Chương III Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022: Bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình
Số hiệu: | 13/2022/QH15 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Vương Đình Huệ |
Ngày ban hành: | 14/11/2022 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2023 |
Ngày công báo: | 15/12/2022 | Số công báo: | Từ số 909 đến số 910 |
Lĩnh vực: | Văn hóa - Xã hội | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Người bạo lực gia đình có thể phải làm công việc phục vụ cộng đồng
Ngày 14/11/2022, Quốc hội thông qua Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2022, trong đó, bổ sung biện pháp ngăn chặn, bảo vệ người bị bạo lực gia đình.
Đơn cử một số biện pháp ngăn chặn, bảo vệ người bị bạo lực gia đình như sau:
- Biện pháp yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở công an xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
- Góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư;
- Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng gồm:
+ Tham gia trồng, chăm sóc cây xanh ở khu vực công cộng;
+ Sửa chữa, làm sạch đường làng, ngõ xóm, đường phố, ngõ phố, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng;
+ Tham gia công việc khác nhằm cải thiện môi trường sống và cảnh quan của cộng đồng.
Xem chi tiết tại Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2022 có hiệu lực từ ngày 01/7/2023 và thay thế Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
b) Cơ quan Công an, Đồn Biên phòng gần nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
c) Cơ sở giáo dục nơi người bị bạo lực gia đình là người học;
d) Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
đ) Người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
e) Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình.
2. Việc báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình đến địa chỉ quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện theo các hình thức sau đây:
a) Gọi điện, nhắn tin;
b) Gửi đơn, thư;
c) Trực tiếp báo tin.
3. Chính phủ quy định về tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình để tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình.
1. Cơ quan Công an, Đồn Biên phòng gần nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình khi nhận tin báo, tố giác thì trong phạm vi quyền hạn của mình phải kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi bạo lực gia đình theo thẩm quyền; đồng thời, thông báo cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình.
2. Tổ chức, cá nhân quy định tại các điểm c, d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Luật này khi nhận tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình phải thông báo ngay cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình và theo khả năng của mình tham gia ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm xử lý hoặc phân công xử lý ngay khi tiếp nhận tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình hoặc nhận được báo cáo về hành vi bạo lực gia đình của tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
Trường hợp tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình mà người bị bạo lực là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc hoặc hành vi bạo lực gia đình đã hoặc có khả năng gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người bị bạo lực thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phân công Công an xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Công an xã) xử lý.
4. Trường hợp tin báo, tố giác về tội phạm thì việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
5. Quy trình tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình thực hiện theo quy định của Chính phủ.
1. Người có âm thanh, hình ảnh về hành vi bạo lực gia đình có quyền cung cấp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết vụ việc bạo lực gia đình.
2. Việc sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi bạo lực gia đình trong quá trình giải quyết vụ việc bạo lực gia đình và đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng, internet phải được sự đồng ý của người bị bạo lực gia đình hoặc người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1. Biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình bao gồm:
a) Buộc chấm dứt hành vi bạo lực gia đình;
b) Yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
c) Cấm tiếp xúc;
d) Bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ nhu cầu thiết yếu;
đ) Chăm sóc, điều trị người bị bạo lực gia đình;
e) Trợ giúp pháp lý và tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với hành vi bạo lực gia đình;
g) Giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình;
h) Góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư;
i) Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng;
k) Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ người bị hại theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình.
2. Việc áp dụng biện pháp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều này đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thực hiện theo quy định của Chính phủ.
1. Người có thẩm quyền giải quyết vụ việc bạo lực gia đình được áp dụng ngay các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để chấm dứt hành vi bạo lực gia đình.
2. Người có mặt tại nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình theo khả năng của mình và tính chất của hành vi bạo lực gia đình có trách nhiệm yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình.
1. Khi được phân công giải quyết vụ việc, Trưởng Công an xã có quyền yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình để làm rõ thông tin, giải quyết vụ việc trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị bạo lực gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc;
b) Khi có căn cứ cho rằng hành vi bạo lực gia đình đã hoặc có thể tiếp tục gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người bị bạo lực gia đình.
2. Việc yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã phải được lập biên bản và có người trong cộng đồng dân cư chứng kiến.
3. Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình không chấp hành yêu cầu thì Công an xã được sử dụng công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để đưa người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã.
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc mỗi lần không quá 03 ngày trong các trường hợp sau đây:
a) Có đề nghị của người bị bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đối với hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe dọa tính mạng của người bị bạo lực gia đình.
Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đề nghị thì phải được sự đồng ý của người bị bạo lực gia đình hoặc người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình;
b) Hành vi bạo lực gia đình đe dọa tính mạng của người bị bạo lực gia đình.
2. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; trường hợp không ra quyết định thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan, tổ chức, người đề nghị biết.
3. Quyết định cấm tiếp xúc có hiệu lực ngay sau khi ký ban hành và được gửi cho người có hành vi bạo lực gia đình, người bị bạo lực gia đình, Trưởng Công an xã, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố nơi cư trú của người bị bạo lực gia đình.
4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định cấm tiếp xúc có thẩm quyền hủy bỏ quyết định cấm tiếp xúc. Việc hủy bỏ quyết định cấm tiếp xúc thực hiện trong trường hợp sau đây:
a) Có yêu cầu của người đề nghị ra quyết định cấm tiếp xúc quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
b) Người bị bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình không đồng ý với quyết định cấm tiếp xúc quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
c) Khi xét thấy biện pháp này không còn cần thiết.
5. Khi áp dụng quyết định cấm tiếp xúc, người bị bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình được quyền lựa chọn chỗ ở trong thời gian cấm tiếp xúc.
6. Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc thì bị áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính để ngăn chặn bạo lực gia đình theo quy định của Chính phủ.
7. Trường hợp gia đình có việc cưới, việc tang hoặc trường hợp đặc biệt khác mà người có hành vi bạo lực gia đình cần tiếp xúc với người bị bạo lực gia đình thì người có hành vi bạo lực gia đình phải thông báo với người được phân công giám sát việc thực hiện cấm tiếp xúc và cam kết không để xảy ra hành vi bạo lực gia đình.
1. Tòa án nhân dân đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa người bị bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời gian không quá 04 tháng khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe dọa tính mạng của người bị bạo lực gia đình;
b) Có đơn yêu cầu của người bị bạo lực gia đình hoặc người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải được sự đồng ý của người bị bạo lực gia đình hoặc người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình.
2. Tòa án nhân dân đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa người bị bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình tự mình ra quyết định cấm tiếp xúc trong thời gian không quá 04 tháng khi cần bảo vệ tính mạng của người bị bạo lực gia đình.
3. Quyết định cấm tiếp xúc có hiệu lực ngay sau khi ký ban hành và được gửi cho người có hành vi bạo lực gia đình, người bị bạo lực gia đình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Trưởng Công an xã, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố nơi cư trú của người bị bạo lực gia đình và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
4. Tòa án ra quyết định cấm tiếp xúc quy định tại khoản 1 Điều này hủy bỏ quyết định cấm tiếp xúc khi có đơn yêu cầu của người bị bạo lực gia đình hoặc người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của người bị bạo lực gia đình hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
5. Tòa án ra quyết định cấm tiếp xúc quy định tại khoản 2 Điều này hủy bỏ quyết định cấm tiếp xúc khi xét thấy biện pháp này không còn cần thiết.
6. Trường hợp gia đình có việc cưới, việc tang hoặc trường hợp đặc biệt khác mà người có hành vi bạo lực gia đình cần tiếp xúc với người bị bạo lực gia đình thì người có hành vi bạo lực gia đình phải thông báo với người được phân công giám sát việc thực hiện cấm tiếp xúc và cam kết không để xảy ra hành vi bạo lực gia đình.
7. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
1. Khi nhận được quyết định cấm tiếp xúc quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Luật này, Công an xã chủ trì, phối hợp với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và tổ chức có liên quan ở cơ sở để giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc và phân công người giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc.
2. Người được phân công giám sát có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc. Khi phát hiện người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc, người được phân công giám sát có quyền yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình thực hiện nghiêm quyết định cấm tiếp xúc; trường hợp tiếp tục vi phạm thì báo cho Trưởng Công an xã xử lý theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình được tiếp xúc với người bị bạo lực gia đình quy định tại khoản 7 Điều 25 và khoản 6 Điều 26 của Luật này thì thành viên khác của gia đình có trách nhiệm giám sát để bảo đảm không xảy ra hành vi bạo lực gia đình.
1. Người bị bạo lực gia đình được bố trí nơi tạm lánh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân tự nguyện hỗ trợ.
2. Người bị bạo lực gia đình được hỗ trợ nhu cầu thiết yếu theo quy định của pháp luật về trợ giúp xã hội.
1. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm sau đây:
a) Tiếp nhận, sàng lọc, phân loại, chăm sóc, điều trị người bệnh là người bị bạo lực gia đình;
b) Cung cấp thông tin về tình trạng tổn hại sức khỏe của người bị bạo lực gia đình theo đề nghị của người đó hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
2. Nhân viên y tế trong quá trình chăm sóc, điều trị người bệnh, nếu phát hiện người bệnh có dấu hiệu bị bạo lực gia đình có trách nhiệm báo cáo ngay cho người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
3. Cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình quy định tại các điểm a, c, đ và e khoản 2 Điều 35 của Luật này căn cứ chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm chăm sóc người bị bạo lực gia đình.
4. Người đứng đầu cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình có trách nhiệm thông báo cho Công an xã nơi đặt cơ sở về trường hợp người được chăm sóc, điều trị có dấu hiệu bị bạo lực gia đình để bảo vệ, xử lý theo quy định của pháp luật.
1. Người bị bạo lực gia đình được Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
2. Người bị bạo lực gia đình được cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với bạo lực gia đình theo quy định của Chính phủ.
3. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí cho người bị bạo lực gia đình.
1. Người có hành vi bạo lực gia đình được giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình; tham gia dịch vụ giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình do cơ sở phòng, chống bạo lực gia đình cung cấp.
2. Nội dung giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và biện pháp xử lý người có hành vi bạo lực gia đình;
b) Nhận diện các hành vi bạo lực gia đình và trách nhiệm của người có hành vi bạo lực gia đình;
c) Kỹ năng ứng xử, phòng ngừa, xử lý mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình;
d) Kiến thức và kỹ năng kiểm soát hành vi bạo lực gia đình; giải tỏa áp lực, căng thẳng;
đ) Các nội dung khác.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định và tổ chức thực hiện việc giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình đối với người có hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
1. Biện pháp góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư được thực hiện đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên trong các trường hợp sau đây:
a) Có hành vi bạo lực gia đình từ 02 lần trở lên trong thời gian 12 tháng mà chưa đến mức bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính;
b) Có hành vi bạo lực gia đình đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình.
2. Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố chủ trì, phối hợp với Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư. Thành phần tham gia góp ý, phê bình bao gồm:
a) Người có hành vi bạo lực gia đình;
b) Đại diện gia đình;
c) Đại diện Công an xã;
d) Đại diện tổ chức chính trị - xã hội cấp xã nơi người có hành vi bạo lực gia đình hoặc người bị bạo lực gia đình cư trú là thành viên;
đ) Thành phần khác do Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố mời.
3. Nội dung góp ý, phê bình bao gồm:
a) Góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình;
b) Cung cấp các quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình;
c) Yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình cam kết không tái diễn hành vi bạo lực gia đình.
4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú quyết định và tổ chức thực hiện biện pháp góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư trên cơ sở đề xuất của người được phân công xử lý hành vi bạo lực gia đình.
5. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú có trách nhiệm tạo điều kiện cho Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố tổ chức việc góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư.
6. Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình quy định tại khoản 1 Điều này tự nguyện thực hiện công việc phục vụ cộng đồng quy định tại Điều 33 của Luật này thì không áp dụng biện pháp góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư.
1. Công việc phục vụ cộng đồng là công việc có quy mô nhỏ trực tiếp phục vụ cho lợi ích của cộng đồng nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú, bao gồm:
a) Tham gia trồng, chăm sóc cây xanh ở khu vực công cộng; sửa chữa, làm sạch đường làng, ngõ xóm, đường phố, ngõ phố, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc công trình công cộng khác;
b) Tham gia công việc khác nhằm cải thiện môi trường sống và cảnh quan của cộng đồng.
2. Danh mục công việc quy định tại khoản 1 Điều này do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã công nhận trên cơ sở thảo luận, quyết định của cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú quyết định và tổ chức cho người có hành vi bạo lực gia đình thực hiện công việc phục vụ cộng đồng.
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức các biện pháp bảo vệ người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, người báo tin, tố giác về bạo lực gia đình.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được tin báo, tố giác hành vi bạo lực gia đình có trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin cá nhân của người báo tin, tố giác.
1. Cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình thực hiện việc chăm sóc, tư vấn, bố trí nơi tạm lánh, hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho người bị bạo lực gia đình và trẻ em mà người bị bạo lực gia đình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình.
2. Cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm:
a) Địa chỉ tin cậy;
b) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
c) Cơ sở trợ giúp xã hội;
d) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý;
đ) Cơ sở khác tham gia trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình;
e) Cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình.
1. Địa chỉ tin cậy là tổ chức, cá nhân có uy tín, khả năng và tự nguyện giúp đỡ người bị bạo lực gia đình.
2. Tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này thông báo với Ủy ban nhân dân cấp xã về việc nhận làm địa chỉ tin cậy. Ủy ban nhân dân cấp xã lập danh sách và công bố địa chỉ tin cậy trong địa bàn quản lý; hướng dẫn, tổ chức việc tập huấn cho địa chỉ tin cậy về phòng, chống bạo lực gia đình.
3. Khi tiếp nhận người bị bạo lực gia đình, địa chỉ tin cậy phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm bảo vệ và hỗ trợ kinh phí cho địa chỉ tin cậy theo quy định của pháp luật.
4. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội có trách nhiệm tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân tham gia làm địa chỉ tin cậy ở cộng đồng dân cư.
1. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện việc chăm sóc, điều trị cho người bệnh là người bị bạo lực gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.
2. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập, tùy theo điều kiện thực tế bố trí nơi tạm lánh cho người bệnh là người bị bạo lực gia đình trong thời gian không quá 01 ngày theo yêu cầu của người bị bạo lực gia đình.
1. Cơ sở trợ giúp xã hội thực hiện việc chăm sóc và hỗ trợ các điều kiện cần thiết khác cho người bị bạo lực gia đình trong thời gian người bị bạo lực gia đình lưu trú tại cơ sở theo quy định của pháp luật.
2. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người bị bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
1. Cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình do cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để cung cấp một hoặc một số dịch vụ, hoạt động sau đây:
a) Tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình;
b) Nơi tạm lánh và nhu cầu thiết yếu khác cho người bị bạo lực gia đình;
c) Giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình;
d) Chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa bệnh lý về tâm thần cho người bị bạo lực gia đình;
đ) Hoạt động khác liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.
2. Cơ sở quy định tại khoản 1 Điều này phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Người đứng đầu cơ sở có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có trình độ từ đại học trở lên, chuyên ngành đào tạo liên quan đến dịch vụ đăng ký tham gia cung cấp, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi bạo lực gia đình;
b) Nhân viên trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình phải tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên, đã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về phòng, chống bạo lực gia đình do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức hoặc cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức;
c) Trường hợp cơ sở cung cấp nơi tạm lánh cho người bị bạo lực gia đình hoặc cung cấp dịch vụ giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi phải có cơ sở vật chất và địa điểm bảo đảm yêu cầu.
3. Cơ sở quy định tại khoản 1 Điều này đăng ký nội dung, phạm vi hoạt động với cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất để thực hiện dịch vụ, hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này được ưu đãi thuế, phí, tín dụng và ưu đãi khác theo quy định của pháp luật.
5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 2 Điều này; quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký thành lập của cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình.
1. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân thì người ra quyết định xử phạt có trách nhiệm thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó.
PROTECTION, SUPPORT, AND HANLDING OF VIOLATIONS IN PREVENTING AND COMBATING DOMESTIC VIOLENCE
Section 1. NOTIFICATION AND HANDLING OF NOTIFICATIONS AND DENUNCIATIONS OF DOMESTIC VIOLENCE ACTS
Article 19. Notifications and denunciations of domestic violence acts
1. Addresses that receive notifications and denunciations of domestic violence acts:
a) The People’s Committees of communes where domestic violence acts occur;
b) Public Security Agencies and Border Guard Stations close to areas where domestic violence acts occur;
c) Educational institutions where domestic violence victims are learners;
d) Village Heads, Heads of Sub-Quarters, Heads of Vietnamese Fatherland Front Departments in residential areas where domestic violence acts occur;
dd) Heads of socio-political organizations of communes where domestic violence acts occur;
e) National hotline for domestic violence prevention and combat.
2. Submission of notifications and denunciations of domestic violence acts to addresses prescribed in Clause 1 of this Clause shall be performed under the following forms:
a) Calls or messages;
b) Letters or applications;
c) Direct notification.
3. The Government of Vietnam shall stipulate regulations on the national hotline for domestic violence prevention and combat to receive and handle notifications or denunciations of domestic violence acts.
Article 20. Handling of notifications and denunciations of domestic violence acts
1. Public Security Agencies and Border Guard Stations close to areas where domestic violence acts occur shall, upon receiving notifications or denunciations, promptly prevent and handle domestic violence acts within their scope of entitlements while notifying Chairmen of the People’s Committees of communes where domestic violence acts occur.
2. Organizations and individuals prescribed in Points c, d, dd, and e Clause 1 Article 19 of this Law shall, upon receiving notifications or denunciations of domestic violence acts, immediately provide notifications for Chairmen of the People’s Committees of communes where domestic violence acts occur and prevent such acts within their capability.
3. Chairmen of the People’s Committees of communes shall handle or assign the handling immediately after receiving notifications and denunciations of domestic violence acts or reports on domestic violence acts from organizations and individuals prescribed in Clause 1 and Clause 2 of this Article, except for cases prescribed in Clause 4 of this Article.
If subjects of notifications or denunciations of domestic violence acts are children, pregnant women, women raising children under 36 months old, the elderly, disabled people, and people who are unable to take care of themselves or the domestic violence acts have caused or can potentially endanger the health and life of the victims, Chairmen of the People’s Committees of communes shall assign the Police Force of communes, wards, or towns (hereinafter referred to as “Commune-Level Police Force) to handle such matter.
4. In case of notifications or denunciations of criminals, the receipt and handling of notifications and denunciations shall comply with laws on criminal procedures.
5. The procedure for receiving and handling notifications and denunciations of domestic violence acts shall comply with regulations of the Government of Vietnam.
Article 21. The use of audio and images of domestic violence acts
1. People who have audio or images of domestic violence acts may provide them to agencies, organizations, and individuals competent to handle domestic violence cases.
2. The use of audio and images of domestic violence acts during the handling of domestic violence cases and the publication of them on mass media or the internet shall be agreed on by domestic violence victims or guardians or legal representatives of domestic violence victims, unless otherwise prescribed by law.
Section 2. PREVENTION OF DOMESTIC VIOLENCE ACTS; PROTECTION AND SUPPORT FOR DOMESTIC VIOLENCE VICTIMS AND PEOPLE ENGAGING IN DOMESTIC VIOLENCE PREVENTION AND COMBAT
Article 22. Measures to prevent domestic violence acts and protect and support domestic violence victims
1. Measures to prevent domestic violence acts and protect and support domestic violence victims include:
a) Forcing an end to domestic violence acts;
b) Requesting the person committing the domestic violence act to come to the police office of the commune where the domestic violence act occurs;
c) Imposing protective orders;
d) Arranging shelters and providing support for essential needs;
dd) Providing care and treatment for domestic violence victims;
e) Providing legal aid, psychological counseling, and training in skills in responding to domestic violence;
g) Providing domestic violence education and control;
h) Providing suggestions and criticizing perpetrators in the residential community;
i) Performing work that serves the community;
k) Performing measures to prevent and ensure the handling of administrative violations following laws on handling administrative violations; measures to prevent and protect victims according to laws on criminal procedures regarding perpetrators.
2. The application of measures prescribed in Points a, b, c, d, dd, e, g, h, and i Clause 1 of this Article to foreigners residing in Vietnam shall comply with the regulations of the Government of Vietnam.
Article 23. Forced termination of domestic violence acts
1. Persons competent to handle domestic violence acts may immediately apply necessary measures according to the law to terminate domestic violence acts.
2. Persons present at the place of domestic violence acts shall, according to their capability and the nature of domestic violence acts, request perpetrators to terminate such acts.
Article 24. Request for perpetrators to come to the Police Office of the commune where the domestic violence acts occur
1. When assigned to handle cases, the Head of the Commune-Level Police Force may request perpetrators to come to the Police Office of the area where domestic violence acts occur to clarify information and handle cases if:
a) Domestic violence victims are children, pregnant women, women raising children under 36 months old, the elderly, disabled people, or people who are unable to take care of themselves;
b) There are grounds to believe that domestic violence acts have endangered or may continue to endanger the health and life of domestic violence victims.
2. The request for perpetrators to come to the Police Office of the commune shall be made in writing and witnessed by people in the residential community.
3. In case perpetrators refuse to comply with the request, the Commune-Level Police Force may use combat gears according to the law to bring such people to the Police Office of the commune.
Article 25. Protective orders according to decisions of Chairmen of the People’s Committees of communes
1. Chairmen of the People’s Committees of communes where domestic violence acts occur shall decide the application of protective order measures, with the validity of each order does not exceed 3 days in the following cases:
a) There are requests from domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims or competent agencies, organizations, or individuals regarding domestic violence acts that damage or potentially damage the health or threaten the life of domestic violence victims.
In case of requests from competent agencies, organizations, or individuals, there must be the consent of domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims;
b) Domestic violence acts threaten domestic violence victims' life.
2. Within 12 hours after receiving requests prescribed in Point a Clause 1 of this Article, Chairmen of the People’s Committees of communes shall consider and decide the application of protective order measures; in case of not issuing decisions, provide answers and explanations in writing for the requesting agencies, organizations, or persons.
3. Protective order decisions are immediately effective after their issuance and are sent to perpetrators, domestic violence victims, Heads of Commune-Level Polices Forces, Village Heads, and Heads of Sub-Quarters where domestic violence victims reside.
4. Chairmen of the People’s Committees of communes that issue decisions on protective orders are competent to cancel such decisions. The cancellation of protective orders is performed in the following cases:
a) There are requests from people prescribed in Point a Clause 1 of this Article;
b) Domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims do not agree with decisions on protective orders following Point b Clause 1 of this Article;
c) This measure is considered unnecessary.
5. When applying protective order decisions, domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims may select the shelter during the valid period of protective orders.
6. In case perpetrators violate decisions on protective orders, it is allowed to apply custodial measures according to administrative procedures for preventing domestic violence according to regulations of the Government of Vietnam.
7. If the family has a wedding, funeral, or other special circumstances that the perpetrator has to come into contact with the domestic violence victims, the family shall provide notifications for the person assigned to supervise the implementation of the protective order and commit to preventing the reoccurrence of domestic violence acts.
8. The Government of Vietnam shall elaborate on this Article.
Article 26. Protective orders according to decisions of Courts
1. People’s Courts that are accepting or handling civil cases between domestic violence victims and perpetrators shall decide the application of protective order measures, with the validity of each order does not exceed 4 months when the following conditions are satisfied:
a) Domestic violence acts damage or potentially damage the health or threaten the life of domestic violence victims.
b) There are requests from domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims or competent agencies, organizations, or individuals.
In case of applications from competent agencies, organizations, or individuals, there must be the consent of domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims;
2. People’s Courts that are accepting or handling civil cases between domestic violence victims and perpetrators shall decide the application of protective order measures on their own, with the validity of each order does not exceed 4 months when it is necessary to protect the life of domestic violence victims.
3. Protective order decisions are immediately effective after their issuance and are sent to perpetrators, domestic violence victims, Chairmen of the People’s Committees of communes, Heads of Commune-Level Police Forces, Village Heads, Heads of Sub-Quarters where domestic violence victims reside, and the People’s Procuracy at the same level.
4. Courts that issue protective order decisions as prescribed in Clause 1 of this Article shall cancel protective order decisions when receiving applications from domestic violence victims, guardians, or legal representatives of domestic violence victims or competent agencies, organizations, or individuals.
5. Courts that issue protective order decisions as prescribed in Clause 2 of this Article may cancel such decisions if they consider this measure unnecessary.
6. If the family has a wedding, funeral, or other special circumstances that the perpetrator has to come into contact with the domestic violence victims, the family shall provide notifications for the person assigned to supervise the implementation of the protective order and commit to preventing the reoccurrence of domestic violence acts.
7. The competency and procedure for applying, changing, and canceling protective order measures prescribed in this Article shall comply with regulations of laws on criminal procedures.
Article 27. Supervision of the implementation of protective order decisions
1. When receiving protective order decisions as prescribed in Article 25 and Article 26 of this Law, Commune-Level Police Forces shall take charge and cooperate with Village Heads, Heads of Sub-Quarters, and relevant organizations at the grassroots level in supervising the implementation of protective order decisions and assigning people to supervise the implementation of protective order decisions.
2. Persons assigned to the supervision shall monitor the implementation of protective order decisions. When detecting perpetrators violating protective order decisions, persons assigned to the supervision have the right to request perpetrators to comply with decisions on protective orders; in case of continuous violations, report the matter to Heads of Commune-Level Police Forces for handling according to the law.
3. In cases where perpetrators are allowed to have contact with domestic violence victims as prescribed in Clause 7 Article 25 and Clause 6 Article 26 of this Law, other family members shall supervise and ensure the prevention of domestic violence acts from reoccurring.
Article 28. Arrangement of shelters and support for essential needs;
1. Domestic violence victims may receive the arrangement of shelters decided by Chairmen of the People’s Committees of communes or supported by voluntary agencies, organizations, or individuals.
2. Domestic violence victims may receive support for their essential needs according to laws on social support.
Article 29. Care and treatment of domestic violence victims
1. Medical service facilities shall:
a) Receive, screen, classify, care for, and treat patients who are domestic violence victims;
b) Provide information on damage to the health of domestic violence victims at the request of such persons or competent agencies, organizations, or individuals.
2. While caring for and treating patients, if there are signs indicating that such patients are domestic violence victims, healthcare staff shall immediately report such matters to heads of the medical service facilities.
3. Facilities supporting the prevention and combat against domestic violence prescribed in Points a, c, dd, and e Clause 2 Article 35 of this Law shall provide care for domestic violence victims according to their functions and tasks.
4. Heads of facilities supporting the prevention and combat against domestic violence shall provide notifications of cases of signs of domestic violence regarding people receiving care and treatment for Commune-Level Police Forces of areas where such facilities are located to protect and handle such matters according to the law.
Article 30. Provision of legal aid, psychological counseling, and training in skills in responding to domestic violence
1. Domestic violence victims may receive legal aid services from state legal aid centers or organizations participating in legal aid according to laws on legal aid.
2. Domestic violence victims may receive psychological counseling services and training in skills in responding to domestic violence as prescribed by the Government of Vietnam.
3. The State encourages organizations and individuals to provide free counseling services for domestic violence victims.
Article 31. Domestic violence education and control
1. Perpetrators shall receive domestic violence education and control; participate in domestic violence education and control services provided by facilities of domestic violence prevention and combat.
2. Contents of domestic violence education and control:
a) Policies and laws on prevention and combat against domestic violence and measures to handle perpetrators;
b) Identification of domestic violence acts and responsibilities of perpetrators;
c) Skills in behaving, preventing, and handling domestic conflicts and disputes;
d) Knowledge of and skills in controlling acts of domestic violence; relieving stress and pressure;
dd) Other contents.
3. Chairmen of the People’s Committees of communes shall decide on and organize the implementation of domestic violence education and control regarding perpetrators that are not subject to criminal prosecution.
Article 32. Feedback and criticism of perpetrators in residential communities
1. Measures to provide feedback and criticism for perpetrators in residential communities shall be taken against people of at least 18 years old in the following cases:
a) Committing acts of domestic violence 2 times or more within 12 months but not to the extent of receiving fines or the application of administrative handling measures;
b) Continuing to commit acts of domestic violence after receiving fines for administrative violations for committing acts of domestic violence.
2. Village Heads and Heads of Sub-Quarters shall take charge and cooperate with Heads of Vietnamese Fatherland Front Departments in residential areas in organizing the feedback and criticism activities of perpetrators in residential communities. The participants of the mentioned activities include:
a) Perpetrators;
b) Representatives of families;
c) Representatives of Commune-Level Police Forces;
d) Representatives of socio-political organizations of communes where there are perpetrators or domestic violence victims who are members;
dd) Other participants invited by Village Heads or Heads of Sub-Quarters.
3. Contents of feedback and criticism include:
a) Feedback and criticism of perpetrators;
b) Provision of regulations of laws on prevention and combat against domestic violence;
c) Request for perpetrators to commit to not repeating acts of domestic violence.
4. Chairmen of the People’s Committees of communes where perpetrators reside shall decide on and organize the implementation of measures to provide feedback and criticism for perpetrators in residential communities based on the suggestions of persons assigned to handle domestic violence acts.
5. The People’s Committees of communes where perpetrators reside shall enable Village Heads and Heads of Sub-Quarters to organize feedback and criticism activities regarding perpetrators in residential communities.
6. In case perpetrators prescribed in Clause 1 of this Article volunteer to perform community services prescribed in Article 33 of this Law, measures to provide feedback and criticism in residential communities shall not be applied.
Article 33. Performance of community services
1. Community services mean small-scale work directly serving the benefits of communities in areas where perpetrators reside, including:
a) Participating in growing and caring for green trees in public areas; fixing and cleaning village streets, neighborhood alleys, streets, alleys, cultural houses, community houses, or other public works;
b) Participating in other work to improve the living environment and scenery of the community.
2. The list of work prescribed in Clause 1 of this Article shall be recognized by Chairmen of the People’s Committees of communes based on the discussion and decision of residential communities following laws on grassroots democracy implementation.
3. Chairmen of the People’s Committees of communes where perpetrators reside shall issue decisions and organize perpetrators to perform community services.
Article 34. Protection of persons engaging in the prevention and combat against domestic violence and persons providing notifications or denunciations of domestic violence
1. Chairmen of the People’s Committees of communes shall adopt measures to protect persons directly engaging in the prevention and combat against domestic violence and persons providing notifications or denunciations of domestic violence.
2. Agencies, organizations, and individuals that receive notifications or denunciations of domestic violence shall protect the confidentiality of the personal information of persons providing notifications or denunciations.
Section 3. FACILITIES SUPPORTING THE PREVENTION AND COMBAT AGAINST DOMESTIC VIOLENCE
Article 35. Facilities supporting the prevention and combat against domestic violence
1. Facilities supporting the prevention and combat against domestic violence shall care for, provide counseling services, arrange shelters, and support the essential needs of domestic violence victims and children that such victims are obligated to care for and nurture; provide domestic violence control.
2. Facilities supporting the prevention and combat against domestic violence include:
a) Trusted addresses;
b) Medical service facilities;
c) Social support facilities;
d) State legal aid centers and organizations participating in legal aid;
dd) Other facilities participating in the prevention and combat against domestic violence;
e) Facilities that provide domestic violence and combat support services.
1. Trusted addresses are reputable and capable organizations and individuals that volunteer to support domestic violence victims.
2. Organizations and individuals prescribed in Clause 1 of this Article shall provide notifications of accepting to be trusted addresses for the People's Committees of communes. The People's Committees of communes shall create a list and disclose trusted addresses in their areas; guide and organize the provision of training for trusted addresses in domestic violence prevention and combat.
3. When receiving domestic violence victims, trusted addresses shall provide notifications for the People’s Committees of communes.
The People’s Committees of communes shall protect and provide financial support for trusted addresses according to the law.
4. The Vietnamese Fatherland Front Departments of communes, their member organizations, and social organizations shall disseminate and mobilize organizations and individuals to become trusted addresses in residential communities.
Article 37. Medical service facilities
1. Medical service facilities shall care for and treat patients who are domestic violence victims following Clause 1 Article 29 of this Law.
2. Public medical service facilities shall, according to practical conditions, arrange shelters for domestic violence victims for no more than 1 day at the request of domestic violence victims.
Article 38. Social support facilities, state legal aid centers, and organizations participating in legal aid
1. Social support facilities shall provide care and support for other essential needs of domestic violence victims during their stay at the facilities in accordance with the law.
2. State legal aid centers and organizations participating in legal aid shall provide legal aid services for domestic violence victims following laws on legal aid.
Article 39. Other facilities participating in the prevention and combat against domestic violence
1. The State encourages and enables individuals and organizations to participate in the prevention and combat against domestic violence.
2. Other facilities participating in the prevention and combat against domestic violence shall register the content and operating scope with competent state agencies.
3. The Government of Vietnam shall elaborate Clause 2 of this Article.
Article 40. Facilities supporting the prevention and combat against domestic violence
1. Facilities that provide domestic violence and combat services established by agencies, organizations, and individuals following the law operating for non-profit purposes to provide one or several of the following services and activities:
a) Domestic violence prevention and combat counseling;
b) Provision of shelters and other essential needs for domestic violence victims;
c) Domestic violence education and control;
d) Provision of health care and psychological disease prevention for domestic violence victims;
dd) Other activities related to prevention and combat against domestic violence.
2. Facilities prescribed in Clause 1 of this Article shall satisfy the following criteria:
a) Heads of the facilities must have full civil act capacity and at least a bachelor's degree, have received specialized training related to services registered for provision, and have not been criminally prosecuted or received fines for acts of domestic violence;
b) Staff who directly participate in the provision of domestic violence prevention and combat services must have graduated from high school or higher, have received advanced training in the knowledge of and skills in preventing and combating domestic violence organized by competent state agencies or facilities permitted by competent state agencies;
c) In case of providing shelters for domestic violence victims or domestic violence education and control services, facilities must have the required physical facilities and locations.
3. Facilities prescribed in Clause 1 of this Article shall register their contents and operating scope with state management agencies of domestic violence prevention and combat.
4. Organizations and individuals that invest in the budget, personnel, and physical facilities to perform services and activities prescribed in Clause 1 of this Article may receive tax incentives, fee incentives, credit incentives, and other incentives as prescribed by the law.
5. The Government of Vietnam shall elaborate on Clause 2 of this Article and stipulate the competence and procedures for issuing and revoking establishment registration certificates of facilities providing domestic violence prevention and combat services.
Section 4. HANDLING OF VIOLATIONS AGAINST LAWS ON DOMESTIC VIOLENCE PREVENTION AND COMBAT
Article 41. Handling of violations against laws on domestic violence prevention and combat
1. Organizations and individuals that violate laws on domestic violence prevention and combat shall receive disciplinary actions, fines, or criminal liability prosecution according to the nature and severity of the violation. If such entities cause damage, provide compensation as prescribed by law.
2. If persons fined for administrative violations against laws on domestic violence prevention and combat are officials, public employees, or persons of the people’s armed forces, persons who issue decisions on fines shall provide notifications for heads of agencies, organizations, or units competent to manage the violating persons.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực