Chương 2 Nghị định 68/2002/NĐ-CP: Kết hôn
Số hiệu: | 68/2002/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 10/07/2002 | Ngày hiệu lực: | 02/01/2003 |
Ngày công báo: | 10/08/2002 | Số công báo: | Số 38 |
Lĩnh vực: | Quyền dân sự, Văn hóa - Xã hội | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/05/2013 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
2. Trong việc kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam, trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mà họ là công dân hoặc thường trú (đối với người không quốc tịch) về điều kiện kết hôn; ngoài ra, còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn.
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định tại khoản 2 Điều 17 của Nghị định này, nếu đăng ký kết hôn tại Việt Nam hoặc khoản 4 Điều 19 của Nghị định này, nếu đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam; mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được công nhận là vợ chồng.
1. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Trong trường hợp công dân Việt Nam không có hoặc chưa có hộ khẩu thường trú, nhưng đã đăng ký tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp luật về hộ khẩu thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tạm trú có thời hạn của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký việc kết hôn giữa người đó với người nước ngoài.
Trong trường hợp người nước ngoài thường trú tại Việt Nam xin kết hôn với nhau thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của một trong hai bên đương sự thực hiện đăng ký việc kết hôn.
2. Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước tiếp nhận nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú tại nước đó.
1. Hồ sơ đăng ký kết hôn của mỗi bên gồm các giấy tờ sau đây:
a) Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định, có xác nhận chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, của cơ quan có thẩm quyền về việc hiện tại đương sự là người không có vợ hoặc không có chồng;
Đối với người nước ngoài, việc xác nhận người đó không có vợ hoặc không có chồng có thể bằng một văn bản riêng. Trong trường hợp pháp luật nước ngoài không quy định việc xác nhận vào Tờ khai hoặc cấp loại giấy này thì có thể thay thế bằng việc xác nhận lời tuyên thệ của đương sự về việc không có vợ hoặc không có chồng, phù hợp với pháp luật nước đó.
b) Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức không có khả năng nhận thức được hành vi của mình;
c) Bản sao Giấy chứng minh nhân dân (đối với công dân Việt Nam ở trong nước); Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (đối với người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam ở nước ngoài);
d) Bản sao Sổ hộ khẩu, Giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể hoặc giấy xác nhận đăng ký tạm trú có thời hạn (đối với công dân Việt Nam ở trong nước), Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú hoặc giấy xác nhận tạm trú (đối với người nước ngoài ở Việt Nam);
đ) Lý lịch cá nhân theo mẫu quy định.
2. Ngoài các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, đương sự còn phải nộp giấy tờ tương ứng sau đây:
a) Đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật quốc gia thì phải nộp giấy xác nhận của cơ quan, tổ chức quản lý ngành cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh, xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo vệ bí mật quốc gia hoặc không trái với quy định của ngành đó;
b) Đối với người trước đây có vợ hoặc có chồng nhưng đã ly hôn thì phải nộp bản sao bản án, quyết định cho ly hôn đã có hiệu lực pháp luật;
Trong trường hợp bản án, quyết định cho ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài thuộc loại phải ghi chú vào sổ theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch thì bản án, quyết định đó phải được ghi chú trước khi nộp hồ sơ.
c) Đối với người trước đây có vợ hoặc có chồng nhưng người vợ hoặc người chồng đó đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết thì phải nộp bản sao Giấy chứng tử của người vợ hoặc người chồng đó.
3. Giấy tờ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được lập thành 02 bộ hồ sơ và nộp tại Sở Tư pháp, nếu đăng ký kết hôn tại Việt Nam; lập thành 01 bộ hồ sơ và nộp tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam, nếu đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam.
1. Khi nộp hồ sơ đăng ký kết hôn, cả hai bên đương sự phải có mặt. Trong trường hợp có lý do khách quan mà một bên không thể có mặt được thì phải có đơn xin vắng mặt và uỷ quyền cho bên kia đến nộp hồ sơ. Không chấp nhận việc nộp hồ sơ đăng ký kết hôn qua người thứ ba.
2. Khi nhận hồ sơ đăng ký kết hôn, Sở Tư pháp hoặc Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của các giấy tờ trong hồ sơ; nếu hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lệ thì hướng dẫn đương sự hoàn thiện hồ sơ.
Thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam là 30 ngày, kể từ ngày Sở Tư pháp nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trong trường hợp có yêu cầu cơ quan Công an xác minh theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định này thì thời hạn được kéo dài thêm 20 ngày.
Thời hạn 30 ngày cũng được áp dụng để giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam. Trong trường hợp có yêu cầu cơ quan hữu quan ở trong nước xác minh theo quy định tại khoản 2 Điều 19 của Nghị định này thì thời hạn được kéo dài thêm 45 ngày.
1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Sở Tư pháp có trách nhiệm:
a) Niêm yết việc kết hôn trong 07 ngày liên tục tại trụ sở Sở Tư pháp, đồng thời có công văn đề nghị ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn của bên đương sự là công dân Việt Nam, nơi thường trú của người nước ngoài tại Việt Nam niêm yết việc kết hôn đó. ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết việc kết hôn trong 07 ngày liên tục tại trụ sở ủy ban. Nếu có khiếu nại, tố cáo về việc kết hôn thì ủy ban nhân dân cấp xã phải gửi văn bản báo cáo ngay cho Sở Tư pháp;
b) Nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn. Trong trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo đương sự kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, Sở Tư pháp tiến hành xác minh, kể cả phỏng vấn các bên đương sự;
c) Báo cáo kết quả thẩm tra và đề xuất ý kiến giải quyết việc đăng ký kết hôn, trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, kèm theo 01 bộ hồ sơ đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp xét thấy vấn đề cần xác minh thuộc chức năng của cơ quan Công an thì Sở Tư pháp có công văn nêu rõ vấn đề cần xác minh, kèm theo 01 bộ hồ sơ đăng ký kết hôn gửi cơ quan Công an cùng cấp đề nghị xác minh.
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được công văn của Sở Tư pháp, cơ quan Công an tiến hành xác minh vấn đề được yêu cầu và trả lời bằng văn bản cho Sở Tư pháp.
3. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trình của Sở Tư pháp và hồ sơ đăng ký kết hôn, nếu xét thấy các bên đương sự đáp ứng đủ điều kiện kết hôn, không thuộc một trong các trường hợp từ chối đăng ký kết hôn quy định tại Điều 18 của Nghị định này thì Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hôn và trả lại hồ sơ cho Sở Tư pháp để tổ chức Lễ đăng ký kết hôn, ghi vào sổ đăng ký việc kết hôn và lưu trữ hồ sơ theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp từ chối đăng ký kết hôn thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh có văn bản thông báo cho đương sự, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
1. Lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hôn, trừ trường hợp có lý do chính đáng mà đương sự có yêu cầu khác về thời gian, nhưng không quá 90 ngày; hết thời hạn này mà đương sự mới yêu cầu tổ chức Lễ đăng ký kết hôn thì phải làm lại thủ tục đăng ký kết hôn từ đầu.
2. Lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trang trọng tại trụ sở Sở Tư pháp. Khi tổ chức Lễ đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện Sở Tư pháp chủ trì hôn lễ, yêu cầu hai bên cho biết ý định lần cuối về sự tự nguyện kết hôn. Nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện Sở Tư pháp ghi việc kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn, yêu cầu từng bên ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn và trao cho vợ, chồng mỗi người 01 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.
3. Giấy chứng nhận kết hôn có giá trị kể từ ngày tổ chức Lễ đăng ký kết hôn và ghi vào sổ đăng ký theo quy định tại khoản 2 Điều này. Việc cấp bản sao Giấy chứng nhận kết hôn từ sổ gốc do Sở Tư pháp thực hiện theo yêu cầu của đương sự.
1. Việc đăng ký kết hôn bị từ chối trong các trường hợp sau đây:
a) Một hoặc cả hai bên đương sự chưa đủ tuổi kết hôn theo pháp luật Việt Nam;
b) Bên đương sự là người nước ngoài chưa đủ tuổi kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc thường trú (đối với người không quốc tịch);
c) Việc kết hôn không do nam, nữ tự nguyện quyết định;
d) Có sự lừa dối, cưỡng ép kết hôn;
đ) Một hoặc cả hai bên đương sự là người đang có vợ, đang có chồng;
e) Một hoặc cả hai bên đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự;
g) Các đương sự là những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời;
h) Các đương sự đang hoặc đã từng là cha, mẹ nuôi và con nuôi, bố chồng và con dâu, mẹ vợ và con rể, bố dượng và con riêng của vợ, mẹ kế và con riêng của chồng;
i) Các đương sự cùng giới tính (nam kết hôn với nam, nữ kết hôn với nữ).
2. Việc đăng ký kết hôn cũng bị từ chối, nếu kết quả thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn là giả tạo, không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.
1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam có trách nhiệm:
a) Niêm yết việc kết hôn trong 07 ngày liên tục tại trụ sở Cơ quan;
b) Nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn. Trong trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo đương sự kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn thì Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tiến hành xác minh, kể cả phỏng vấn các bên đương sự;
c) Nếu xét thấy các bên đương sự đáp ứng đủ điều kiện kết hôn, không thuộc một trong các trường hợp từ chối đăng ký kết hôn quy định tại Điều 18 của Nghị định này thì người đứng đầu Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ký Giấy chứng nhận kết hôn.
Trong trường hợp từ chối đăng ký kết hôn thì Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam có văn bản thông báo cho đương sự, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
2. Trong trường hợp xét thấy vấn đề cần xác minh thuộc chức năng của cơ quan Công an, Tư pháp hoặc cơ quan hữu quan khác ở trong nước thì Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam có công văn nêu rõ vấn đề cần xác minh gửi cơ quan hữu quan ở trong nước đề nghị xác minh theo chức năng chuyên ngành.
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được công văn của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam, cơ quan hữu quan ở trong nước tiến hành xác minh vấn đề được yêu cầu và trả lời bằng văn bản cho Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam.
3. Lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày người đứng đầu Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ký Giấy chứng nhận kết hôn, trừ trường hợp có lý do chính đáng mà đương sự có yêu cầu khác về thời gian, nhưng không quá 90 ngày; hết thời hạn này mà đương sự mới yêu cầu tổ chức Lễ đăng ký kết hôn thì phải làm lại thủ tục đăng ký kết hôn từ đầu.
4. Lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trang trọng tại trụ sở Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam. Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam chủ trì hôn lễ, yêu cầu hai bên cho biết ý định lần cuối về sự tự nguyện kết hôn. Nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ghi việc kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn, yêu cầu từng bên ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn và trao cho vợ, chồng mỗi người 01 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.
5. Giấy chứng nhận kết hôn có giá trị kể từ ngày tổ chức Lễ đăng ký kết hôn và ghi vào sổ đăng ký theo quy định tại khoản 4 Điều này. Việc cấp bản sao Giấy chứng nhận kết hôn từ sổ gốc do Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam hoặc Bộ Ngoại giao thực hiện theo yêu cầu của đương sự.
1. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, phù hợp với pháp luật của nước đó thì được công nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm kết hôn công dân Việt Nam không vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn.
Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn, hậu quả của sự vi phạm đó đã được khắc phục hoặc công nhận việc kết hôn đó là có lợi cho việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em thì hôn nhân đó cũng được công nhận tại Việt Nam.
2. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài thì được công nhận tại Việt Nam, nếu không có đơn yêu cầu không công nhận việc ly hôn đó tại Việt Nam.
3. Việc công nhận kết hôn quy định tại khoản 1 Điều này, việc công nhận ly hôn quy định tại khoản 2 Điều này được ghi chú vào sổ đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch.
Hoạt động hỗ trợ kết hôn theo quy định tại Nghị định này phải tuân thủ nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận. Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn hoặc lợi dụng việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ cấp tỉnh trở lên (sau đây gọi là Tổ chức chủ quản) có đủ các điều kiện sau đây được thành lập Trung tâm hỗ trợ kết hôn:
1. Có chương trình, kế hoạch hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận nhằm hỗ trợ việc kết hôn.
2. Có địa điểm, trang thiết bị cần thiết bảo đảm cho hoạt động của Trung tâm.
3. Có nhân lực bảo đảm cho hoạt động của Trung tâm.
4. Người dự kiến đứng đầu Trung tâm hỗ trợ kết hôn phải là người có đạo đức tốt, có tâm huyết hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, không có tiền án.
1. Trung tâm hỗ trợ kết hôn phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp nơi đặt trụ sở của Trung tâm. Hồ sơ đăng ký hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn gồm các giấy tờ sau đây:
a) Tờ khai đăng ký hoạt động theo mẫu quy định;
b) Bản sao Quyết định thành lập Trung tâm của Tổ chức chủ quản;
c) Lý lịch cá nhân theo mẫu quy định, Phiếu lý lịch tư pháp của người dự kiến đứng đầu Trung tâm;
d) Giấy tờ chứng minh về địa điểm đặt trụ sở của Trung tâm;
đ) Dự kiến chương trình, kế hoạch hoạt động hỗ trợ việc kết hôn theo nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận.
2. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp cấp hoặc từ chối cấp Giấy đăng ký hoạt động cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn. Trong trường hợp từ chối cấp Giấy đăng ký hoạt động, Sở Tư pháp thông báo bằng văn bản cho Tổ chức chủ quản đã thành lập Trung tâm.
3. Giấy đăng ký hoạt động có thời hạn 05 năm và có thể được gia hạn; thời gian mỗi lần gia hạn không quá 05 năm. Giấy đăng ký hoạt động cấp cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn có các nội dung chính sau đây:
a) Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Tổ chức chủ quản và của Trung tâm;
b) Họ tên người đứng đầu Trung tâm;
c) Nội dung hoạt động của Trung tâm;
d) Thời hạn hoạt động của Trung tâm;
đ) Việc gia hạn, thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động.
1. Trung tâm hỗ trợ kết hôn có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
2. Trung tâm hỗ trợ kết hôn có quyền:
a) Giới thiệu, giúp đỡ công dân Việt Nam và người nước ngoài tìm hiểu các vấn đề về hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của các bên, phong tục, tập quán và các vấn đề khác có liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến tới hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, một vợ một chồng;
b) Giúp đỡ các bên hoàn tất hồ sơ đăng ký kết hôn;
c) Được nhận thù lao để trang trải chi phí hoạt động theo mức do Tổ chức chủ quản quy định cụ thể, bảo đảm nguyên tắc phi lợi nhuận; được thanh toán tiền tàu xe đi lại, tiền lưu trú và các chi phí thực tế hợp lý khác theo thoả thuận với đương sự;
d) Được đề nghị gia hạn hoạt động, thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
3. Trung tâm hỗ trợ kết hôn có nghĩa vụ:
a) Tiến hành các hoạt động theo đúng nội dung ghi trong Giấy đăng ký hoạt động;
b) Công bố công khai và thu đúng quy định của Tổ chức chủ quản về mức thù lao để trang trải chi phí hoạt động, bảo đảm nguyên tắc phi lợi nhuận;
c) Giữ bí mật các thông tin, tư liệu về đời tư của các bên theo quy định của pháp luật;
d) Báo cáo định kỳ 06 tháng và hàng năm cho Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động và Tổ chức chủ quản về hoạt động của Trung tâm; báo cáo, cung cấp tài liệu hoặc giải thích về những vấn đề liên quan đến hoạt động của Trung tâm khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
đ) Chịu sự thanh tra, kiểm tra của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động và các cơ quan khác có thẩm quyền về hoạt động của Trung tâm;
e) Chịu sự kiểm tra, quản lý chặt chẽ, thường xuyên của Tổ chức chủ quản;
g) Thực hiện chế độ kế toán, thống kê theo quy định của pháp luật;
h) Gửi báo cáo quyết toán tình hình thu, chi tài chính liên quan đến hoạt động hỗ trợ kết hôn cho Tổ chức chủ quản và Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động;
i) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
1. Trung tâm hỗ trợ kết hôn chấp hành nghiêm chỉnh các quy định tại Nghị định này được gia hạn hoạt động. Chậm nhất 03 tháng trước khi Giấy đăng ký hoạt động hết hạn, nếu có yêu cầu gia hạn hoạt động thì Tổ chức chủ quản phải có văn bản đề nghị gia hạn gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động của Trung tâm, kèm theo Giấy đăng ký hoạt động và bản báo cáo về tình hình hoạt động của Trung tâm trong thời gian đã được cấp Giấy đăng ký hoạt động, có xác nhận của Tổ chức chủ quản.
2. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp quyết định cho gia hạn hoặc từ chối gia hạn Giấy đăng ký hoạt động.
Trường hợp cho gia hạn, Sở Tư pháp ghi trực tiếp việc gia hạn vào Giấy đăng ký hoạt động và đóng dấu xác nhận. Trường hợp từ chối gia hạn, Sở Tư pháp thông báo bằng văn bản cho Tổ chức chủ quản có văn bản đề nghị.
1. Trong trường hợp Trung tâm hỗ trợ kết hôn có sự thay đổi về tên gọi, địa điểm đặt trụ sở thì phải có văn bản đề nghị ghi chú thay đổi, kèm theo Giấy đăng ký hoạt động gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị ghi chú thay đổi, Sở Tư pháp ghi trực tiếp nội dung thay đổi vào Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm và đóng dấu xác nhận.
2. Trong trường hợp có yêu cầu thay đổi người đứng đầu Trung tâm hỗ trợ kết hôn hoặc nội dung hoạt động của Trung tâm thì Tổ chức chủ quản phải có văn bản đề nghị thay đổi, trong đó nêu rõ mục đích, nội dung và lý do thay đổi, kèm theo Giấy đăng ký hoạt động gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động của Trung tâm. Nếu thay đổi người đứng đầu Trung tâm thì kèm theo văn bản đề nghị thay đổi còn phải có Lý lịch cá nhân theo mẫu quy định và Phiếu lý lịch tư pháp của người dự kiến thay thế.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động, Sở Tư pháp xem xét, quyết định cho thay đổi hoặc từ chối thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động.
Trường hợp cho thay đổi, Sở Tư pháp ghi trực tiếp nội dung thay đổi vào Giấy đăng ký hoạt động và đóng dấu xác nhận. Trường hợp từ chối thay đổi, Sở Tư pháp thông báo bằng văn bản cho Tổ chức chủ quản có văn bản đề nghị.
1. Trung tâm hỗ trợ kết hôn chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây:
a) Tổ chức chủ quản quyết định giải thể Trung tâm trước thời hạn hoặc hết thời hạn hoạt động của Trung tâm theo Giấy đăng ký hoạt động mà không có đề nghị gia hạn;
b) Hết thời hạn hoạt động theo Giấy đăng ký hoạt động mà không được Sở Tư pháp cho gia hạn;
c) Bị tước quyền sử dụng không thời hạn Giấy đăng ký hoạt động theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, Tổ chức chủ quản phải có văn bản thông báo về việc chấm dứt hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn gửi Sở Tư pháp nơi Trung tâm đăng ký hoạt động, chậm nhất 30 ngày trước ngày chấm dứt hoạt động của Trung tâm. Trung tâm hỗ trợ kết hôn phải nộp lại Giấy đăng ký hoạt động cho Sở Tư pháp nơi đã đăng ký hoạt động trước đây.
3. Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này, Sở Tư pháp hoặc cơ quan khác có thẩm quyền phải gửi cho Tổ chức chủ quản văn bản từ chối gia hạn hoặc quyết định tước quyền sử dụng Giấy đăng ký hoạt động, chậm nhất 30 ngày trước ngày Trung tâm hỗ trợ kết hôn bị buộc chấm dứt hoạt động.
4. Trước ngày chấm dứt hoạt động, Trung tâm hỗ trợ kết hôn có trách nhiệm thanh toán xong mọi khoản nợ (nếu có) với tổ chức, cá nhân khác và giải quyết xong mọi vấn đề có liên quan đến việc chấm dứt hoạt động; báo cáo bằng văn bản cho Tổ chức chủ quản và Sở Tư pháp nơi đã đăng ký hoạt động trước đây.
Article 10.- Marriage conditions
1. For marriages between Vietnamese citizens and foreigners, each party shall have to abide by his/her country’s legislation on marriage conditions; the foreigners shall also have to comply with the provisions in Articles 9 and 10 of Vietnam’s Marriage and Family Law on the marriage conditions and cases of marriage prohibition, if the marriages are carried out before the competent State bodies of Vietnam.
2. For marriages between foreigners in Vietnam, and before competent State bodies of Vietnam, each party must abide by the legislation of the country where he/she is citizen or resides (for stateless people) on the marriage conditions; besides, they shall also have to comply with the provisions in Articles 9 and 10 of Vietnam’s Marriage and Family Law on the marriage conditions and cases of marriage prohibition.
Article 11.- Marriage ceremonies
The marriages must be registered and conducted by competent State bodies according to the ceremonies prescribed in Clause 2, Article 17 of this Decree, if the marriage registration is made in Vietnam, or Clause 4, Article 19 of this Decree, if the marriage registration is made at Vietnamese diplomatic or consular offices; other marriage ceremonies are all legally invalid.
Men and women living together as husbands and wives without marriage registration shall not be recognized as husbands and wives.
Article 12.- Competence to register marriages
1. The provincial-level People’s Committees of the localities where Vietnamese citizens permanently reside shall register the marriages between Vietnamese citizens and foreigners. In cases where Vietnamese citizens have not got or not yet got permanent residence registration but have already registered their temporary residence for a given period of time according to the law provisions on household registration, the provincial-level People’s Committees of the localities where the Vietnamese citizens temporarily reside shall register their marriages with foreigners.
In cases where foreigners permanently residing in Vietnam apply for marriage with each other, the provincial-level People’s Committees of the localities where either of them permanently resides shall register the marriage.
2. The Vietnamese diplomatic or consular offices in the foreign countries where Vietnamese citizens reside shall register the marriages between Vietnamese citizens and foreigners residing in those countries.
Section 1. MARRIAGE REGISTRATION ORDER AND PROCEDURES
Article 13.- Marriage registration dossiers
1. The marriage registration dossier of each party shall include the following papers:
a) The marriage registration declaration made according to set form, with certification made within 6 months to the date of receiving the dossier by a competent body that the involved party is currently unmarried.
For foreigners, such certification of being unmarried can be made in a separate document. In cases where foreign laws do not prescribe the certification in the declaration form or the granting of this type of paper, it can be replaced by the certification of oath taken by the involved party that he or she is unmarried, in accordance with the laws of those countries.
b) The health certificate granted by a Vietnamese or foreign competent health organization within 6 months to the date of receiving the dossier, certifying that such person does not suffer from mental diseases or has suffered from mental diseases but not to the extent of incapability to be aware of his/her acts;
c) The copy of people’s identity card (for Vietnamese citizens staying in the country); passport or papers of substitute value (for foreigners or Vietnamese citizens staying overseas);
d) The copy of the household registration book, the certificates of being collectively registered resident or temporary resident (for Vietnamese citizens staying in the country); permanent residence card, temporary residence card or temporary residence certificate (for foreigners in Vietnam);
e) Curriculum vitae made according to set form.
2. In addition to the papers prescribed in Clause 1 of this Article, depending on each specific case, the involved person shall also have to submit the following corresponding papers:
a) For Vietnamese citizens being on active service in the armed forces or performing jobs directly related to State secrets, they must submit the certification by their managing agencies or organizations of the central or provincial level that their marriages with foreigners do not affect the protection of State secrets or do not contravene the regulations of those branches.
b) For persons who were once married but have already been divorced, they must submit the copies of the legally effective judgments or decisions permitting their divorces.
In cases where the judgments or decisions of courts or other competent agencies of foreign countries, permitting the divorces belong to the types which require annotation in books according to law provisions on household registration, such judgments and decisions must be annotated before being submitted.
c) For persons who were once married but their spouses have already died or have been declared dead, they must also submit a copy of the certificate of the death of such spouse.
3. The papers prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article shall be compiled in two sets of dossier and submitted at the provincial/municipal Justice Services, if the marriages are registered in Vietnam; or in one set of dossier and submitted at Vietnamese Diplomatic or Consular Offices, if the marriages are registered at the Vietnamese diplomatic or consular offices.
Article 14.- Procedures for submission, reception of dossiers
1. When submitting the marriage registration dossiers, both involved parties must be present. In cases where either party is unable to be present for objective reasons, such party must send the application for absence and entrust the other party to submit the dossiers. Marriage registration dossiers submitted through a third party shall not be accepted.
2. When receiving the marriage registration dossiers, the provincial/municipal Justice Services or the Diplomatic or Consular Offices of Vietnam shall check the completeness and validity of the papers in the dossiers; if the dossiers are incomplete or invalid, they shall guide the involved parties to complete the dossiers.
Article 15.- Time limits for settlement of marriage registration
The time limit for settling the marriage registration in Vietnam shall be 30 days as from the date the provincial/municipal Justice Services receive the complete and valid dossiers. In cases where the Police Offices are requested to make verification as provided for in Clause 2, Article 16 of this Decree, such time limit shall be prolonged for 20 days.
The 30-day time limit shall also apply to the settlement of marriage registration at the Vietnamese Diplomatic or Consular Offices. In cases where the concerned agencies in the country are requested to make verification as provided for in Clause 2, Article 19 of this Decree, such time limit may be prolonged for 45 days.
Article 16.- Order of settling the marriage registration in Vietnam
1. Within 20 days as from the date of receiving the complete and valid dossiers as well as fees, the provincial/municipal Justice Services have the responsibility:
a) To post up the marriage notices for 7 consecutive days at the offices of the provincial/municipal Justice Services and at the same time to send official dispatches requesting the commune-level People’s Committees of the localities where the involved parties being Vietnamese citizens permanent reside or temporarily reside for a definite time or where the foreigners in Vietnam permanently reside to post up such marriages. The commune-level People’s Committees shall have to post up the marriage notices for 7 consecutive days at their offices. If there is any complaint or denunciation about the marriages, the commune-level People’s Committees shall have to immediately send written reports thereon to the provincial/municipal Justice Services.
b) To study and verify the marriage registration dossiers. In cases where there is any doubt, complaint or denunciation that the involved parties make sham marriages, take advantage of the marriage to traffic in women, or for other self-seeking purposes or where they deem that the personal identification of the involved parties or papers in the marriage registration dossiers need to be clarified, the provincial/municipal Justice Services shall carry out the verification, including interviews with the involved parties.
c) To report on the verification results and propose opinions on settlement of marriage registration to the provincial-level People’s Committees for decision, enclosed with 1 set of the marriage registration dossier.
2. In cases where they deem that the issues which should be verified fall under the function of police offices, the provincial/municipal Justice Services shall send official dispatches clearly stating the issues to be verified, enclosed with 1 set of the marriage registration dossier, to the police offices of the same level, requesting the verification.
Within 20 days as from the date of receiving the official dispatches from the provincial/municipal Justice Services, the police office shall carry out the verification of the issues requested and reply the Justice Services in writing.
3. Within 7 days as from the date of receiving the documents submitted by the provincial/municipal Justice Service and the marriage registration dossiers, if deeming that the involved parties fully meet the marriage conditions and do not fall into cases of marriage registration refusal, prescribed in Article 18 of this Decree, the provincial-level People’s Committee president shall sign the marriage certificates and return the dossiers to the Justice Service for organizing the marriage registration ceremony, recording in the marriage register and archiving the dossiers according to law provisions.
In case of refusing the marriage registration, the provincial-level People’s Committee shall notify the involved parties in writing, clearly stating the reasons therefor.
Article 17.- Ceremonies for marriage registration in Vietnam
1. The marriage registration ceremony shall be organized within 7 days as from the date the provincial-level People’s Committee president sign the marriage certificate, except where the involved parties, for plausible reasons, request another time limit, which, however, shall not exceed 90 days; if past this time limit the involved parties request the organization of marriage registration ceremony, they must restart the procedures for marriage registration.
2. The marriage registration ceremony shall be solemnly organized at the offices of the provincial/municipal Justice Service. When the marriage registration ceremony is held, both marriage partners must be present. The representatives of the provincial/municipal Justice Service shall preside over the ceremony, requesting both parties to state their final intention on voluntary marriage. If they agree to marry each other, the representatives of the Justice Service shall record the marriage in the marriage registers, requesting each party to sign on the marriage certificate, the marriage register and hand over the original marriage certificate to the husbands and wives, each with one certificate.
3. The marriage certificate shall be valid from the date the marriage registration ceremony is organized and the marriage is recorded in the marriage register as provided for in Clause 2 of this Article. The granting of copies of the marriage certificate from the original registers shall be effected by the provincial/municipal Justice Service at the requests of the involved parties.
Article 18.- Refusal of marriage registration
1. The marriage registration shall be refused in the following cases:
a) One or both parties fail to reach the marriage ages according to Vietnamese laws;
b) The foreign party fails to reach the marriage age according to the laws of the country which he/she is citizen of or where he/she permanently resides (for stateless persons);
c) The marriage is not voluntarily decided by the male and/or the female;
d) There is deception, coercion in the marriage;
e) One or both parties is or are married;
f) One or both parties lose the civil act capacity;
g) The involved parties are in the direct lines of descent or relatives within three generations;
h) The involved parties are or were once the adoptive father, adoptive mother and the adopted daughter, son; the father-in-law and daughter-in-law; the mother-in-law and son-in-law; the step father and his step- daughter; the step-mother and her step-son;
i) The involved parties are of the same sex (marriage between men, marriage between women).
2. The marriage registration shall also be denied if the inspection and verification results show that the marriage is sham, not for the purpose of building an abundant, equitable, progressive, happy and sustainable family; the marriage aims at trafficking in women, sexually abusing women or other self-seeking purposes.
Article 19.- Marriage registration at Vietnamese diplomatic or consular offices
1. Within 20 days as from the date of receiving complete and valid dossiers as well as fees, the Vietnamese diplomatic and consular offices have the responsibility:
a) To post up the marriage notices for 7 consecutive days at their offices;
b) To study and verify the marriage registration dossiers. In case where there is any doubt, complaint or denunciation that the involved parties make a sham marriage, take advantage of the marriage for the purpose of trafficking in women or for other self-seeking purposes or where they deem that the personal identifications of the involved parties or papers in the marriage registration dossiers need to be clarified, the Vietnamese diplomatic or consular offices shall conduct the verification, including interviews with the involved parties;
c) If deeming that the involved parties fully meet the marriage conditions and do not fall into one of the cases of marriage registration refusal prescribed in Article 18 of this Decree, the heads of the Vietnamese diplomatic or consular offices shall sign the marriage certificates.
In cases of refusing the marriage registration, the Vietnamese diplomatic or consular offices shall send written notifications to the involved parties, clearly stating the reasons therefor.
2. In cases where they deem that the issues to be verified fall within the functions of the police offices, justice bodies or other concerned agencies in the country, the Vietnamese diplomatic or consular offices shall send official dispatches clearly stating the issues which need to be verified to the concerned agencies in the country, requesting the verification according to specialized functions.
Within 20 days as from the date of receiving the official dispatches from the Vietnamese diplomatic or consular offices, the concerned agencies in the country shall verify the requested issues and reply the Vietnamese diplomatic or consular offices in writing.
3. The marriage registration ceremony shall be organized within 7 days as from the date the heads of the Vietnamese diplomatic or consular offices sign the marriage certificates, except where the involved parties, for plausible reasons, request other time, but such time limit shall not exceed 90 days; if past this time limit the involved parties request the organization of the marriage registration ceremony, they must restart the procedures for marriage registration.
4. The marriage registration ceremony shall be solemnly held at the Vietnamese diplomatic or consular offices. When the marriage registration ceremony is organized, both marriage partners must be present. The representatives of the Vietnamese diplomatic or consular offices shall preside over the marriage registration ceremony, requesting the two parties to state their final intentions on their voluntary marriage. If the two parties agree to marry each other, the representatives of the Vietnamese diplomatic or consular offices shall record the marriage into the marriage registers, request each party to sign his/her name to the marriage certificates and the marriage register, and hand over to the husband and wife each an original marriage certificate.
5. The marriage certificates shall be valid as from the date the marriage registration ceremony is organized and the marriage is recorded in the marriage register as provided for in Clause 4 of this Article. The granting of copies of marriage certificates from the original books shall be effected by the Vietnamese diplomatic or consular offices or Foreign Ministry at the request of the involved parties.
Section 2. RECOGNITION OF MARRIAGES AND DIVORCES ALREADY CARRIED OUT OVERSEAS
Article 20.- Recognition of marriages and divorces already carried out overseas
1. The marriages between Vietnamese citizens or between Vietnamese citizens and foreigners, which have been registered at competent agencies of foreign countries, in accordance with the legislations of those countries, shall be recognized in Vietnam, if by the time of marriage such Vietnamese citizens have not violated Vietnam’s law provisions on marriage conditions and cases of marriage prohibition.
In cases where there are violations of Vietnamese legislation on marriage conditions but by the time of requesting the recognition of the marriages, the consequences of such violations have already been overcome or the recognition of such marriages is beneficial to the protection of the interests of the women and children, such marriages shall also be recognized in Vietnam.
2. The divorces between Vietnamese citizens or between Vietnamese citizens and foreigners, which have already been settled at courts or other competent agencies of foreign countries, shall be recognized in Vietnam, if there are no applications for non-recognition of such divorces in Vietnam.
3. The marriage recognition prescribed in Clause 1 of this Article and the divorce recognition prescribed in Clause 2 of this Article shall be annotated in registers according to the law provisions on civil status registration.
Section 3. MARRIAGE SUPPORT ACTIVITIES
Article 21.- Principles for marriage support activities
The marriage support activities under the provisions of this Decree must comply with the humanitarian and non-profit principles. Marriage brokerage business activities or activities of taking advantage of marriage support to traffic in women, sexually abuse women or for other self-seeking purposes are strictly forbidden.
Article 22.- Conditions for setting up marriage support centers
Vietnam Women’s Unions of the provincial or higher level (hereinafter called the managing organizations) which satisfy all the following conditions shall be entitled to set up Marriage Support Centers:
1. Having programs, plans on humanitarian and non-profit activities to support marriages.
2. Having locations and necessary equipment and facilities to ensure the operations of the centers.
3. Having personnel to ensure the operations of the centers.
4. The expected heads of the Marriage Support Centers must have good virtue, have hearts and minds for social, humanitarian and charity activities, and have no criminal records.
Article 23.- Procedures for registration of operations of Marriage Support Centers
1. The Marriage Support Centers must register their operations at the provincial/municipal Justice Services of the localities where they are head-quartered. The dossiers for registration of operation of a Marriage Support Center shall include the following papers:
a) The operation registration declaration made according to set form;
b) The copy of the managing organization’s decision on the establishment of the center;
c) The curriculum vitae in set form, the legal record card of the person expected to head the Center;
d) The papers testifying to the location of the Center’s headquarters;
e) The expected programs, plans on marriage support activities according to the humanitarian and non-profit principles.
2. Within 7 days as from the date of receiving complete and valid dossiers, the provincial/municipal Justice Services shall grant or refuse to grant the operation registration papers to the Marriage Support Centers. In case of refusal, the Justice Services shall notify such in writing to the managing organizations which have set up the centers.
3. The operation registration papers shall be valid for 5 years and can be extended; the duration of each extension shall not exceed 5 years. The operation registration paper granted to a Marriage Support Center shall contain the following principal details:
a) The appellations and office addresses of the managing organization and the Center;
b) The full name of the head of the Center;
c) The operations of the Center;
d) The operation duration of the Center;
e) The extension, changes in the content, of the operation registration paper.
Article 24.- Rights and obligations of the Marriage Support Centers
1. The Marriage Support Centers shall have the legal person status, their own seals and accounts.
2. The Marriage Support Centers shall have the rights:
a) To recommend and assist Vietnamese citizens and foreigners to inquire into matters regarding the personal identification, families and social backgrounds of the parties, customs and practices, as well as other relevant matters requested by the parties; create favorable conditions for them to proceed to voluntary, equitable, progressive and monogamic marriages;
b) To assist the parties in finalizing dossiers for marriage registration;
c) To receive remuneration in order to cover operation costs at the levels set by the managing organizations, ensuring the non-profit principle; to be paid with travel fares, accommodation costs and other reasonable actual expenses under the agreement reached with the involved parties;
d) To request extension of operation as well as changes in the content of the operation registration papers;
e) Other rights as prescribed by law.
3. The Marriage Support Centers shall have the obligations:
a) To carry out activities in strict accordance with the contents inscribed in the operation registration papers;
b) To publicize and collect remuneration as provided for by the managing organizations to cover the operation costs, ensuring the non-profit principle;
c) To keep secret information and materials on the private life of the parties as provided for by law;
d) To biannually and annually report to the provincial/municipal Justice Services where the operation registration is made and the managing organizations on the operations of the centers; to report and supply materials or explain matters related to the operations of the centers, when so requested by competent State bodies;
e) To submit to the examination and inspection by the Justice Ministry, the provincial/municipal Justice Services where the operation registration is carried out and other competent agencies of the operations of the centers;
f) To submit to the regular and close inspection and strict management by the managing organizations;
g) To implement the accounting and statistical regimes as provided for by law;
h) To send reports on the settlement of financial revenues and expenditures related to the marriage support activities to the managing organizations and the provincial/municipal Justice Services where their operations are registered;
i) Other obligations as prescribed by law.
Article 25.- Extension of operations of marriage support centers
1. Marriage support centers which strictly abide by the provisions of this Decree shall be entitled to extend their operations. At least 3 months before the expiry of their operation registration papers, if wishing to extend the operation of their centers, the managing organizations shall send their written requests for operation extension to the provincial/municipal Justice Services where the centers operations are registered, together with the operation registration papers and the reports on the operation situation of the centers during the time they were granted the operation registration papers, with certification of the managing organizations.
2. Within 7 days as from the date of receiving the complete and valid dossiers, the provincial/municipal Justice Services shall decide or refuse to extend the operation registration papers.
In case of permitting the extension, the provincial/municipal Justice Services shall directly inscribe the extension in the operation registration papers and affix stamps for certification. In case of refusing the extension, the Justice Services shall notify such in writing to the managing organizations which sent the written requests.
Article 26.- Changes in contents of the operation registration papers of Marriage Support Centers
1. In cases where Marriage Support Centers wish to change their appellations and/or headquarters locations, they must send written requests for annotation on the changes, together with their operation registration papers, to the provincial/municipal Justice Services where their operations have been registered.
Within 3 days as from the date of receiving the written requests for annotation on the changes, the provincial/municipal Justice Services shall directly inscribe the changed contents in the operation registration papers of the Centers and affix stamps for certification.
2. In cases where there are requests for replacement of the heads of the Marriage Support Centers or the operation contents of the Centers, the managing organizations must send the written requests for the changes, clearly stating the purposes, contents and reasons for the changes, together with the operation registration papers, to the provincial/municipal Justice Services where the Centers operations have been registered. In case of replacement of the heads of the Centers, the curricula vitae made in set form and the legal record cards of the substitutes must be enclosed with the written requests for the change.
Within 7 days as from the date of receiving the written requests for changes in the contents of the operation registration papers, the provincial/municipal Justice Services shall consider and decide to permit or refuse the changes in the contents of the operation registration papers.
In case of permitting the changes, the provincial/municipal Justice Services shall directly inscribe the changed contents in the operation registration papers and affix stamps for certification. In case of refusing the changes, the Justice Services shall notify such in writing to the managing organizations which filed the written requests.
Article 27.- Termination of operations of Marriage Support Centers
1. A Marriage Support Center shall terminate its operation in the following cases:
a) The managing organization decides to dissolve the Center ahead of time or fails to request for the extension of the Center’s operation upon the expiry of its operation.
b) When the Center’s operation duration stated in the operation registration paper has expired, the provincial/municipal Justice Service refuses the extension thereof.
c) It is deprived indefinitely of the right to use the operation registration paper by decision of a competent State body.
2. In cases of operation termination under the provisions at Point a, Clause 1 of this Article, the managing organizations must send their written notifications of the termination of operation of the Marriage Support Centers to the provincial/municipal Justice Services where the Centers have registered their operations, at least 30 days before the date of termination of operations of the Centers. The Marriage Support Centers shall have to return the operation registration papers to the provincial/municipal Justice Services where they previously registered their operation.
3. In case of operation termination under the provisions at Points b and c, Clause 1 of this Article, the provincial/municipal Justice Services or other competent bodies must send to the managing organizations the written refusal of the extension or the decisions on deprivation of the right to use the operation registration papers at least 30 days before the date the Marriage Support Centers are forced to terminate their operations.
4. Before the date of operation termination, the Marriage Support Centers shall have to repay all debts (if any) to other organizations and/or individuals and settle all matters related to the operation termination; and report thereon in writing to the managing organizations and the provincial/municipal Justice Services where they previously registered their operation.