Chương I Luật Giáo dục 2005: Những quy định chung
Số hiệu: | 38/2005/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 14/06/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2006 |
Ngày công báo: | 02/08/2005 | Số công báo: | Từ số 3 đến số 4 |
Lĩnh vực: | Giáo dục | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2020 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Luật giáo dục quy định về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
2. Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
1. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
2. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
c) Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
d) Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
1. Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học.
2. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
1. Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo.
2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất; kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo và tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục phải được cụ thể hóa thành sách giáo khoa ở giáo dục phổ thông, giáo trình và tài liệu giảng dạy ở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên. Sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu giảng dạy phải đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục.
4. Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; theo năm học hoặc theo hình thức tích luỹ tín chỉ đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.
Kết quả học tập môn học hoặc tín chỉ mà người học tích luỹ được khi theo học một chương trình giáo dục được công nhận để xem xét về giá trị chuyển đổi cho môn học hoặc tín chỉ tương ứng trong chương trình giáo dục khác khi người học chuyển ngành nghề đào tạo, chuyển hình thức học tập hoặc học lên ở cấp học, trình độ đào tạo cao hơn.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định việc thực hiện chương trình giáo dục theo hình thức tích luỹ tín chỉ, việc công nhận để xem xét về giá trị chuyển đổi kết quả học tập môn học hoặc tín chỉ.
1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả.
1. Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp cấp học hoặc trình độ đào tạo theo quy định của Luật này.
Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt nghiệp trung cấp, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ.
2. Chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học để xác nhận kết quả học tập sau khi được đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng.
Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.
1. Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập. Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.
2. Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập.
3. Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên của gia đình trong độ tuổi quy định được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập.
Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục.
Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục.
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học.
Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục.
Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân.
Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, bảo đảm phát triển sự nghiệp giáo dục.
Kiểm định chất lượng giáo dục là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
Việc kiểm định chất lượng giáo dục được thực hiện định kỳ trong phạm vi cả nước và đối với từng cơ sở giáo dục. Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục được công bố công khai để xã hội biết và giám sát.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục.
1. Nhà nước tạo điều kiện cho nhà trường và cơ sở giáo dục khác tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến khoa học, công nghệ; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, từng bước thực hiện vai trò trung tâm văn hóa, khoa học, công nghệ của địa phương hoặc của cả nước.
2. Nhà trường và cơ sở giáo dục khác phối hợp với tổ chức nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong việc đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
3. Nhà nước có chính sách ưu tiên phát triển nghiên cứu, ứng dụng và phổ biến khoa học giáo dục. Các chủ trương, chính sách về giáo dục phải được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu khoa học phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân.
Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc, kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, phá hoại thuần phong mỹ tục, truyền bá mê tín, hủ tục, lôi kéo người học vào các tệ nạn xã hội.
Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.
Chapter I
Article 1. Scope of regulations
The Education Law regulates the national educational system; schools, other educational institutions of the national educational system; of state agencies; of political organisations; socio-political organisations; of people's armed forces; organisations and individuals taking parts in educational activities.
The goals of educational are to educate the Vietnamese into comprehensively developed persons who possess ethics, knowledge, physical health, aesthetic sense and profession, loyal to the ideology of national independence and socialism; to shape and cultivate one's dignity, civil qualifications and competence, satisfying the demands of the construction and defense of the Fatherland.
Article 3. Characteristics and principles of education
1. The Vietnamese education is a socialist education with popular, national, scientific, and modern characteristics, based on Marxism-Leninism and Ho Chi Minh's Thoughts.
2. Educational activities must be conducted on the principles of learning coupled with practice, education linked to production, theories connected to practicability, and education at school combined with education in the family and in the society.
Article 4. National educational system
1. The national educational system consists of formal education and continuing education.
2. Educational levels and training qualifications of the national educational system include:
a) Early childhood education with crÌches and kindergartens;
b) General education with primary education, lower secondary education, and upper secondary education;
c) Professional education with professional secondary education and vocational training;
d) Undergraduate and postgraduate education (hereinafter referred to as higher education) with college, undergraduate, master and doctoral degrees.
Article 5. Requirements on contents and methods of education
1. Contents of education must ensure the basic, comprehensive, practical, modern, and systematic characters; with importance attached to ideological and civic conscious education; preserving and developing the good traditions and the national cultural identity, absorbing the essence of the mankind culture; and conforming to the psycho-physiology development of various age groups of learners.
2. Methods of education must bring into full play the activeness, the consciousness, the self-motivation, and the creative thinking of learners; foster the self-study ability, the practical ability, the learning eagerness and the will to advance forward.
Article 6. Educational programme
1. Educational programme shall reflect the goals of education; set the standards for knowledge, skills, scope and structure of educational contents, for methods and forms of organising educational activities, for evaluation methods of educational outcomes for each subject of every grade and level or educational qualifications.
2. Educational programme must ensure the modernity, stability, consistency, and inheritability among different levels and different educational qualifications, facilitating the streaming and transferability among educational qualifications, specialisations and forms of the national educational system.
3. Requirements on knowledge and skill contents defined in the educational programme must be concretised in textbooks used for general education, in syllabi and teaching materials used for professional education, higher education, and continuing education. Textbooks, syllabi and teaching materials must meet the requirements on educational methods.
4. Educational programme shall be implemented based on school year for early childhood education and general education, and based either on school year or on credit accumulation for professional education and higher education.
Study results of subjects or credits accumulated by learners after pursuing their studies in an educational programme are considered for transferable values for respective subjects or credits of other educational programmes when learners change their educational specialisations, forms of studies, or follow higher educational levels or qualifications.
The Minister of Education and Training shall stipulate the realisation of educational programme in the form of credit accumulation, the recognition for considering the transferable values of study results of subjects or credits.
Article 7. Languages used in schools and other educational institutions; teaching and learning of spoken and written languages of ethnic minorities; teaching of foreign languages
1. Vietnamese is the official language to be used in schools and other educational institutions. Based on the goals of educational and specific needs on the educational contents, the Prime Minister shall stipulate the teaching and learning via foreign languages in schools and other educational institutions.
2. The State shall enable ethnic minority people to learn their spoken and written languages in order to preserve and develop their ethnic cultural identity, helping pupils from ethnic minorities easily absorb knowledge when they study in schools and other educational institutions. The teaching and learning of these languages shall be conducted in accordance with the Government regulations.
3. Foreign languages defined in educational programme are the languages used commonly in international communication. The teaching of foreign languages in schools and other educational institutions should guarantee learners with continuing and effective learning process.
Article 8. Degrees/diplomas and certificates
1. Degrees/diplomas of the national educational system are conferred to learners upon successful completion of the level or degree of education as stipulated by this Law.
Degrees/diplomas of the national educational system consist of the following: lower secondary diploma, upper secondary diploma, professional secondary education diploma, college diploma, university degree, master degree and doctoral degree.
2. Certificates of the national educational system are granted to learners to acknowledge their learning results upon successful completion of courses for knowledge or professional upgrading.
Article 9. Educational development
Educational development is the first national priority with a view to improving people's knowledge, training manpower, and fostering talents.
Educational development must be linked with the requirements of socio-economic development, to the scientific-technological advances, and to the consolidation of national defence and security; must implement standardisation, modernisation, and socialisation; must ensure the balance in terms of qualifications, professional and regional structure; must expand scale on the basis of quality and efficiency assurance; and must link education with employment.
Article 10. Rights and obligations to learn of citizens
Learning is the right and obligation of every citizen.
Every citizen, regardless of ethnic origins, religions, beliefs, gender, family background, social status or economic conditions, has equal rights of access to learning opportunities.
The State shall undertake social equity in education and enable everyone to get access to education. The State and the community shall help the poor have access to education, enabling gifted people to develop their talents.
The State shall give priority in enabling children of ethnic minorities, children of families in areas with special socio-economic difficulties, targeted groups of socially prioritised policies, disabled and handicapped persons and beneficiaries of other social policies to realise their learning rights and obligations.
Article 11. Universalisation of education
1. Primary education and lower secondary education are universal education levels. The State shall make decisions on plans of universal education; shall assure conditions to implement the universalisation of education throughout the country.
2. All citizens within the defined age group shall have the obligation to learn in order
to obtain the level of universalised education.
3. Families shall have the responsibilities of facilitating or their members in the defined age group to pursue learning in order to obtain the level of universalised education.
Article 12. Socialisation of the cause of education
To develop education and to build a learning society are the responsibilities of the
State and of the whole population.
The State shall play the dominant role in developing the cause of education; carry out the diversification of schooling types and modes of education; encourage, promote and facilitate organisations and individuals to take part in the development of the cause of education.
It is the responsibility of all organisations, families and citizens to take care of education, to cooperate with schools in realising the goals of education, and to build a sound and safe educational environment.
Article 13. Investment for education
Investment for education is an investment for development.
The State shall give priority to the investment for education, encourage and protect the legal rights and benefits of Vietnamese organisations and individuals, overseas Vietnamese, foreign organisations and individuals to invest in education.
The State budget must hold the key role in the total resources invested in education.
Article 14. State management of education
The State shall carry out the unified management of the national educational system in terms of goals, programmes, contents, educational plans, teachers' standards, examination regulations and system of degrees/diplomas; focus on the management of educational quality, exercise decentralisation on educational management; strengthen the autonomy and accountabilities of educational institutions.
Article 15. Roles and responsibilities of teachers
Teachers play the decisive role in ensuring the quality of education.
Teachers must study and improve themselves continuously to set examples for learners.
The State shall organise education and training for teachers, issuing policies on employment and rewards, ensuring necessary material and spiritual conditions for teachers to fulfil their roles and responsibilities, preserving and developing the tradition of respecting teachers and honouring the teaching profession.
Article 16. Roles and responsibilities of educational management staff
Educational management staff play an important role in organising, managing and directing educational activities.
Educational management staff must study and improve themselves continuously
in terms of moral standards, qualifications, management competence and personal responsibility.
The State shall have plan to build and improve the quality of educational management staff in order to promote roles and responsibilities of educational management staff, ensuring the development of the cause of education.
Article 17. Educational quality accreditation
Educational quality accreditation is the major measure to define the level of achieving educational objectives, programmes, and contents for schools and other educational institutions.
Educational quality accreditation is conducted regularly throughout the country and for every educational institution. Results of the educational quality accreditation are publicly announced for the information and monitoring purposes of the whole society.
The Minister of Educational and Training shall be responsible for directing the implementation of educational quality accreditation.
Article 18. Scientific research
1. The State shall facilitate schools and other educational institutions in organising scientific-technological research, application, and dissemination; in combining education with research and production so as to improve educational quality, gradually implementing the role of a cultural, scientific and technological centre for the locality or the whole country.
2. Schools and other educational institutions shall cooperate with scientific research organisations, production-trade-service units to carry out education, scientific research and technology transfer for socio-economic development.
3. The State shall elaborate priority policy for the development of research, application and dissemination of educational sciences. Guidelines and policies concerning education must be formulated based on the results of scientific research, appropriate to the Vietnamese reality.
Article 19. No religious propagating in schools and other educational institutions
Neither religious propagating nor religious rituals are to be conducted in schools and other educational institutions of the national educational system, of the State agencies, of political organisations, of socio-political organisations and of the people's armed forces.
Article 20. Prohibition of making corrupt use of educational activities
It is prohibited to make corrupt use of educational activities to distort State guidelines, policies, legislation; to oppose the Socialist Republic of Vietnam, to separate the block of great national solidarity, to incite violence, to propagate invasion war, to arose the good traditions and customs, to publicise superstitious beliefs and bad customs, or to attract learners into social evils.
It is prohibited to make corrupt use of educational activities for self-interest purposes.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực