Chương 4 Nghị định 125/2003/NĐ-CP : Trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức
Số hiệu: | 125/2003/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 29/10/2003 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2003 |
Ngày công báo: | 03/11/2003 | Số công báo: | Số 177 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Xuất nhập khẩu, Giao thông - Vận tải | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/12/2009 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về hàng hoá kể từ khi tiếp nhận hàng cho đến khi giao trả hàng cho người nhận hàng.
1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi và sai sót của người làm công hoặc đại lý của mình, khi họ đã hành động trong phạm vi được thuê, hoặc mọi hành vi và sai sót của bất cứ người nào khác mà người kinh doanh vận tải đa phương thức sử dụng dịch vụ của họ để thực hiện hợp đồng vận tải đa phương thức.
2. Trong trường hợp người kinh doanh vận tải đa phương thức ký hợp đồng vận chuyển đơn thức với người vận chuyển thì phải áp dụng pháp luật chuyên ngành của vận tải đơn thức đó.
1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức cam kết thực hiện hoặc tổ chức thực hiện tất cả các công việc cần thiết nhằm đảm bảo việc giao trả hàng cho người có quyền nhận hàng.
2. Khi chứng từ vận tải đa phương thức đã được phát hành dưới dạng chuyển nhượng được, tuỳ theo hình thức chứng từ, việc giao trả hàng quy định như sau:
a) Chứng từ ở hình thức "Xuất trình" thì hàng hoá được giao trả cho người xuất trình một bản gốc của chứng từ đó;
b) Chứng từ ở hình thức "Theo lệnh" thì hàng hoá được giao trả cho người xuất trình một bản gốc của chứng từ đó đã được ký hậu một cách phù hợp;
c) Chứng từ ở hình thức "Theo lệnh của người có tên trong chứng từ gốc" thì hàng hoá được giao trả cho người chứng minh được mình là người có tên trong chứng từ và xuất trình một bản chứng từ gốc. Nếu chứng từ đó đã được chuyển đổi sang hình thức "Theo lệnh" thì hàng hoá được giao trả theo quy định tại điểm b, Khoản này.
3. Khi chứng từ vận tải đa phương thức đã được phát hành dưới dạng không chuyển nhượng được thì hàng hoá được giao trả cho người có tên là người nhận hàng trong chứng từ, khi người đó chứng minh được mình là người có tên người nhận hàng trong chứng từ.
4. Khi hợp đồng vận tải đa phương thức quy định không phát hành chứng từ thì hàng hoá được giao trả cho một người theo chỉ định của người gửi hàng hoặc theo chỉ định của người có quyền của người gửi hàng hoặc của người có quyền của người nhận hàng theo quy định của hợp đồng vận tải đa phương thức.
5. Sau khi người kinh doanh vận tải đa phương thức đã giao trả hàng cho người xuất trình một bản gốc chứng từ vận tải đa phương thức thì các bản gốc khác của chứng từ không còn giá trị nhận hàng.
1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về tổn thất do mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá hoặc do việc giao trả hàng chậm gây nên, nếu sự việc đó xảy ra trong thời hạn và phạm vi trách nhiệm quy định tại Nghị định này, trừ khi người kinh doanh vận tải đa phương thức chứng minh được mình, người làm công, đại lý hoặc bất cứ người nào khác quy định tại Điều 16 Nghị định này, đã thực hiện các biện pháp hợp lý nhằm tránh hậu quả xấu xảy ra.
2. Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm thanh toán chi phí giám định, ngay cả khi người nhận hàng yêu cầu giám định, nếu không chứng minh được rằng hàng hoá bị mất mát, hư hỏng ngoài phạm vi trách nhiệm của mình. Trong các trường hợp khác người yêu cầu giám định phải thanh toán chi phí giám định.
3. Người kinh doanh vận tải đa phương thức không chịu trách nhiệm và được coi là đã giao trả hàng hoá đủ và đúng như ghi trong chứng từ vận tải đa phương thức cho người nhận hàng, nếu người nhận hàng không thông báo bằng văn bản cho người kinh doanh vận tải đa phương thức về các mất mát, hư hỏng hàng hoá chậm nhất là một ngày tính từ ngày nhận hàng. Trường hợp hàng hoá bị mất mát, hư hỏng không thể phát hiện từ bên ngoài, thì người nhận hàng phải thông báo bằng văn bản cho người kinh doanh vận tải đa phương thức trong vòng 06 ngày (kể cả ngày lễ và ngày nghỉ), sau ngày hàng hoá đã được giao trả cho người nhận hàng. Trường hợp hàng hoá đã được giám định theo yêu cầu của người nhận hàng hoặc người kinh doanh vận tải đa phương thức trước khi giao trả hàng, thì không cần thông báo bằng văn bản.
4. Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về tổn thất tiếp theo do giao trả hàng chậm, khi người gửi hàng đã có văn bản yêu cầu giao trả hàng đúng hạn và văn bản đó đã được người kinh doanh vận tải đa phương thức chấp nhận.
1.Việc giao trả hàng bị coi là chậm khi xảy ra một trong các trường hợp sau:
a) Hàng hoá không được giao trả trong thời hạn đã được thoả thuận trong hợp đồng vận tải đa phương thức.
b) Trường hợp không có sự thoả thuận trong hợp đồng vận tải đa phương thức mà hàng hoá không được giao trả trong thời gian hợp lý đòi hỏi trong khi người kinh doanh vận tải đa phương thức đã làm hết khả năng của mình để có thể giao trả hàng, có xét đến hoàn cảnh của từng trường hợp cụ thể.
2. Hàng hoá bị coi là mất nếu chưa được giao trả trong vòng 90 ngày (kể cả ngày lễ và ngày nghỉ) tiếp sau ngày giao trả hàng đã được thoả thuận trong hợp đồng hoặc thời gian hợp lý như nêu tại điểm b, khoản 1 Điều này, trừ trường hợp người kinh doanh vận tải đa phương thức có bằng chứng chứng minh ngược lại.
Mặc dù có quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 1 và khoản 4 Điều 18 Nghị định này, người kinh doanh vận tải đa phương thức không phải chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm đối với hàng hoá được vận chuyển nếu chứng minh được việc gây nên mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm trong quá trình vận chuyển là do một hoặc nhiều nguyên nhân sau đây:
1. Bất khả kháng;
2. Hành vi hoặc sự chểnh mảng của người gửi hàng, người nhận hàng, người được uỷ quyền hoặc đại lý của họ;
3. Đóng gói, ghi ký hiệu, mã hiệu hoặc đánh số hàng hoá không đầy đủ hoặc khiếm khuyết;
4. Giao nhận, xếp dỡ, chất xếp hàng hoá dưới hầm tầu do người gửi hàng, người nhận hàng, người được uỷ quyền hoặc người đại lý thực hiện;
5. Ẩn tỳ hoặc tính chất tự nhiên vốn có của hàng hoá;
6. Đình công, bế xưởng, bị ngăn chặn sử dụng một bộ phận hoặc toàn bộ nhân công;
7. Trường hợp hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển, hoặc đường thuỷ nội địa, khi mất mát, hư hỏng hoặc chậm trễ xảy ra trong quá trình vận chuyển do:
a) Hành vi, sự chểnh mảng hoặc lỗi của thuyền trưởng, thuyền viên, hoa tiêu hoặc người làm công cho người vận chuyển trong điều hành hoặc quản trị tầu;
b) Cháy, trừ khi gây ra bởi hành vi cố ý thực hiện hoặc thông đồng thực hiện của người vận chuyển.
Trường hợp mất mát, hư hỏng hàng hoá xảy ra trong quá trình vận chuyển nói tại khoản này do tầu không có đủ khả năng đi biển thì người kinh doanh vận tải đa phương thức vẫn không phải chịu trách nhiệm nếu chứng minh được rằng khi bắt đầu hành trình tầu có đủ khả năng đi biển.
1. Việc tính tiền bồi thường do mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được thực hiện trên cơ sở tham khảo giá trị của hàng hoá đó tại địa điểm và thời gian hàng hoá được giao trả cho người nhận hàng hoặc tại địa điểm và thời gian đáng lẽ hàng hoá được giao trả theo quy định của hợp đồng vận tải đa phương thức.
2. Giá trị hàng hoá được xác định theo giá cả trao đổi hàng hoá hiện hành, nếu không có giá cả đó thì theo giá thị trường hiện hành; nếu không có giá cả trao đổi hoặc giá cả thị trường thì tham khảo giá trị trung bình của hàng hoá cùng loại và cùng chất lượng.
1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức chỉ chịu trách nhiệm trong bất cứ trường hợp nào về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá với mức tối đa tương đương 666,67 SDR cho một kiện hoặc cho một đơn vị hoặc 2,00 SDR cho một ki-lô-gam trọng lượng cả bì của hàng hoá bị mất mát, hư hỏng, tuỳ theo cách tính nào cao hơn, trừ khi tính chất và giá trị của hàng hoá đã được người gửi hàng kê khai trước khi hàng hoá được người kinh doanh vận tải đa phương thức tiếp nhận để vận chuyển và đã được ghi trong chứng từ vận tải đa phương thức.
2. Trường hợp trong một công-te-nơ, cao bản hoặc công cụ vận chuyển, đóng gói tương đương khác được xếp nhiều kiện, nhiều đơn vị mà các kiện hoặc các đơn vị đó được liệt kê trong chứng từ vận tải đa phương thức thì sẽ được coi là các kiện hoặc các đơn vị. Trong những trường hợp khác, container, cao bản hoặc công cụ vận chuyển, đóng gói tương đương khác đó phải được coi là kiện hoặc đơn vị .
3. Mặc dù có quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, nếu trong hợp đồng vận tải đa phương thức không bao gồm việc vận chuyển hàng hoá bằng đường biển hoặc đường thuỷ nội địa, thì trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức được giới hạn bởi số tiền không vượt quá 8,33 SDR cho một kilogram trọng lượng cả bì của hàng hoá bị mất mát hoặc hư hỏng.
4. Trường hợp mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá xảy ra trong một công đoạn cụ thể của vận tải đa phương thức, mà ở công đoạn đó điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc gia có quy định một giới hạn trách nhiệm khác, nếu hợp đồng vận tải được ký riêng cho công đoạn đó, thì giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức đối với mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá sẽ được áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc của pháp luật quốc gia đó.
5. Nếu người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về tổn thất do việc giao trả hàng chậm, hoặc tổn thất tiếp theo do giao trả hàng chậm mà không phải là mất mát hoặc hư hỏng đối với chính hàng hoá đó, thì trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức được giới hạn trong số tiền không vượt quá số tiền tương đương với tiền cước vận chuyển theo hợp đồng vận tải đa phương thức.
6. Toàn bộ trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức sẽ không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất toàn bộ hàng hoá.
7. Người kinh doanh vận tải đa phương thức không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm bồi thường, nếu người có quyền lợi liên quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do người kinh doanh vận tải đa phương thức đã hành động hoặc không hành động với chủ ý gây ra mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách liều lĩnh và biết rằng sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn sẽ xảy ra.
RESPONSIBILITIES OF MULTI-MODAL TRANSPORTATION DEALERS
Article 15.- Responsibility duration
The multi-modal transportation dealers must bear responsibility for the cargoes from the time they receive the cargoes till the time they deliver cargoes to the consignees.
Article 16.- Responsibilities towards employees, agents or carriers
1. The multi-modal transportation dealers must bear responsibility for all acts and errors of their employees or agents, when they have acted within the scope of hiring, or all acts and errors of any other persons whose services are used by the multi-modal transportation dealers for the performance of multi-modal transportation contracts.
2. In cases where the multi-modal transportation dealers sign single-modal transportation contracts with carriers, the specialized legislation on such single-modal transportation shall apply.
Article 17.- Responsibility to deliver cargoes
1. The multi-modal transportation dealers commit to perform, or organize the performance of, all necessary jobs in order to ensure the delivery of cargoes to the persons entitled to receive them.
2. When the multi-modal transportation vouchers have been issued in negotiable form, depending on the forms of vouchers, the cargo delivery is prescribed as follows:
a) If the vouchers are in form of "Presentation," the cargoes shall be delivered to the persons who present the originals of such vouchers;
b) If the vouchers are in form of "On order," the cargoes shall be delivered to the persons who present the originals of such vouchers, which have been properly endorsed;
c) If the vouchers are in form of "On order of the person named in the original vouchers, the cargoes shall be delivered to the persons who can evidence that they are the persons named in the vouchers and produce the original vouchers. If such vouchers are changed into form of "On order," the cargoes shall be delivered according to the provisions at Point b of this Clause.
3. When the multi-modal transportation vouchers are issued in non-negotiable form, the cargoes shall be delivered to the persons named as the cargo consignees in the vouchers, if such persons can prove that they are the persons named as the cargo consignees in the vouchers.
4. When the multi-modal transportation contracts prescribe the non-issuance of vouchers, the cargoes shall be delivered to one person designated by the cargo consignors or designated by the competent persons of the cargo consignors or the competent persons of the cargo consignees according to the provisions of the multi-modal transportation contracts.
5. After the multi-modal transportation dealers have delivered cargoes to the persons who present one original of the multi-modal transportation vouchers, the other originals of the vouchers shall be no longer valid for reception of cargoes.
Article 18.- Responsibility for cargo losses, damage or late delivery
1. The multi-modal transportation dealers must bear responsibility for the cargo losses, damage or late delivery if such things happen within the time limits and responsibility scope prescribed in this Decree, except when the multi-modal transportation dealers can prove that they, their employees, agents or any others prescribed in Article 16 of this Decree have already applied appropriate measures to preclude bad consequences.
2. The multi-modal transportation dealers shall have to pay all costs of expertise even when the cargo consignees request the expertise, if they cannot prove that the cargo losses or damage fall beyond the scope of their responsibility. For other cases, the expertise requesters shall have to pay the costs thereof.
3. The multi-modal transportation dealers shall not be held responsible for the cargo losses or damage and shall be considered as having fully delivered cargoes correctly as inscribed in the multi-modal transportation vouchers to the cargo consignees, if the later fail to notify in writing the former of such cargo losses or damage within one day after the reception of cargoes. In cases where cargo losses or damage cannot be detected from the outside, the cargo consignees must notify the multi-modal transportation dealers thereof in writing within 6 days (including public holidays and weekends) after the cargoes have been delivered to the consignees. In cases where the cargoes have already been expertised at the requests of the consignees or the multi-modal transportation dealers before the cargo delivery, written notification is not required.
4. The multi-modal transportation dealers must bear responsibility for the subsequent losses due to late delivery, when the cargo consignors have sent their documents requesting that the cargoes be delivered on time and such documents have already been accepted by the multi-modal transportation dealers.
Article 19.- Delivery time considered to be late or cargoes considered to be lost
1. The cargo delivery shall be considered late when it is effected in one of the following cases:
a) Cargoes are not delivered within the time limits agreed upon in the multi-modal transportation contracts.
b) In case of absence of such agreement in the multi-modal transportation contracts while the cargoes are not delivered within the reasonably required time limit and the multi-modal transportation dealers have done their best to deliver the cargoes, taking into account the circumstance of each specific case.
2. Cargoes are considered lost if they are not delivered within 90 days (including public holidays and weekends) after the delivery dates agreed upon in the contracts or the reasonable duration stated at Point b, Clause 1 of this Article, except where the multi-modal transportation dealers have evidences to prove contrarily.
Article 20.- Responsibility exemption
In spite of the provisions in Clause 1 of Article 16, Clauses 1 and 4 of Article 18, this Decree, the multi-modal transportation dealers shall not have to bear responsibility for the cargo losses, damage or late delivery if they can prove that such things have happened in the course of transportation due to one or many of the following causes:
1. Force majeure incidents;
2. Acts or negligence of the consignors, the consignees, their authorized persons or agents;
3. Incomplete or erroneous packing, sign-or code-inscription or numbering of cargoes;
4. Delivery, loading and unloading, piling of cargoes in ship holds by consignors, consignees, their authorized persons or agents;
5. Latent defects or natural properties of cargoes;
6. Labor strike, factory blockade, being prevented from the employment of part or whole of labor;
7. Where cargoes are transported by sea, inland waterways and losses, damage or late delivery happened in the course of transportation due to:
a) Acts, negligence or faults of ship masters, crew members, pilots or laborers working for the carriers in operating or administering the ships;
b) Fires, except when they are caused by deliberate acts or connivance of the carriers.
In cases where cargo losses or damage happen in the course of transportation as mentioned in this Clause due to the ships' incapability to fare sea, the multi-modal transportation dealers shall not also have to bear responsibility if they can prove that the ship have been capable of sea faring when starting the itineraries.
Article 21.- Ways of calculating compensation money
1. The calculation of compensations for cargo losses or damage shall be effected on the basis of referring to the values of such cargoes at the places and time they are delivered to the consignees or at the places and time they should have been delivered under the multi-modal transportation contracts.
2. The cargo values shall be determined according to the current goods- exchanging prices or in case of the absence of such prices, according to the current market prices; if the exchanging prices or market prices are not available, the average values of cargoes of the same types and the same quality shall be referred to.
Article 22.- Responsibility limits of multi-modal transportation dealers
1. The multi-modal transportation dealers shall only bear responsibility for cargo losses or damage in any circumstances at the maximum level equivalent to 666.67 SDR for one package or one piece or 2.00 SDR for one kilogram of weight, packing included, of the lost or damaged cargoes, depending on the higher calculation, except when the cargo properties and value have been declared by consignors before they are received by multi-modal transportation dealers for transportation and have been already inscribed in the multi-modal transportation vouchers.
2. In cases where in a container, or equivalent transport, packing instruments are arranged with many packages and/or many pieces, which have been listed in the multi-modal transportation vouchers, they shall be considered packages or pieces. In other cases, such containers, or other equivalent transport or packing instruments must be considered packages or pieces.
3. In spite of the provisions in Clauses 1 and 2 of this Article, if the multi-modal transportation contracts do not cover the cargo transportation by sea or inland waterways, the responsibility of the multi-modal transportation dealers shall be limited within the money amount not exceeding 8.33 SDR for one kilogram of weight including packing of the lost or damaged cargoes.
4. In cases where cargo losses or damage happen in a specific process of multi-modal transportation and at such process, the international treaties or national laws prescribe a different responsibility limit if the transport contracts are signed separately for such process, the limit of the multi-modal transportation dealers' responsibility for the cargo losses or damage shall comply with the provisions of such international treaties or national laws.
5. If the multi-modal transportation dealers have to bear responsibility for the damage due to late delivery, or subsequent damage due to late delivery, which are not the losses or damage of those very cargoes, the multi-modal transportation dealers' responsibility shall be limited within the money amount not exceeding the money amount equivalent to the freightage under the multi-modal transportation contracts.
6. The total liability of the multi-modal transportation dealers shall not exceed the limit of responsibility for the losses of the entire cargoes.
7. The multi-modal transportation dealers are not entitled to enjoy the right to compensation responsibility limits, if the persons with relevant interests can prove that the cargo losses, damage or late delivery are caused by the multi-modal transportation dealers' actions or non-actions with intent of causing such losses, damage or late delivery or their reckless actions or non-actions and knowledge that such losses, damage or late delivery would have certainly happened.