Chương II Luật Giáo dục 2005: Hệ thống giáo dục quốc dân
Số hiệu: | 38/2005/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 14/06/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2006 |
Ngày công báo: | 02/08/2005 | Số công báo: | Từ số 3 đến số 4 |
Lĩnh vực: | Giáo dục | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2020 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một.
1. Nội dung giáo dục mầm non phải bảo đảm phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên; yêu quý anh, chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học.
2. Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương, động viên, khích lệ.
1. Chương trình giáo dục mầm non thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non; cụ thể hóa các yêu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi; quy định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của trẻ em ở tuổi mầm non.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục mầm non trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục mầm non.
Cơ sở giáo dục mầm non bao gồm:
1. Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến ba tuổi;
2. Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi;
3. Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
1. Giáo dục phổ thông bao gồm:
a) Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi;
b) Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi;
c) Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định những trường hợp có thể học trước tuổi đối với học sinh phát triển sớm về trí tuệ; học ở tuổi cao hơn tuổi quy định đối với học sinh ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, học sinh người dân tộc thiểu số, học sinh bị tàn tật, khuyết tật, học sinh kém phát triển về thể lực và trí tuệ, học sinh mồ côi không nơi nương tựa, học sinh trong diện hộ đói nghèo theo quy định của Nhà nước, học sinh ở nước ngoài về nước; những trường hợp học sinh học vượt lớp, học lưu ban; việc học tiếng Việt của trẻ em người dân tộc thiểu số trước khi vào học lớp một.
1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học.
Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật.
Giáo dục trung học cơ sở phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở tiểu học, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp.
Giáo dục trung học phổ thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.
2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
1. Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông.
2. Sách giáo khoa cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục phổ thông.
3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa.
1. Học sinh học hết chương trình tiểu học có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được Hiệu trưởng trường tiểu học xác nhận trong học bạ việc hoàn thành chương trình tiểu học.
2. Học sinh học hết chương trình trung học cơ sở có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được Trưởng phòng giáo dục và đào tạo huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) cấp bằng tốt nghiệp trung học cơ sở.
3. Học sinh học hết chương trình trung học phổ thông có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được Giám đốc sở giáo dục và đào tạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
1. Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông;
2. Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.
Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
1. Nội dung giáo dục nghề nghiệp phải tập trung đào tạo năng lực thực hành nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu đào tạo của từng nghề, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo.
2. Phương pháp giáo dục nghề nghiệp phải kết hợp rèn luyện kỹ năng thực hành với giảng dạy lý thuyết để giúp người học có khả năng hành nghề và phát triển nghề nghiệp theo yêu cầu của từng công việc.
1. Chương trình giáo dục nghề nghiệp thể hiện mục tiêu giáo dục nghề nghiệp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục nghề nghiệp, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với mỗi môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp; bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có liên quan, trên cơ sở thẩm định của hội đồng thẩm định ngành về chương trình trung cấp chuyên nghiệp, quy định chương trình khung về đào tạo trung cấp chuyên nghiệp bao gồm cơ cấu nội dung, số môn học, thời lượng các môn học, tỷ lệ thời gian giữa lý thuyết và thực hành, thực tập đối với từng ngành, nghề đào tạo. Căn cứ vào chương trình khung, trường trung cấp chuyên nghiệp xác định chương trình đào tạo của trường mình.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có liên quan, trên cơ sở thẩm định của hội đồng thẩm định ngành về chương trình dạy nghề, quy định chương trình khung cho từng trình độ nghề được đào tạo bao gồm cơ cấu nội dung, số lượng, thời lượng các môn học và các kỹ năng nghề, tỷ lệ thời gian giữa lý thuyết và thực hành, bảo đảm mục tiêu cho từng ngành, nghề đào tạo. Căn cứ vào chương trình khung, cơ sở dạy nghề xác định chương trình dạy nghề của cơ sở mình.
2. Giáo trình giáo dục nghề nghiệp cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục nghề nghiệp.
Giáo trình giáo dục nghề nghiệp do Hiệu trưởng nhà trường, Giám đốc trung tâm dạy nghề tổ chức biên soạn và duyệt để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng, Giám đốc trung tâm dạy nghề thành lập.
1. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
a) Trường trung cấp chuyên nghiệp;
b) Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề (sau đây gọi chung là cơ sở dạy nghề).
2. Cơ sở dạy nghề có thể được tổ chức độc lập hoặc gắn với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cơ sở giáo dục khác.
1. Học sinh học hết chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp, chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề, có đủ điều kiện theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề thì được dự kiểm tra và nếu đạt yêu cầu thì được Thủ trưởng cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp chứng chỉ nghề.
2. Học sinh học hết chương trình trung cấp chuyên nghiệp, có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được Hiệu trưởng nhà trường cấp bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
3. Học sinh học hết chương trình dạy nghề trình độ trung cấp, có đủ điều kiện theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được Hiệu trưởng nhà trường cấp bằng tốt nghiệp trung cấp nghề. Sinh viên học hết chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng, có đủ điều kiện theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được Hiệu trưởng nhà trường cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề.
Giáo dục đại học bao gồm:
1. Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
2. Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
3. Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học;
4. Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ tương đương với trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.
1. Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
3. Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
4. Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
5. Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học và hoạt động chuyên môn.
1. Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản, ngoại ngữ và công nghệ thông tin với kiến thức chuyên môn và các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc; tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới.
Đào tạo trình độ cao đẳng phải bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn cần thiết, chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn.
Đào tạo trình độ đại học phải bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn tương đối hoàn chỉnh; có phương pháp làm việc khoa học; có năng lực vận dụng lý thuyết vào công tác chuyên môn.
Đào tạo trình độ thạc sĩ phải bảo đảm cho học viên được bổ sung và nâng cao những kiến thức đã học ở trình độ đại học; tăng cường kiến thức liên ngành; có đủ năng lực thực hiện công tác chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành của mình.
Đào tạo trình độ tiến sĩ phải bảo đảm cho nghiên cứu sinh hoàn chỉnh và nâng cao kiến thức cơ bản; có hiểu biết sâu về kiến thức chuyên môn; có đủ năng lực tiến hành độc lập công tác nghiên cứu khoa học và sáng tạo trong công tác chuyên môn.
2. Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.
Phương pháp đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện bằng cách phối hợp các hình thức học tập trên lớp với tự học, tự nghiên cứu; coi trọng việc phát huy năng lực thực hành, năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn.
Phương pháp đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện chủ yếu bằng tự học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của nhà giáo, nhà khoa học; coi trọng rèn luyện thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng tạo trong phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn.
1. Chương trình giáo dục đại học thể hiện mục tiêu giáo dục đại học; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học; bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác.
Trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định ngành về chương trình giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng, trình độ đại học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học, giữa lý thuyết với thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, trường đại học xác định chương trình giáo dục của trường mình.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về khối lượng kiến thức, kết cấu chương trình, luận văn, luận án đối với đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
2. Giáo trình giáo dục đại học cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo.
Hiệu trưởng trường cao đẳng, trường đại học có trách nhiệm tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình các môn học để sử dụng chính thức trong trường trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập; bảo đảm có đủ giáo trình phục vụ giảng dạy, học tập.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tổ chức biên soạn và duyệt các giáo trình sử dụng chung cho các trường cao đẳng, trường đại học.
1. Cơ sở giáo dục đại học bao gồm:
a) Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng;
b) Trường đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
2. Cơ sở giáo dục đại học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ khi bảo đảm các điều kiện sau đây:
a) Có đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đủ số lượng, có khả năng xây dựng, thực hiện chương trình đào tạo và tổ chức hội đồng đánh giá luận án;
b) Có cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm đáp ứng yêu cầu đào tạo trình độ tiến sĩ;
c) Có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học; đã thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu thuộc đề tài khoa học trong các chương trình khoa học cấp nhà nước; có kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng những người làm công tác nghiên cứu khoa học.
3. Mô hình tổ chức cụ thể của các loại trường đại học do Chính phủ quy định.
1. Sinh viên học hết chương trình cao đẳng, có đủ điều kiện thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được Hiệu trưởng trường cao đẳng hoặc trường đại học cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng.
2. Sinh viên học hết chương trình đại học, có đủ điều kiện thì được dự thi hoặc bảo vệ đồ án, khóa luận tốt nghiệp và nếu đạt yêu cầu theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được Hiệu trưởng trường đại học cấp bằng tốt nghiệp đại học.
Bằng tốt nghiệp đại học của ngành kỹ thuật được gọi là bằng kỹ sư; của ngành kiến trúc là bằng kiến trúc sư; của ngành y, dược là bằng bác sĩ, bằng dược sĩ, bằng cử nhân; của các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, luật, kinh tế là bằng cử nhân; đối với các ngành còn lại là bằng tốt nghiệp đại học.
3. Học viên hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ, có đủ điều kiện thì được bảo vệ luận văn và nếu đạt yêu cầu theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được Hiệu trưởng trường đại học cấp bằng thạc sĩ.
4. Nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ, có đủ điều kiện thì được bảo vệ luận án và nếu đạt yêu cầu theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được Hiệu trưởng trường đại học, Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học cấp bằng tiến sĩ.
5. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định trách nhiệm và thẩm quyền cấp văn bằng của cơ sở giáo dục đại học trong nước quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật này khi liên kết đào tạo với cơ sở giáo dục đại học nước ngoài.
6. Thủ tướng Chính phủ quy định văn bằng tốt nghiệp tương đương trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ của một số ngành chuyên môn đặc biệt.
Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập.
1. Nội dung giáo dục thường xuyên được thể hiện trong các chương trình sau đây:
a) Chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
b) Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học; cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
c) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ;
d) Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Các hình thức thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
a) Vừa làm vừa học;
b) Học từ xa;
c) Tự học có hướng dẫn.
3. Nội dung giáo dục của các chương trình quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này phải bảo đảm tính thiết thực, giúp người học nâng cao khả năng lao động, sản xuất, công tác và chất lượng cuộc sống.
Nội dung giáo dục của chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều này phải bảo đảm các yêu cầu về nội dung của chương trình giáo dục cùng cấp học, trình độ đào tạo quy định tại các điều 29, 35 và 41 của Luật này.
4. Phương pháp giáo dục thường xuyên phải phát huy vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm của người học, coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, sử dụng phương tiện hiện đại và công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học.
5. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề theo thẩm quyền quy định cụ thể về chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu giáo dục thường xuyên.
1. Cơ sở giáo dục thường xuyên bao gồm:
a) Trung tâm giáo dục thường xuyên được tổ chức tại cấp tỉnh và cấp huyện;
b) Trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức tại xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
2. Chương trình giáo dục thường xuyên còn được thực hiện tại các cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học và thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
3. Trung tâm giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình giáo dục thường xuyên quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, không thực hiện các chương trình giáo dục để lấy bằng tốt nghiệp trung cấp, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học. Trung tâm học tập cộng đồng thực hiện các chương trình giáo dục quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 45 của Luật này.
4. Cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện các chương trình giáo dục thường xuyên phải bảo đảm nhiệm vụ đào tạo của mình, chỉ thực hiện chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều 45 của Luật này khi được cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục có thẩm quyền cho phép. Cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên lấy bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học chỉ được liên kết với cơ sở giáo dục tại địa phương là trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp, trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh với điều kiện cơ sở giáo dục tại địa phương bảo đảm các yêu cầu về cơ sở vật chất, thiết bị và cán bộ quản lý cho việc đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học.
1. Học viên học hết chương trình trung học cơ sở có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được cấp bằng tốt nghiệp trung học cơ sở.
Trừ trường hợp học viên học hết chương trình trung học cơ sở quy định tại khoản này, học viên theo học chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều 45 của Luật này nếu có đủ các điều kiện sau đây thì được dự thi, nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp:
a) Đăng ký tại một cơ sở giáo dục có thẩm quyền đào tạo ở cấp học và trình độ tương ứng;
b) Học hết chương trình, thực hiện đủ các yêu cầu về kiểm tra kết quả học tập trong chương trình và được cơ sở giáo dục nơi đăng ký xác nhận đủ điều kiện dự thi theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thẩm quyền cấp văn bằng giáo dục thường xuyên được quy định như thẩm quyền cấp văn bằng giáo dục quy định tại các điều 31, 37 và 43 của Luật này.
2. Học viên học hết chương trình giáo dục quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 45 của Luật này, nếu có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì được cấp chứng chỉ giáo dục thường xuyên.
Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên cấp chứng chỉ giáo dục thường xuyên.
Chapter II
THE NATIONAL EDUCATIONAL SYSTEM
Section 1. EARLY CHILDHOOD EDUCATION
Article 21. Early childhood education
Early childhood education carries out the nurturing, caring, and educating children from three months to six years of age.
Article 22. Objectives of early childhood education
The objectives of early childhood education are to help children develop physically, emotionally, intellectually and aesthetically, in order to shape the initial elements of personality as well as to prepare children for the first grade.
Article 23. Requirements on contents and methods of early childhood education
1. The contents of early childhood education must be suited to the psycho- physiological development of children, balanced between nurturing, caring and educating, with a view to helping children develop a harmonious, healthy, and active body; know how to respect, love and regard grand-parents, parents, teachers, and elderly persons; be attached to brothers, sisters, and friends; be frank, forthright, natural, aesthetically sensitive and intellectually inquisitive.
2. The main method in early childhood education is to help children develop comprehensively through organising play activities while giving special attention to example posing, encouraging and promoting.
Article 24. Educational programme of early childhood education
1. Programme of early childhood education shall reflect the objectives of early childhood education; concretising requirements on nurturing, caring, and educating children at different age groups; regulating the organisation of activities in order to facilitate children to develop physically, emotionally, intellectually and aesthetically; providing guidelines to evaluate the development of children at early childhood age.
2. The Minister of Education and Training, based on the appraisals made by the National Review Council for Appraising Curricula of Early Childhood Education, shall make decisions on the issuance of programme for early childhood education.
Article 25. Institutions of early childhood education
Institutions of early childhood education include:
1. Crèches for children from 3 months to 3 years of age;
2. Kindergarten schools and classes for children from 3 years to 6 years of age;
3. Young sprout schools are those that combine crèches and kindergartens, for children from 3 months to 6 years of age.
1. General education consists of:
a. Primary education is conducted in five years of schooling, from the first to the fifth grade. The age of commencement to the first class is six;
b. Lower secondary education is conducted in four years of schooling, from the sixth to the ninth grade. Pupils entering the sixth grade must complete the primary educational programme, at the age of eleven;
c. Upper secondary education is conducted in three years of schooling, from the tenth to the twelfth grade. Pupils entering the tenth grade must have a Lower Secondary Education Diploma, at the age of fifteen.
2. The Minister of Education and Training shall make provisions on cases where schooling could be commenced at lower ages for pupils with early intellectual development, at ages higher for pupils living at disadvantaged socio-economic regions, pupils belonging to ethnic minorities, disabled and handicapped pupils, pupils with physical and intellectual disadvantage, orphan pupils, pupils of poor households according to the State regulations, pupils returning from overseas; pupils leaping grades; pupils repeating classes; on Vietnamese studies for children of ethnic minorities before entering the first grade.
Article 27. Objectives of general education
1. The objectives of general education are to help pupils develop comprehensively by acquiring morals, knowledge, physical health, aesthetic values and other basic skills, develop personal ability, flexibility and creativeness, with a view to forming the socialist Vietnamese personality, to building the civic conduct and duty, to preparing them for further studies or entering the work force, participating in the building and defending of the Fatherland.
2. Primary education aims to help the pupils form initial foundations for a correct and long-lasting moral, intellectual, physical and aesthetic developments, along with the development of basic skills for them to enter lower secondary education.
3. Lower secondary education is directed towards the pupils' consolidation and development of the outcomes of primary education, provision of a general and basic knowledge along with initial understanding on techniques and career orientation to enter upper secondary education, professional secondary education, vocational training or the workforce.
4. Upper secondary education is directed towards the pupils' consolidation and development of the outcomes of lower secondary education, completion of the general education and common understanding on techniques and career orientation, provision of conditions for pupils to develop their personal ability in order to choose their development direction, to enter universities, colleges, professional secondary education schools, vocational training schools or the workforce.
Article 28. Requirements on contents and methods of general education
1. The contents of general education must ensure the popular, basic, comprehensive, career-orienting, and systematic characteristics, linking or with the realities of life, appropriateness to the psycho-physiological characteristics of pupils, and meeting the objectives of education at each level.
Primary education must guarantee pupils to acquire simple and necessary knowledge about nature, society and human being; with basic skills in listening, reading, speaking, writing and calculating, with habits of physical exercise and hygiene; and with initial understanding of singing, dancing, music and arts.
Lower secondary education must consolidate and develop the contents learned in primary education, guarantee pupils the basic general knowledge in Vietnamese, mathematics, national history, other knowledge in social sciences, natural sciences, law, informatics, foreign languages; with necessary minimum understanding on techniques and career-orientation.
Upper secondary education must consolidate and develop the contents learned in lower secondary education and complete the contents of general education. Besides guaranteeing the general, basic, comprehensive, career-orienting knowledge for all pupils, there shall be advanced teaching in some subjects for developing the pupils' abilities and satisfying their needs.
2. The methods of general education are to promote the activeness, consciousness, initiatives and creativeness of pupils; to be appropriate to the characteristics of each grade and subject; to nurture the methods of self-study and the ability to work in team, to drill the ability of applying learned knowledge into practice; to have impact on pupils' emotional development, to bring them joy and pleasure of learning.
Article 29. Educational programme of general education, textbooks
1. Educational programme of general education must reflect the objectives of general education, setting the standards of knowledge, skills, scope and structure of the contents of general education, methods and forms of organising educational activities, evaluation methods for educational results for each subject of all grades and levels of general education.
2. Textbooks must concretise the requirements on knowledge contents and skills as defined in the educational programme of subjects of each grade of general education, meeting the requirements on methods of general education.
3. The Minister of Education and Training, based on appraisals made by the National Review Council for Appraising Educational Programme of General Educational and Textbooks, shall approve educational programme of general education and textbooks for official, uniformed and steady use in teaching and learning at general educational institutions.
Article 30. Institutions of general education
The institutions of general education include:
1. Primary schools;
2. Lower secondary schools;
3. Upper secondary schools;
4. Multi-level general schools;
5. Centres for general techniques and career orientation.
Article 31. Certification for completion of primary education and issuance of lower secondary diploma and upper secondary diploma
1. Pupils who complete primary education, meeting the requirements set by the Minister of Education and Training, will be certified in their school records by the principle of the primary school that they have completed the primary education.
2. Pupils who complete lower secondary educational programme, meeting the requirements set by the Minister of Education and Training, will be issued with diplomas of lower secondary education by the Head of the Bureau of Education and Training in the district, precinct, town or city under provincial administration (will be referred to as district level).
3. Pupils who complete upper secondary educational programme, meeting the requirements set by the Minister of Education and Training, will be eligible to take the examination and those who pass the examination are issued with diplomas of upper secondary education by the Director of the Department of Education and Training in province, city under central administration (will be referred to as provincial level).
Section 3. PROFESSIONAL EDUCATION
Article 32. Professional education
Professional education consists of:
1. Professional upper secondary education which is conducted from three to four years of studies for learners with lower secondary education diplomas; from one
to two years of studies for those with upper secondary education diplomas;
2. Vocational training which is conducted in less than one year for preliminary vocational programme and from one to three years for vocational upper secondary and college programme.
Article 33. Objectives of professional education
The objectives of professional education are to educate potential labourers who will be equipped with knowledge, professional skills at different levels, with morals, professional ethics, discipline awareness, industrialised habits and physical health, thus providing working people with employability, self- employability or ability to further study to improve professional qualifications, meeting the needs of socio-economic development, national defence and security.
Professional upper secondary education is directed towards the training of working people with basic knowledge and practical skills of a profession, having ability to work independently and creatively as well as to apply technology into work.
Vocational training is directed towards the training of technical workers directly participating in production and service to have the practical ability of a profession adequate to the relevant training qualification.
Article 34. Requirements on contents and methods of professional education
1. The contents of professional education must focus on the training of vocational abilities, paying attention to moral and physical education, as well as improving skills as required by each profession, improving educational qualification levels as required.
2. The methods of professional education must combine practical skill drilling and theoretical teaching, enabling learners to practice and to develop profession as required by each profession.
Article 35. Educational programme and syllabi of professional education
1. Educational programme professional education of professional education reflects the objectives of setting standards for knowledge, skills, scope and structure of the contents of professional education, methods and form of training, ways of evaluating training results for each subject, field, profession, training qualification of professional education; ensuring the demand for transferability with other educational programmes.
The Minister of Education and Training, in co-ordination with other relevant Ministers and Heads of ministry-equivalent agencies, based on the appraisals of the Sector Review Council for Programme of Professional Upper Secondary Education, shall define the core programme for professional upper secondary education which includes content structure, number of subjects, duration of the subjects, proportion of theory and practice, ensuring the objectives for each subject and profession to be trained. Professional upper secondary education schools shall define their own training programmes based on the core programme.
Head of the State agency in charge of management of vocational training, in co- ordination with other relevant ministers and heads of agencies equivalent to ministry, based on the review of the Sector Review Council for Programme of Vocational Training, shall define the core programme for each vocational training level, including content structure, number of subjects, duration of the subjects, proportion of theory and practice, ensuring the objectives for each subject and profession to be trained. Vocational training institutions shall define their own vocational training programmes based on the core programme.
2. Syllabi of professional education shall concretise requirements on contents of knowledge and skills defined in educational programme for each subject, field, profession, and training qualification of professional education, meeting the requirements of methods of professional education.
The preparation and approval of textbooks for official use as teaching and learning materials in professional educational institutions are to be organised by the head of school or director of vocational training centre based on the review of Textbook Review Councils appointed by the head of school or director of vocational training centre.
Article 36. Institutions of professional education
1. Institutions of professional education include:
a) Professional upper secondary education schools;
b) Vocational training colleges, vocational upper secondary schools, vocational training centres, vocational training classes (referred to as vocational training institutions).
2. Vocational training institutions could be organised independently or linked with production units, businesses or other educational institutions.
Article 37. Diplomas and certificates of professional education
1. Learners who complete preliminary vocational training programme, vocational skill upgrading programme, if meeting the requirements set by head of the state agency in charge of management of vocational training, will be eligible to take the test for the certificate. Learners who pass the test are issued with certificates by head of professional educational institution.
2. Learners who complete professional upper secondary education programme, if meeting the requirements set by the Minister of Education and Training, will be eligible to take the examination. Learners who pass the examination are issued with professional upper secondary education diplomas by head of school.
3. Learners who complete vocational upper secondary programme, meeting the requirements set by head of the state agency in charge of management of vocational training, will be eligible to take the examination. Learners who pass the examination are issued with vocational upper secondary diplomas by head of school. Learners who complete vocational training college programme, meeting the requirements set by head of the state agency in charge of management of vocational training, will be eligible to take the examination. Learners who pass the examination are issued with vocational college diplomas by head of school.
Higher education includes:
1. College education is conducted, depending on the discipline, from two to three years of study for persons with upper secondary education diplomas or professional secondary education diplomas; and from one and a half to two years of study for persons with professional secondary education diplomas in the same discipline;
2. University education is conducted, depending on the discipline, from four to six years of study for persons with upper secondary education diplomas or professional secondary educational diplomas; and from two and a half to four years of study for persons with professional secondary education diplomas in the same discipline; from one and a half to two years of study for persons with college diplomas in the same discipline;
3. Master education is conducted from one to two years of study for persons with university degrees;
4. Doctoral education is conducted over four years of study for persons with university degrees; and from two to three years of study for persons with master degrees. In special cases, the duration of doctoral education could be extended as stipulated by the Minister of Education and Training.
The Prime Minister shall give specific provisions for the equivalent qualifications to the master and doctoral education in some special fields of education.
Article 39. Objectives of higher education
1. The objectives of higher education are to educate learners in acquiring political and moral qualities, endeavour to serve the people, professional knowledge and practical skills relevant to the educational levels, and physical health, meeting the needs of construction and defense of the Fatherland.
2. College education shall equip students with professional knowledge and basic practical skills in one profession with the ability to solve common problems in the field of study.
3. University education shall help students acquire in-depth professional knowledge and fluently practical skills in one profession with the ability to work independently and creatively as well as to solve problems in the field of study.
4. Master education shall help students master theories, acquire advanced practical skills with the ability to work independently and creatively, as well as to identify and solve problems in the field of study.
5. Doctoral education shall help students acquire advanced level in theory and practice with the ability to conduct independent and creative research, to identify and solve emerging issues relating to science and technology, to guide scientific research and professional activities.
Article 40. Requirements on contents and methods of higher education
1. Requirements on contents of higher education:
The contents of higher education must have modern and developmental characteristics, ensuring a rational balance between basic knowledge, foreign languages and information technology, professional knowledge and subjects in Marxism-Leninism and Ho Chi Minh Thoughts; must inherit and develop further the good traditions and national cultural identity; up to the international and regional level.
College education must guarantee students basic scientific knowledge and necessary professional knowledge, focusing on drilling of basic skills and the ability to implement professional activities.
University education must guarantee students basic scientific knowledge and relatively complete professional knowledge, scientific working methodology and the ability to apply theory into professional activities.
Master education must ensure the supplementing and upgrading of students' knowledge obtained in undergraduate education; enhance interdisciplinary knowledge and the capability of conducting professional activities and research in their fields of study.
Doctoral education must ensure the completion and upgrading of students' basic scientific knowledge; provide in-depth understanding in specialised knowledge; and develop the capacity of conducting independent research and being creative in their professional activities.
2. Requirements on methods of higher education:
Methods of college and university education must pay attention to the advancement of self-consciousness in study, of ability for self-study, self-taught, developing creative thinking, drilling of practical skills, facilitating students in participating in research, experimentation and application.
Methods of master education shall be realised by combination of various modes of in-class study and self-study, self-research; with special attention to the improvement of practical skills and abilities to identify and solve professional problems.
Methods of doctoral education shall be mainly self-study, self-research under the supervision of instructors and scientists; with focus on the development of scientific research habits and creativity in identifying and solving professional problems.
Article 41. Educational programme and syllabi of higher education
1. Educational programme of higher education reflects objectives of higher education; setting standards for knowledge, skills, scope and structure of the contents of higher education, methods and forms of training, ways of evaluating training results for each subject, field, profession, training qualification of higher education; ensuring the demand of transferability with other educational programmes.
The Minister of Education and Training, based on the review of the Sector Review National Council for Programme of Higher Education, shall define the core programme for each field of education for college and university education, including content structure of all subjects, duration of education, proportion of education duration among different subjects, of theory and practice, internship. Colleges and universities shall design their own programmes based on the core programme.
The Minister of Education and Training shall define knowledge quantity, programme structure, thesis, and dissertation for master and doctoral education.
2. Syllabi of higher education concretise requirements on knowledge contents and skills as defined in the educational programme for each subject, field, and educational qualifications.
Heads of colleges and universities shall be responsible for the compilation and approval of syllabi for official use for each college, each university based on the review of the Syllabi Appraising Council appointed by the head of the institution, ensuring sufficient syllabi for teaching and learning.
The Minister of Education and Training shall be responsible for the compilation and approval of syllabi for common use by colleges or universities.
Article 42. Institutions of higher education
1. Institutions of higher education include:
a) Colleges providing college education;
b) Universities providing college, university education; master and doctoral education as assigned by the Prime Minister;
Research institutes providing doctoral education, co-operating with universities to offer master education as assigned by the Prime Minister.
2. Institutions of higher education will be assigned the task of doctoral education if they meet the following conditions:
a) To have sufficient quantity of professors, associate professors, and doctors with ability to build and conduct educational programmes, organising thesis evaluation council.
b) To have sufficient infrastructure and equipment, meeting the requirements of doctoral education;
c) To have experience in scientific research activities, having conducted research tasks of scientific subject of scientific programmes at State level, having experience in educating and fostering people for scientific research activities.
3. The specific organisational models of various types of higher educational institutions shall be stipulated by the Government.
Article 43. Degrees of higher education
1. Students who have completed the college programme and have met the criteria are eligible to take the examination and if meeting the requirements as stipulated by the Minister of Education and Training will be awarded with college diploma by head of college or rector of university.
2. Students who have completed the university programme and have met the criteria are eligible to take the examination or to defend the graduation theses or projects, and if meeting the requirements as stipulated by the Minister of Education and Training will be awarded with university degree by rector of university.
University degrees of technical fields are called engineer degree; of architecture are called architect degree, of medicines and pharmaceuticals are called medical doctor, pharmacist and bachelor degree; of basic sciences, education, law, economics are called bachelor degree, of all other fields are called university degree.
3. Students who have completed the master's training programme and have met the criteria are eligible to defend the graduation theses, and if meeting the requirements as stipulated by the Minister of Education and Training will be awarded with master degree by rector of university.
4. Students who have completed the doctoral educational programme and have met the criteria are eligible to defend the dissertations, and if meeting the requirements as stipulated by the Minister of Education and Training will be awarded with doctoral degree by rector of university or head of scientific research institute.
5. The Minister of Education and Training shall define the responsibility and authority for degree granting of local higher educational institutions stipulated in the paragraph 1 of the Article 42 of this Law when the institution is involved in joint educational programmes with foreign higher education institutions.
6. The Prime Minister shall give provisions for the equivalent qualifications to master and doctoral degrees in some special fields of training.
Section 5. CONTINUING EDUCATION
Article 44. Continuing education
Continuing education enables people to learn while in-service, to learn continuously and for lifelong for refinement of their personality, broadening their understanding, and for educational, professional, operational enhancement with a view to improving their quality of life, employability, self-employability, and adaptation to the social life.
The State shall make policies to develop continuing education, to implement education for all, to build a learning society.
Article 45. Requirements on educational programme, contents and methods of continuing education
1. The contents of continuing education are reflected in the following programmes:
a) Illiteracy eradication and continuing post-literacy education;
b) Educational programme responding to the needs of learners, updating of knowledge and skills, transferring of technology;
c) Training and upgrading programmes, programmes for enhancement of qualifications and professions.
d) Programmes leading to diplomas of the national educational system.
2. Forms to conduct continuing educational programmes leading to diplomas of the national educational system are as follows:
a) In-service learning;
b) Distance learning;
c) Guided self-learning.
3. The educational contents of the programmes as defined in items a, b, and c, paragraph 1 of this Article must guarantee the usefulness, and help the learners improve their working productivity and quality of life.
The educational contents of the programme as defined in item d, paragraph 1 of this Article, must guarantee the requirements on contents of the educational programme of the same educational level and educational qualifications defined in Articles 29, 35, and 41 of this Law.
4. The methods of continuing education must promote the initiatives and take advantage of the experience of learners, with an emphasis on the development of their self-taught ability, using modern facilities and information technology to improve quality and efficiency of teaching and learning.
5. The Minister of Education and Training, Head of the State agency in charge of management on vocational training, within their authority, shall give specific provisions on programme, syllabi, textbooks and materials of continuing education.
Article 46. Institutions of continuing education
1. Institutions of continuing education include:
a) Centres for continuing education organised at province and district levels;
b) Community learning centres organised at commune, ward, town (referred to as commune level);
2. Programmes of continuing education are also conducted at general educational institutions, professional educational institutions, higher educational institutions and through mass media.
3. Centres of continuing education that conduct programmes of continuing education as defined in paragraph 1, Article 45 of this Law are not eligible to conduct educational programmes leading to professional upper secondary education diploma, college diploma, or university degree. Community learning centres conduct educational programmes as defined in items a and c, paragraph 1, Article 45 of this Law.
4. General education institutions, professional education institutions, higher education institutions conducting programmes of continuing education must ensure the fulfilment of their own formal educational duties; they can only implement the programmes as defined in item d, paragraph 1, Article 45 of this Law as permitted by competent State educational authorities. Higher education institutions conducting programmes of continuing education leading to college or university degrees can link with local education institutions of universities, colleges, professional secondary schools, provincial continuing educational centres with conditions that local education institutions guarantee requirements on material facilities, equipment and management staff appropriate to college and university education levels.
Article 47. Diplomas and certificates of continuing education
1. Learners who complete lower secondary education programme, meeting the requirements set by the Minister of Education and Training, will be issued with diplomas of lower secondary education Besides, learners who have completed educational programmes as defined in item d, paragraph 1, Article 45 of this Law are eligible to take the examination for diplomas if they meet the following requirements:
a) Being registered at an educational institution authorised to provide the training at the relevant levels, in relevant qualifications;
b) Having completed the programme, fulfilled requirements on learning assessment and evaluation, and attested by the educational institution as eligible to take the examination according to the regulations set out by the Minister of Education and Training.
The authority in issuing continuing education diplomas is the same as provided for that defined in Article 31, 37, and 43 of this Law.
2. Learners who have completed educational programmes as defined in items a, b, and c, paragraph 1, Article 45 of this Law, and have met the criteria set out by the Ministry of Education and Training are eligible to take the examination; and if meeting the requirements will be issued with the continuing education certificates.
Directors of centres of continuing education shall issue continuing education certificates.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực