected in accordance with the principles of ethics in biomedical research.
1. Conduct clinical drug trial without permission of the Ministry of Health.
2. Arbitrarily amend or supplement records, research outline which were approved by the Health Ministry.
3. Using drugs in clinical trial for other purposes.
4. Force subjects to participate in research or hide information or fail to provide for information prescribed for research participants.
DRUGS OF CLINICAL TRIAL, EXEMPTED FROM CLINICAL TRIAL AND EXEMPTED FROM SOME STAGES OF CLINICAL TRIAL
Article 5. Drugs of clinical trial of complete stages
1. For pharmaceutical drugs, medical biological products:
a) Pharmaceutical drugs containing new substance, drugs with new combination of drugs circulated.
b) Medical biological products first invented or with new combination of components that have been circulated.
c) Pharmaceutical drugs, foreign medical biological products which have been circulated legally but not enough 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow).
d) Pharmaceutical drugs, medical biological products which have been conducted clinical trials before the effective date of this Circular but not yet met the provisions of good clinical practice of the Ministry of Health or the international guidelines on good clinical practice accredited by the Health Ministry.
2. For vaccines:
a) Vaccine newly-researched, produced, and firstly used.
b) Foreign vaccine which have been circulated legally but not enough 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow).
c) Vaccine that has been conducted clinical trial before the effective date of this Circular but not yet met the provisions of good clinical practice of the Ministry of Health or the international guidelines on good clinical practice accredited by the Health Ministry.
3. For traditional medicines or drugs from medicinal plants:
a) Drugs containing new pharmaceuticals firstly used in humans.
b) Drugs that have been conducted clinical trial before the effective date of this Circular but not yet met the provisions of good clinical practice of the Ministry of Health or the international guidelines on good clinical practice accredited by the Health Ministry.
Article 6. Drugs exempted from clinical trial
1. For pharmaceutical drugs, medical biological products:
a) Pharmaceutical drugs called original name (generic drugs).
b) Foreign drugs that have not been issued registration numbers for circulation in Vietnam but have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) and have been certified by competent state agencies as safe and effective, with the same use, and content and indicated in Vietnam as specified in that country.
c) Foreign drugs that have been issued registration numbers for circulation in Vietnam, but there are changes or supplements of new indications, new use, new dosage forms as same as those drugs which have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow).
2. For vaccines:
a) Foreign vaccines that have been issued valid registration numbers for circulation in Vietnam, are imported into Vietnam to complete the stage of labeling, putting in the box.
b) Re-registered vaccines in Vietnam due to expiration of the registration numbers and without any changes.
3. For traditional medicines or drugs from medicinal plants:
a) The herbal remedies accredited by the Health Ministry.
b) Traditional medicines or drugs from foreign material herbs which have not been granted registration numbers for circulation in Vietnam but have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) and have been certified by competent state agencies of that country as safe and effective, with the same use, and content and indicated in Vietnam as specified in that country.
Article 7. Drugs exempted from some clinical trial stages
1. For pharmaceutical drugs, medical biological products:
Foreign drugs that have been issued registration numbers for circulation in Vietnam, but there are changes or supplements of new indications, new use, new dosage forms other than indications, use, dosage forms of the drugs which have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) must be:
a) Conducted clinical trial to assess the safety;
b) Conducted clinical trial to assess efficacy in case of not yet conducted that trial or completion of clinical trial but not yet met the provisions of good clinical practice of the Ministry of Health or the international guidelines on good clinical practice accredited by the Health Ministry.
2. For vaccines:
a) Clinical trial to assess safety for:
- Foreign vaccines that have not been issued registration numbers for circulation in Vietnam but have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) and have been certified by competent state agencies as safe and effective, with the same use, and content and indicated in Vietnam as specified in that country.
- Vaccines produced in Vietnam and made from products awaiting for import packaging from abroad that their finished products have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if the international treaties to which Vietnam is a member allow).
- Vaccines which have been granted registration numbers for circulation in Vietnam, but there are changes or supplements of excipients, preservatives, change of production facilities (not changing the production process).
b) Clinical trial to assess the safety and immunogenicity in stage 3 for:
- Foreign vaccines which have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) transferred production technology in Vietnam.
- Vaccines produced in Vietnam made from imported intermediate products that their finished products have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if the international treaties to which Vietnam is a member allow).
- Vaccines which have been granted registration numbers for circulation in Vietnam, but there are changes or addition of the contents such as: production processes, dosage forms, indications, using subjects (age, gender, nation), use, dosage, vaccination schedule.
3. For medicines or drugs from medicinal herbs:
Clinical trial to assess the safety of drugs which have been granted registration numbers for circulation in Vietnam and other herbal remedies accredited by the Health Ministry but there are changes or supplements of indication, use, dosage forms other than indication, use, dosage forms of the drugs which have been circulated legally for at least 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow).
Article 8. Clinical drug trial in some special cases, emergency related to health security
Minister of Health considers and makes decision to exempt certain stages of clinical drug trial on the basis of advice of the Advisory Council for Granting Drug Circuation registration numbers and the Council of Ethics in biomedical research - Ministry of Health for the following cases:
1. Drugs used in special cases, emergency related to health security include:
a) Pharmaceutical drugs, medical biological products, vaccines which have been circulated legally but not enough 05 years in the country of origin (or reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow), which clinical trial data of multi-centers conducted in Vietnam and Asia has, the research results proved to achieve safety and effectiveness, with the same content, indication and use in Vietnam as indicated in that country.
b) Pharmaceutical drugs, traditional medicines or drugs from medicinal herbs meeting the requirements for special treatment on the list of rare drugs issued by the Health Ministry, with special dosage forms which have not been produced domestically, have no any alternative medicine and if this kind of drugs are not used, will affect the life of the patients, have not been granted registration numbers for circulation in Vietnam but has been circulated legally but not enough 05 years in the country of origin (or the reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) and have been certified by competent state agencies to be safe and effective, with the same use, and content and indicated in Vietnam as specified in that country.
c) Vaccines used to prevent dangerous infections newly arisen and unknown its pathogen or infectious diseases especially dangerous, capable of rapid spread, wide spread and high mortality, have not been granted registration numbers for circulation in Vietnam, have been circulated legally but not enough 05 years in the country of origin (or the reference country if international treaties to which Vietnam is a member allow) and have been certified by competent state agencies to be safe and effective, with the same use, and content and indicated in Vietnam as specified in that country.
2. The drugs which have resulted from research projects, research theme of ministerial level or similar and above and are made before the effective date of this Circular and complied with the provisions of this Circular and the directions on good clinical practice, to be accepted and assessed satisfactory by the council of science and technology of equivalent or ministerial-level and recommended for wide application.
CONDITIONS OF CLINICAL DRUG TRIAL
Article 9. Conditions for drugs of clinical trial
Drugs of clinical trials must meet the following requirements:
1. Have been researched in pre-clinical stage; have documents to prove the safety to be able to test the next stages.
2. Have formulations, dosage forms and stabled dosage process.
3. Have results of clinical trial studies of the previous stages if it is proposed clinical drug trial for the next stages.
4. Get standards of quality according to registration dossier for clinical drugs trial.
5. Medicine label of clinical trial with the words "Product used for clinical trial; it is forbidden to use for other purposes."
Article 10. Conditions on dossiers of clinical trial
Dossier of registration for clinical trial is in Vietnamese (01 original with signature, legal stamp and 03 copies), including:
1. Application for clinical drug trial of agencies, organizations and individuals with drugs requesting for clinical trial (Appendix 1 attached to this Circular).
2. Dossiers of products for researchers in Vietnamese or in English accompanied by a summary in Vietnamese (Appendix 2 attached herewith).
3. Application for evaluation and research proposals approved clinical trial of institutions undertaking test (Appendix 3 attached to this Circular).
4. Cooperation contract of researching clinical drug trial among agencies, organizations, individuals with drugs requested for clinical trial and organizations undertaking trial and cooperation contracts between agencies, organizations and individuals with drugs requested for clinical trial and clinical research organization, clinical site management organization if any (Annex 4, issued together with this Circular).
5. Explanation for the research scheme of clinical trial (Appendix 5, issued together with this Circular).
6. Scientific curriculum vitae and certificates of good clinical practice of the prime researcher/subject chairman issued by the Health Ministry or by organizations recognized by the Health Ministry.
7. The written provision of information on research and slip of volunteer participating in the research (Appendix 6, issued together with this Circular).
8. Minute of evaluating the science and ethics in research of the ethics Council in biomedical research of basic level (organization undertaking clinical drugs trial).
9. Written certification of the participation of research institutions over multi-center research in Vietnam.
10. Written approval of the research of People’s Committee of province or city directly under the Central Government for research in the field.
11. The documents on the clinical drugs trial include:
a) Drug researching documents recipe ingredients, production processes, quality standards, drug testing slip (for pharmaceutical drugs, traditional medicines or drugs from medicinal plants: testing slip of the agency of central drug testing or of the manufacturers achieved standards of good manufacturing practice (GMP); for vaccines: quality testing slip of national testing agencies or certification of shipments for lot of vaccines, biological products of the National Drug Administration of home country).
b) Document of pre-clinical research of drugs need to be tested: reports of research on the pharmacological effects, toxicity, safety and suggestions on dosage, route of administration, use.
c) Research documents of clinical drug trial of the previous stages (if it is proposed clinical drug trial for the next stages).
12. A certified copy of the certificate of product (CPP) or permit for the circulation of drugs (FSC) and certificate of achieving standards of good manufacturing practice (GMP) of the competent State management agencies for drugs suggested for research of clinical trials, evaluating the safety, clinical trial of stage 4.
13. Label of research drug as prescribed in Clause 5 of Article 9 of this Circular and photos of samples of research drugs.
Article 11. Conditions of institutions undertaking clinical trial, the prime researchers and researchers participating in clinical drug trial
1. Organizations undertaking clinical drug trial must meet the criteria of good clinical practice (GCP); be independent of economy, of personnel organization against individuals and organizations with drugs of clinical trial and commit that the clinical trial totally do not have any conflicts of interest between the parties.
2. Pime researchers in the clinical trial must have the level of specialized knowledge, clinical experience, practical ability to ensure the principles of good clinical practice, master the rules of clinical drugs trial, capable of implementing the research outline which was approved in full and on schedule, with GCP certificate issued by the Ministry of Health or by organizations recognized by the Health Ministry.
3. Researcher must have appropriate expertise, to be trained in the necessary contents and skills to undertake research, have GCP certificate issued by the Ministry of Health or by organizations recognized by the Health Ministry.
Article 12. Conditions of participants of clinical drug trial
1. Participants in clinical drug trial must be volunteers meeting professional requirements and must sign a commitment with the organization undertaking clinical dugs trial, except for those who are restricted civil act capacity, lose civil act capacity or have no capacity for civil acts.
2. Where the participants in clinical drug trial are less than 18 years old, restricted civil act capacity, lost civil act capacity or have no capacity for civil acts, it must be approved by their representatives in accordance with the law provisions.
3. Where the participants in clinical drug trial are women who are pregnant or breast-feeding: research dossiers must be clearly stated the reasons for selecting this subject and must be approved by the Minister of Health on the basis of consideration and evaluation of research outline for scientific, moral aspects of the Council of Ethics in biomedical research - Ministry of Health.
Article 13. Conditions for funding clinical drug trial
1. Funding must be sufficient to complete the activities in the whole process of clinical drug trial (including items: funding for conducting research and funding for management, supervision, inspection) funded by the agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial shown by research contracts between agencies, organizations, individuals with drugs of clinical trial and organizations undertaking clinical drug trials.
2. For the study drugs funded by the program, themes using the state budget or the themes in cooperation with other foreign and domestic organizations and individuals, chairmen and organizations undertaking clinical drug trial need to estimate funds for clinical trials in total funds allocated for research.
3. Organizations undertaking clinical testing and researchers are responsible for managing their allocated funds to spend on research with the proper content and cost norms prescribed by law or contract signed by both parties.
REGISTRATION, EVALUATION AND APPROVAL OF RESEARCH OF CLINICAL DRUG TRIAL
Article 14. Registration for research of clinical drug trial
1. Agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial apply for registration including documents specified in Clause 1, Clause 2 of Article 10 of this Circular to the Ministry of Health.
2. Within 15 working days after receipt of registration dossier, the Ministry of Health shall send written response as a basis for agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial to deploy next steps.
Article 15. Building research profile
Based on the written approval of the Ministry of Health, agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial collaborate with prime researchers and organizations undertaking clinical drug trials to prepare clinical drug trial research profile include:
1. Agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial provide for the documents specified in clauses 1, 2, 7, 11, 12 and 13, Article 10 of this Circular to the prime researchers and organizations undertaking clinical drug trials.
2. Prime researcher collaborate with agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial and members of research team to design research outline, prepare complete dossiers in accordance with provisions in Article 10 of this Circular.
Article 16. Application for research and clinical drug trial
1. Dossier of research and clinical drug trial is in accordance with provisions in Article 10 of this Circular and sent to the Ministry of Health as a basis for the evaluation, review and approval.
2. The dossier submitted to the Health Ministry before the 20th of each month will be considered for evaluation in that month. The dossier submitted after the above deadline will be transferred to the next month for evaluation.
3. For information regarding registration, compilation and dossier submission can be accessed at web portal of the Ministry of Health www.moh.gov.vn or via website of the Council of ethics in biomedical research - Ministry of Health www.iecmoh.vn.
Article 17. Evaluation and approval of researches of the clinical drug trial
1. Evaluation of research profile:
Within 30 working days after undertaking complete dossiers as prescribed in Article 10 of this Circular, the Ministry of Health shall organize meeting of Council of Ethics in biomedical research.
2. Announcement of results:
Within 15 working days after having the evaluation results of the Council of Ethics in biomedical research, Department of Science and Training will aggregate to complete the records and notify in writing the results to agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial, organizations undertaking clinical drug trial.
3. Approval:
Within 15 working days after the notification of results and receiving complete additional documents (if any), Department of Science and Training will synthesize, submit to the Minister of Health for approval.
CLINICAL DRUG TRIAL STAGES AND CONDUCTING EXPERIMENT
Article 18. The stages of clinical pharmaceutical drugs, medical biological products trial
1. Stage 1:
a) As the first stage to test new active elements or new formulations of the drugs in humans (usually done in the healthy volunteers).
b) Research purpose of stage 1: to establish a preliminary evaluation of the safety and initial assessment of pharmacokinetics and pharmacodynamics of the active element in humans.
c) Sample size: should be considered carefully based on results of preclinical research, sample sizes of 10-30 subjects.
2. Stage 2:
a) As the test stage to be conducted on a limited number of patients.
b) Research purpose of stage 2: to evaluate the therapeutic effect and safety of active elements in the patients, determine the use dose and appropriate dose regime to provide optimal treatment for clinical trials.
c) Sample size: at least 50 patients.
3. Stage 3:
a) As the test stage to be studied on a larger number of patients. The clinical trial conditions during this period are conducted close to the normal conditions of use. It is often conducted multicenter, randomization, with placebo.
b) Research purpose of stage 3: to determine the stability of the formula, the safety and effectiveness of short and long term of active substance, evaluate the effectiveness of treatment at the overall level. To research the adverse reactions often occurring, detect the special characteristics of researched products.
c) Sample size: at least 200 patients.
4. Stage 4:
a) As the clinical studies to be conducted after the drug has been put into circulation. Study design may vary but the scientific standards and ethical standards are similar to the one before drug is circulated.
b) Research purpose of stage 4: clinical trial of this stage is conducted on the basis of the characteristics of the product allowed for circulation, usually in the form of monitoring after the circulation or evaluation of effect of therapy or evaluation of treatment strategies.
c) Sample size: at least 1,000 patients.
Article 19. The stages of clinical vaccines trial
1. Stage 1:
a) As the first stage of testing new vaccine in the small-scale for preliminary assessment of the safety of the vaccine through the preliminary information collection on drug tolerance. Stage 1 is usually performed on adult healthy volunteers, at risk of infection and low complication before use for the target subjects.
b) Stage 1 is usually open research, non-randomized with a placebo of pharmaceutical fake can be done with some particular age or population groups to determine dose, safety, vaccine schedule, the route of vaccination.
c) The attenuated live vaccines (virus or bacteria) capable of infecting recipients or contacting persons must be evaluated and closely monitored on the dose, clinical signs of infection and response (immediate, early and late). Stage 1 research can provide preliminary information on the dispersion, transmission to contacting persons and the genetic stability of vaccine.
d) Sample size: should be considered carefully based on results of preclinical studies, sample sizes of 30-50 subjects.
2. Stage 2:
a) Is conducted after the completion of Stage 1 with the results approved by the Council of Ethics in biomedical research - Ministry of Health. Purpose of stage 2 is to demonstrate the immunogenicity of the active ingredients, the safety of the vaccines tested on target subjects. Stage 2 research is to evaluate the immune response related to age, race, and gender. Study of design has placebo and randomization.
b) For attenuated live vaccines, in addition to the monitoring of parameters such as stage 1, it needs to pay attention to the presence and existence of antibodies titers: neutralizing antibodies or fixation cross antibodies or cell-mediated immune and interactions affecting the immune system (eg pre-existing antibodies, immunization made at the same time with vaccines or other drugs).
c) Sample size: at least 200 subjects.
3. Stage 3:
a) Stage 3 research is done on a large scale, multi-center to evaluate the protective effect (efficacy) and safety of the active ingredients of immunity in the vaccine on the target subjects.
b) Sample size: at least 500 subjects.
4. Stage 4:
a) Stage 4 research is conducted after the vaccines have been licensed for distribution. Stage 4 is considered as monitoring after granting license or research after granting license for the purpose of determining adverse effects and monitoring protective effect after vaccines are widely used in the population community under conditions of use. Stage 4 can be held to assess:
- The optimal conditions for the use of vaccines (optimal age for vaccination, concomitant use with other vaccine and other conditions).
- Protective effect of risk groups (elderly, immune injury patients, people with certain diseases).
- Maintenance of level of protection and long-term safety.
b) Sample size: at least 10,000 subjects.
Article 20. The stages of testing traditional medicines or drugs from clinical medicinal herbs
1. Stage 1:
a) Research is often conducted on volunteers who meet clinical trial criteria for the purpose of determining safe dose (maximum dose that the dose does not cause serious side effects), as follows:
b) The first dose must be equal to 1/3 - 1/5 of dose expected from preclinical studies. From the first dose to the maximum dose, it may be divided many doses. This stage is ended when the safe dose is determined.
c) Sample size: should be considered carefully based on results of preclinical studies, sample sizes of 10-30 subjects.
2. Stage 2:
a) The study evaluates the safety and efficacy of drugs. Study design has a placebo, randomization, each group has at least 25 patients.
b) Therapeutic dose: dose of drug used in this stage must be based on research results of stage 1.
c) Sample size: at least 50 patients.
3. Stage 3:
a) To confirm the safety and efficacy of drugs in the extended conditions. Study subjects were selected by random method with control or self-control.
b) Sample size: at least 100 patients.
4. Stage 4:
a) Applying as for pharmaceutical drugs.
b) Sample size: at least 200 patients.
Article 21. Clinical drug trial at several different establishments
1. When conducting research in many different establishments, organizations undertaking clinical drug trial need to establish joint steering committee consisting of prime researchers, prime researchers of branches and representatives of the units presiding over research to unify objectives, content, evaluation criteria, plans and research progress.
2. For multinational clinical research, in which Vietnam is a participant, the procedures, dossiers must comply with the provisions of this Circular. Objectives and content of research, trial in Vietnam, and the joint activities to implement the research with other nations must be detailed in the research outline.
Article 22. The objectives, contents and sample sizes of research
Minister of Health specifies objectives, contents and sample sizes of research specified in Article 18, 19, 20 and 21 of this Circular based on the advice of the Council of Ethics in bio-medical research for each case of dossier, research outline.
Article 23. Handling cases of complications during the clinical drug trial
Handling of irregularities in the research process is as follows:
1. In case of dangerous complications threatening the lives of participants in clinical drug trial, the prime researchers and organizations undertaking clinical trials must stop testing on the participants, hold the first aid, recovery and deal with the consequences, make records, and urgently report to the grassroots Council of Ethics, Council of Ethics - Ministry of Health, Department of Science and Training, Ministry of Health.
2. In cases of clinical trial leading to damage the health of participants in clinical drug trial, prime researchers must stop the research for the treatment and monitor the health happening of clinical trial participants and review and decide on continuty or stopping clinical trials.
3. Abnormal cases anticipated and adopted handling measures effectively shall be continued to conduct clinical drug trial.
Article 24. Collection of information and data
1. The information recorded in the course of researching clinical drug trial must be recorded in clinical research files (CRFs). CRF is considered as the original document, preserved, stored in accordance with provisions for used a basis for monitoring, evaluation and acceptance of testing results.
2. The relevant documents required for the clinical assessment process (testing slip, diagnostic imaging results, prescriptions) must be copied from the original writing full name of cross-check examiner, stating clearly the origin and must be managed, stored according to regulations.
1. The research data of clinical drug trial must be treated by biologic statistical methods and must be processed by an agency or organization independent of the agency or organization undertaking data processing to ensure the objectivity, honesty and trust.
2. Results of statistical analysis must be clearly presented to help identification of differences in clinical outcome; when evaluating treatment effects, it must be based on reliability and the results obtained from statistical analysis. Report on final conclusion of clinical study should be consistent with the results of statistical analysis.
Article 26. Documents archive on clinical drug trial
1. The data, the original document, testing slip, image diagnostic results, the collected documents related to clinical drug trial, minutes of meetings of the boards, supervision records, progress reports, trial registration documents and other trial-related materials must be preserved completely, stored at least 15 years at the research establishments, from the time the study is ended.
2. Prime researcher is responsible for the entire process of preservation and archive of research documentation and for presenting them upon request of the delegations of inspection, supervision and competent state management agencies.
Article 27. Report of research result of clinical drug trial
1. Report of result of clinical drug trial is in compliance with prescribed form (Appendix 7, issued together with this Circular), including full information on the drug, description of the research method, testing process, data analysis, result evaluation, comparison with the research objectives and research tasks; provide honest and objective, accurate conclusions. Contents of report must be consistent with the objectives and content of research in the approved outline.
2. Prime researcher is responsible for the science, accuracy and truthfulness of the data, conclusions, judgment and other contents of the report.
Article 28. Management of drugs of clinical trial
1. The import and export of drugs of clinical trial shall comply with current regulations on import and export of drugs.
2. The management of drugs of clinical trial must comply with current regulations from the stages of sampling, quality testing, packaging, transportation, delivery, storage, labeling, and distribution.
3. It must have a logbook to track the use of drugs of clinical trial together with information on the quantity and quality of drugs.
4. Un-used up drugs and stored drugs must be strictly managed, separated and stored according to the right regulations. Unused up drugs must be handed over to organizations and individuals with drugs of clinical trial.
5. It must be made handling records for the drugs not guaranteed quality in accordance with provisions of the Ministry of Health.
6. Stored drug samples (03 smallest packaging unit) must be preserved at least three years (36 months) in the organizations undertaking clinical drug trial after the end of the research.
RIGHTS AND OBLIGATIONS OF PARTICIPANTS, THE ORGANIZATIONS HAVING DRUGS OF CLINICAL TRIAL AND THE ORGANIZATIONS UNDERTAKING CLINICAL DRUG TRIAL
Article 29. Rights of participants in clinical drug trial
1. Be provided with full and truthful information before the clinical trials on the process of trial and the risks that may occur.
2. Be compensated damages by agencies, organizations, and individuals with drugs of clinical trial if they are caused by clinical trials.
3. Be kept confidential on concerned individual information.
4. Not be responsible for the unilateral termination of contract for participation in clinical drug trial.
5 Lodge complaints and denunciations for acts of law violations of organizations or individuals with drugs of clinical trial and organizations undertaking clinical trial.
6. Be cared for Healthcare in the process of trial by the research outline to be approved.
Article 30. Rights of agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial
1. Be selected and proposed the organization to meet the regulations on material facilities and expertise officials to conduct clinical drug trial.
2. Be owned all of the research results of drugs of clinical trial.
3. Be applied for the termination of the research if the organization undertaking drug trial commits serious violations of outline.
Article 31. Obligations of agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial
1. To apply for permission and agreed by the Minister of Health in writing prior to clinical trial.
2. To pay compensation for damages to participants in clinical drug trial if the risk occurs due to clinical drug trial in accordance with provisions of current legislation.
3. To sign contracts for clinical drug trial with the organizations undertaking clinical drug trial and clinical research organization (if any).
4. To take responsibility before law for the safety and quality of drugs supplied by them.
Article 32. Rights of the organizations undertaking clinical drug trial
1. Be supplied drugs, funds by agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial to conduct clinical trials in accordance with the law provisions.
2. Be used research results of clinical drug trial under agreements with agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial.
Article 33. Obligations of the organizations undertaking clinical drug trial
1. To comply with good clinical practice; report to the Ministry of Health on the process, results of clinical drug trial and report irregularly for the necessary cases.
2. To sign the contract on the clinical drug trial with agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial and with participants in clinical trial.
3. To continue to monitor health and disease of participants in clinical trial as agreed in the contract or the research outline.
SUPERVISION AND INSPECTION OF RESEARCH QUALITY ASSURANCE
Article 34. Supervision, inspection of clinical drug trial process
1. Supervision and inspection to ensure the rights and interests and health of participants in clinical drug trial; ensure the recorded data of the research to be conducted fully and accurately, timely and in accordance with regulations of the research outline approved.
2. Ministry of Health establishes the delegation of monitoring, period, and irregular inspection for each specific case.
3. Competent state management agencies, organizations and individuals with drugs of clinical trial, clinical research organization (CRO) or research site management organization (SMO) approved by the Health Ministry in writing may propose the appointment of persons for systematic monitoring and supervision of the research process. The person who is assigned the task of supervision is not a member of the research team, complies with regulations on security of research data and other information related to clinical trial participants and take responsibility before the management agencies for their works.
4. Major researchers and the researchers are responsible for creating conditions for the supervisor to refer the research data upon request.
5. Delegation of supervision, inspection is responsible for checking the report, proposing by the minutes of supervision and inspection of the supervision contents with competent state management agencies as the basis for the consideration and handling according to the provisions of law.
Article 35. Assurance of the reliability of research results of clinical drug trial
1. To ensure research with sufficient reliability, the analysis and judgment, conclusions on the results must be derived from the original data. In each research stage, it should examine all the clinical data and testing criteria.
2. In necessary cases, the acceptance councils at all levels will invite experts for evaluating results, checking data, testing products of research or establish the board of monitoring data (DSMB) at the request of the management agency.
ACCEPTANCE OF EVALUATION OF RESULTS OF CLINICAL DRUG TRIAL
Article 36. Procedures for accepting the results of clinical drug trial
1. Acceptance of the research results of clinical drug trial is done under the current regulations on assessment, acceptance of research themes of science, technology and good clinical practice guidelines.
2. The acceptance is conducted at two levels: grassroots level and Ministry of Health level. At the end of the research, the prime researcher is responsible for reporting to the organizations undertaking clinical drug trial to evaluate the research results at grassroots level and completing the dossier to report to the Ministry of Health for acceptance at Ministry level.
Article 37. Acceptance dossier at level of Ministry of Health
Dossier of report for acceptance at level of Ministry (01 original set signed, sealed legally and 03 copies), includes:
1. Official dispatch of the organization undertaking clinical drug trial proposing for the acceptance at level of Ministry.
2. Copy of research outline to be approved.
3. Decision on approving research outline.
4. Decision on establishing Council of acceptance at grassroots level.
5. Minutes of meetings of Council of acceptance at grassroots level.
6. Full-text reports of research results of clinical drug trial as prescribed and may add other relevant information as it deems necessary.
Article 38. End of research of clinical drug trial
1. Within 30 working days after receiving complete dossiers applied for acceptance, the Ministry of Health will hold a Council of acceptance of the results of research under current regulations.
2. Research of clinical drug trial is considered as completed only when report on results finally assessed and accepted by the Council and accepted the additions of prime researcher in accordance with the comments of the Council (if any).
3. The data and results of clinical trials are published only when they were assessed and accepted by the Council of Ethics in biomedical research - Ministry of Health.
ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION
Article 39. Responsibility for implementation
The Department of Science and Training shall preside over and coordinate with the concerned Departments:
1. To receive and examine registration dossiers and guide organizations and individuals with drugs of clinical trial and organizations undertaking clinical drug trial to comply with the provisions of this Circular and other concerned provisions of law.
2. To appraise the conditions for clinical drug trial dossiers, professional capacity, material facilities and legality of the organizations undertaking clinical drug trial, clinical research organization (CRO), the management organization of research sites (SMO) and report to leader of the Ministry for permission to conduct trial.
3. To organize the meetings of the Council of Ethics in biomedical research - Ministry of Health to review for approval of research outlines, evaluation of the contents of ethics in research and specialized science; to assess the results of research of clinical drug trial, synthesize and submit to leader of the Ministry for approval.
4. To organize period or irregular supervision, inspection during the course of research.
5. To disseminate and guide implementation of the contents of this Circular and guide good clinical practice and ethics in biomedical research for the concerned units, organizations and individuals.
Article 40. Transitional provisions
The registration dossiers for clinical drug trial submitted before the effective date of this Circular are reviewed and evaluated according to "Regulation on clinical drug trial" issued together with Decision No.01/2007/QD -BYT dated 11/01/2007 of the Minister of Health.
1. This Circular takes effect from 20/03/2012.
2. To annul the Decision No.01/2007/QD-BYT dated 11/01/2007 of the Minister of Health promulgating the "Regulations on clinical drug trial" from the effective date of this Circular.
3. Heads of agencies, organizations and concerned units are responsible for organizing the propagation, dissemination and implementation of this Circular to the subjects for implementation.
In the implementation process if there are any problems, the concerned organizations, individuals should report them promptly to the Health Ministry for reviewing amendment and supplement accordingly.
|
MINISTER |