Chương II Luật Hôn nhân và Gia đình 2000: Kết hôn
Số hiệu: | 22/2000/QH10 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 09/06/2000 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2001 |
Ngày công báo: | 31/07/2000 | Số công báo: | Số 28 |
Lĩnh vực: | Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2015 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình;
Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam;
Kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
1. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
1. Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này:
a) Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn;
b) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
c) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn.
1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
2. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.
3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Article 9.- Conditions for getting married
A man and a woman wishing to marry each other must satisfy the following conditions:
1. The man has reached the age of twenty or over, the woman has reached the age of eighteen or over;
2. The marriage is voluntarily decided by the man and the woman; neither partner is allowed to force or deceive the other; nobody is allowed to force or obstruct their marriage;
3. The marriage does not fall into one of the circumstances where marriage is forbidden as prescribed in Article 10 of this Law.
Article 10.- Circumstances where marriage is forbidden
Marriage is forbidden in the following circumstances:
1. Married people;
2. People who have lost their civil act capacity;
3. Between people of the same direct blood line; between relatives within three generations;
4. Between adoptive parents and adopted children; between former adoptive parents and former adopted children; between fathers-in-law and daughters-in-law, mothers-in-law and sons-in-law, stepfathers and stepchildren, stepmothers and stepchildren;
5. Between people of the same sex.
Article 11.- Marriage registration
1. Marriage must be registered with the competent State bodies (hereinafter called marriage registration offices) according to the proceedings prescribed in Article 14 of this Law.
Any marriage proceedings at variance with the provisions in Article 14 of this Law shall not be legally valid.
Man and woman who fail to register their marriage but live together as husband and wife shall not be recognized by law as husband and wife.
Divorced husband and wife wishing to remarry each other must also register their remarriage.
2. The Government shall stipulate the marriage registration in remote and deep-lying areas.
Article 12.- Competence to register marriage
The People’s Committees of communes, wards or townships where either of the marriage partners resides are the marriage registration offices.
The overseas Vietnamese diplomatic missions or consulates are the offices registering marriage between Vietnamese citizens living abroad.
Article 13.- Handling of marriage registration
1. After receiving complete and valid documents according to the civil status legislation, the marriage registration offices check the marriage registration dossiers; if deeming that both the male and female partners to the marriage are eligible for marriage, the marriage registration offices shall organize the marriage registration.
2. Where either or both marriage partners fail to fully meet the marriage conditions, the marriage registration office shall decline to register and clearly explain in writing the reasons therefor; if the people whose application for marriage registration is rejected disagree, they may lodge their complaints according to the provisions of law.
Article 14.- Organization of marriage registration
Marriage registration must be organized in the presence of both male and female partners. A representative of the marriage registration office first asks the two partners about their wish for voluntary marriage, if they agree to marry each other, the representative of the marriage registration office shall hand the marriage certificate to them.
Article 15.- People entitled to request the annulment of illegal marriages
1. The partner who is forced or deceived into marriage has the right, as prescribed by the civil procedure legislation, to request by himself/herself the Court or propose the Procuracy to request the Court to annul the illegal marriage due to violation of the provisions in Clause 2, Article 9 of this Law.
2. The Procuracy has the right, as prescribed by the civil procedure legislation, to request the Court to annul illegal marriages due to violation of the provisions in Clause 1, Article 9 and Article 10 of this Law.
3. The following individuals, agencies and organizations have the right, as prescribed by the civil procedure legislation, to request by themselves the Court or propose the Procuracy to request the Court to annul illegal marriages due to violation of the provisions in Clause 1, Article 9 and Article 10 of this Law:
a/ Spouses, parents or children of the marriage partners;
b/ The child protection and care committees;
c/ The women’s unions.
4. Other individuals, agencies and organizations have the right to propose the Procuracy to consider and request the Court to annul illegal marriages.
Article 16.- Annulment of illegal marriages
At the request of individuals, agencies or organizations prescribed in Article 15 of this Law, the Court shall consider and decide the annulment of illegal marriages and send copies of its decisions to the offices that have made the marriage registration. Basing themselves on the Court’s decisions, the marriage registration offices shall erase the marriage registration in the Marriage Register.
Article 17.- Legal consequences of the annulment of illegal marriages
1. When an illegal marriage is annulled, the two male and female partners must stop their relation as husband and wife.
2. Their children’s interests shall be dealt with as for cases where their parents are divorced.
3. Their property shall be dealt with on the principle that his/her personal property shall still belong to him/her; their common property shall be divided as agreed upon by the two partners; if they fail to reach an agreement thereon, they may request the Court to settle it, taking into account each partner’s contributions and giving priority to protecting the legitimate interests of women and children.