Chương VIII Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015: Kết quả bầu cử
Số hiệu: | 85/2015/QH13 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Sinh Hùng |
Ngày ban hành: | 25/06/2015 | Ngày hiệu lực: | 01/09/2015 |
Ngày công báo: | 28/07/2015 | Số công báo: | Từ số 869 đến số 870 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
1. Dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu
Luật bầu cử 2015 quy định việc dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội: Chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử, UBTVQH dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội; theo Luật bầu cử đại biểu quốc hội, số lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, địa phương được giới thiệu ứng cử để bảo đảm tỷ lệ các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội.
2. Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương
Nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng bầu cử quốc gia theo Luật bầu cử quốc hội: Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn bầu cử; Chỉ đạo công tác tuyên truyền và vận động, bảo vệ an ninh, trật tự bầu cử; Quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu thẻ cử tri, mẫu phiếu bầu cử, …
3. Danh sách cử tri theo Luật bầu cử đại biểu quốc hội
Nguyên tắc lập danh sách cử tri theo Luật bầu cử đại biểu quốc hội 2015:
- Mọi công dân có quyền bầu cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri nơi mình thường trú hoặc tạm trú và được phát thẻ cử tri, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật bầu cử 2015.
- Cử tri là người tạm trú chưa đủ 12 tháng, là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.
- Luật bầu cử đại biểu quốc hội quy định công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, được ghi tên vào danh sách cử tri.
- Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ được ghi tên vào danh sách cử tri nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ.
4. Ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND
- Theo Luật bầu cử quốc hội và HĐND, những trường hợp sau không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân:
+ Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
+ Người đang bị khởi tố bị can.
+ Người đang hoặc đã chấp hành bản án, quyết định hình sự chưa được xóa án tích.
+ Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015 quy định việc giới thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương ứng cử đại biểu Quốc hội
Căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương tiến hành lựa chọn, giới thiệu người đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội như sau: Ban lãnh đạo dự kiến người của tổ chức mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác, tổ chức hội nghị để thảo luận, giới thiệu người cửa tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
5. Nguyên tắc và trình tự bỏ phiếu
Nguyên tắc bỏ phiếu theo Luật bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015
- Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân.
- Cử tri phải tự mình đi bầu cử, trừ trường hợp:
+ Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu;
+ Cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được, người đang bị tạm giam, bị tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến để cử tri thực hiện việc bầu cử.
- Luật bầu cử đại biểu quốc hội quy định khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem.
Luật bầu cử còn quy định tuyên truyền, vận động bầu cử; kết quả bầu cử đại biểu; bầu cử bổ sung đại biểu có hiệu lực từ ngày 01/09/2015.
Văn bản tiếng việt
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm phong số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu.
1. Những phiếu bầu sau đây là phiếu bầu không hợp lệ:
a) Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra;
b) Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
c) Phiếu để số người được bầu nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử;
d) Phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử;
đ) Phiếu ghi thêm tên người ngoài danh sách những người ứng cử hoặc phiếu có ghi thêm nội dung khác.
2. Trường hợp có phiếu bầu được cho là không hợp lệ thì Tổ trường Tổ bầu cử đưa ra để toàn Tổ xem xét, quyết định. Tổ bầu cử không được gạch xóa hoặc sửa các tên ghi trên phiếu bầu.
Những khiếu nại, tố cáo tại chỗ về những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử nhận, giải quyết và ghi nội dung giải quyết vào biên bản.
Trong trường hợp Tổ bầu cử không giải quyết được thì phải ghi rõ ý kiến của Tổ bầu cử vào biên bản giải quyết khiếu nại, tố cáo và chuyển đến Ban bầu cử.
1. Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập các loại biên bản sau đây:
a) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội tại khu vực bỏ phiếu;
b) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tại khu vực bỏ phiếu;
c) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện tại khu vực bỏ phiếu;
d) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã tại khu vực bỏ phiếu.
2. Biên bản kết quả kiểm phiếu phải có các nội dung sau đây:
a) Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu;
b) Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
c) Số phiếu phát ra;
d) Số phiếu thu vào;
đ) Số phiếu hợp lệ;
e) Số phiếu không hợp lệ;
g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
h) Những khiếu nại, tố cáo nhận được; những khiếu nại, tố cáo đã giải quyết và kết quả giải quyết; những khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ban bầu cử.
3. Mỗi loại biên bản quy định tại khoản 1 Điều này được lập thành ba bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký Tổ bầu cử và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Biên bản được gửi đến Ban bầu cử tương ứng và Ủy ban nhân dân, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã chậm nhất là 03 ngày sau ngày bầu cử.
1. Sau khi nhận, kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu của các Tổ bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ban bầu cử lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
2. Biên bản xác định kết quả bầu cử có các nội dung sau đây:
a) Số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được ấn định cho đơn vị bầu cử;
b) Số lượng người ứng cử;
c) Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử;
d) Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri của đơn vị bầu cử;
đ) Số phiếu phát ra;
e) Số phiếu thu vào;
g) Số phiếu hợp lệ;
h) Số phiếu không hợp lệ;
i) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
k) Danh sách những người trúng cử;
l) Những khiếu nại, tố cáo do các Tổ bầu cử giải quyết; những khiếu nại, tố cáo do Ban bầu cử giải quyết; những khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ủy ban bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia.
3. Biên bản xác định, kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử được lập thành ba bản, có chữ ký của Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chậm nhất là 05 ngày sau ngày bầu cử.
4. Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử được lập thành bốn bản, có chữ ký của Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Ủy ban bầu cử cùng cấp, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chậm nhất là 05 ngày sau ngày bầu cử.
1. Kết quả bầu cử được tính, trên số phiếu bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 80 của Luật này.
2. Người trúng cử phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.
3. Trường hợp số người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ nhiều hơn số lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những người trúng cử là những người có số phiếu bầu cao hơn.
4. Trường hợp cuối danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng nhau và nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử.
1. Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử đại biểu Quốc hội chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử ở tỉnh để đề nghị Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định việc bầu cử thêm ở đơn vị bầu cử đó.
2. Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân chưa đủ hai phần ba số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp đó để quyết định ngày bầu cử thêm ở đơn vị bầu cử đó.
3. Trong trường hợp bầu cử thêm thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên nhưng không trúng cử. Người trúng cử là người được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ và có số phiếu bầu cao hơn. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai.
1. Trường hợp đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu ở cấp đó.
2. Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban bầu cử ở tỉnh đề nghị Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định việc bầu cử lại ở đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri.
3. Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quyết định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri sau khi đã báo cáo và được sự đồng ý của Hội đồng bầu cử quốc gia.
4. Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
1. Hội đồng bầu cử quốc gia tự mình hoặc theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử ở tỉnh hủy bỏ kết quả bầu cử ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết định ngày bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử đó.
2. Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên.
Danh sách cử tri của cuộc bầu cử thêm, bầu cử lại được lập theo danh sách cử tri trong cuộc bầu cử đầu tiên và theo quy định của Luật này.
1. Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội của các Ban bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban bầu cử ở tỉnh, lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương.
2. Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các nội dung sau đây:
a) Số lượng đơn vị bầu cử;
b) Số lượng người ứng cử;
c) Tổng số cử tri của địa phương;
d) Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri của địa phương;
đ) Số phiếu hợp lệ;
e) Số phiếu không hợp lệ;
g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
h) Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;
i) Những khiếu nại, tố cáo do Tổ bầu cử, Ban bầu cử đã giải quyết;
k) Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết;
l) Những khiếu nại, tố cáo do Ủy ban bầu cử ở tỉnh đã giải quyết;
m) Những khiếu nại, tố cáo và kiến nghị chuyển đến Hội đồng bầu cử quốc gia.
3. Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được lập thành bốn bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chậm nhất là 07 ngày sau ngày bầu cử.
1. Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử ở tỉnh và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu cử quốc gia lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước.
2. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội có các nội dung sau đây:
a) Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu;
b) Tổng số người ứng cử;
c) Tổng số cử tri trong cả nước;
d) Tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri trong cả nước;
đ) Số phiếu hợp lệ;
e) Số phiếu không hợp lệ;
g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
h) Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;
i) Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết;
k) Những khiếu nại, tố cáo do Hội đồng bầu cử quốc gia đã giải quyết.
3. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội được lập thành năm bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia. Biên bản được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và trình Quốc hội khóa mới.
1. Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban bầu cử lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà mình chịu trách nhiệm tổ chức.
2. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có các nội dung sau đây:
a) Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu của đơn vị hành chính;
b) Tổng số người ứng cử;
c) Tổng số cử tri của đơn vị hành chính;
d) Tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri của đơn vị hành chính;
đ) Số phiếu hợp lệ;
e) Số phiếu không hợp lệ;
g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
h) Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;
i) Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết;
k) Những khiếu nại, tố cáo do Ủy ban bầu cử đã giải quyết.
3. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được lập thành sáu bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban bầu cử. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã được gửi đến Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được gửi đến Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1. Hội đồng bầu cử quốc gia căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội chậm nhất là 20 ngày sau ngày bầu cử.
2. Ủy ban bầu cử căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình chậm nhất là 10 ngày sau ngày bầu cử.
1. Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội phải được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội.
Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải được gửi đến Ủy ban bầu cử chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
2. Hội đồng bầu cử quốc gia có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Ủy ban bầu cử có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
3. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử là quyết định cuối cùng.
1. Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu Quốc hội, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội, cấp giấy chứng nhận đại biểu Quốc hội khóa mới cho người trúng cử và báo cáo Quốc hội khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội tại kỳ họp đầu tiên.
2. Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mà mình chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử, cấp giấy chứng nhận đại biểu Hội đồng nhân dân khóa mới cho người trúng cử và báo cáo Hội đồng nhân dân khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp đầu tiên.
The counting of votes must be conducted in the polling booth immediately after the voting is over.
Before opening the ballot box, the Election Team must count, write a report on and seal the unused ballots and invite two electors who are not candidates to witness the vote count.
The candidates, the representatives of the agencies, organizations and units that nominate the candidates or the authorized persons shall be entitled to witness the vote count and make complaints about it. Reporters of the press shall be allowed to witness the vote count.
1. The following votes shall be invalid:
a) Votes made on ballots which are not in the prescribed form distributed by the Election Team;
b) Votes made on ballots which do not bear the seal of the Election Team;
c) Votes which elect more candidates than the designated number of deputies to be elected in the constituency;
d) Votes which cross out all the names of candidates;
dd) Votes which elect persons outside the list of candidates or add other contents.
2. If a vote is in doubt about its validity, the head of the Election team shall show it so that the whole Team can settle. The Election Team is not allowed to cross out or amend the names on the votes.
Article 75. Complaints or denunciations of counting
On-the-spot complaints about violations against regulations of law on the vote count shall be received and settled by the Election Team which shall state the ways of settlement in its report.
If the Election Team fails to settle a complaint, it shall clearly state its opinion in the report on the complaint settlement and refer it to the Election Board.
Article 76. Reports on the vote counting result
1. After counting the votes, the Election Team shall make following reports:
a) Reports on the vote counting result of election of National Assembly deputies at the polling stations;
b) Reports on the vote counting result of election of People’s Council deputies of provinces at the polling stations;
c) Reports on the vote counting result of election of People’s Council deputies of districts at the polling stations;
d) Reports on the vote counting result of election of People’s Council deputies of communes at the polling stations.
2. Each report must clearly state:
a) The total number of electors of the polling station;
b) The number of electors who have cast their votes;
c) The number of distributed votes;
d) The number of collected votes;
dd) The number of valid votes;
e) The number of invalid votes;
g) The number of votes for each candidate;
h) The complaints or denunciations received; the complaints or denunciations already settled and settlement results, complaints or denunciations referred to the Election Board.
3. Each report prescribed in Clause 1 of this Article shall be made in three copies, each affixed with the signatures of the Head and the Secretary of the Election Team and two electors who have been invited to witness the vote count. Not later than three days after the polling day, the report shall be sent to the Election Board and the People’s Committee, the Standing Board of the Fatherland Front Committee of the commune.
Section 2. ELECTION RESULT AT THE CONSTITUENCY
Article 77. Reports on election returns in the constituencies
1. After receiving the reports on the results of the vote counts from the Election Teams and settle complaints or denunciations (if any), the Election Board shall draw up a report on election returns in its constituency.
2. The report on election returns shall clearly state:
a) The number of National Assembly and People’s Council deputies determined for each constituency;
b) The number of candidates;
c) The total number of electors in the constituency;
d) The number of electors who cast their votes; the percentage of electors who cast their ballots against the total number of electors;
dd) The number of distributed votes;
e) The number of collected votes;
g) The number of valid votes;
h) The number of invalid votes;
i) The number of votes for each candidate;
k) The list of elected candidates;
l) The complaints or denunciations settled by the Election Teams; complaints or denunciations settled by the Election Board; and complaints or denunciations referred to the Election Commission and the National Election Commission.
3. The report on election returns of the National Assembly deputies in the constituency shall be made in three copies, each affixed with the signatures of the Head, Deputy Heads and the Secretary of the Board. Not later than 5 days after the polling day, it shall be sent to the National Election Commission, the Election Commission of the province, and the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the province.
4. The report on election returns of the People’s Council deputies in the constituency shall be made in four copies, each affixed with the signatures of the Head, Deputy Heads and the Secretary of the Board. Not later than 5 days after the polling day, it shall be sent to the Election Commission, Standing board of People’s Council, People’s Committee and the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level.
Article 78. Rules for determining elected candidates
1. The election result shall be determined according to the valid votes and only be accepted if there more than half of the total electors mentioned in the list of electors in the constituency cast their votes, excluding cases prescribed in Clause 4 Article 80 of this Law.
2. The elected candidates must be those who poll more than half of the valid votes.
3. In cases where the number of candidates who poll more than half of the valid votes is greater than the number of designated deputies in the constituency, the candidates poll more votes than others shall be elected.
4. In cases where there are more than one candidate polling the same number of votes at the end of the list of elected candidates and the number of elected candidates is greater than the number of designated deputies in the constituency, the eldest shall be elected.
Section 3. ADDITIONAL ELECTION, RE-ELECTION
Article 79. Additional election
1. If, in the first election, the number of elected National Assembly candidates is less than that designated for the constituency, the Election Board of which must clearly state it in an report on election returns and promptly report it to the Election Commission of province which shall request the National Election Commission to consider and decide on an additional election in such constituency.
2. If, in the first election, the number of elected National Assembly candidates is less than two-third that designated for the constituency, the Election Board of which must clearly state it in an report on election returns and promptly report it to the Election Commission at the same administrative level to decide on an additional election in such constituency.
3. In case of an additional election, the polling day shall be not later than 15 days after the first polling day. In the additional election, electors shall only choose from the candidates on the list of candidates who failed in the first election. The elected candidates shall be those who poll more than half of the valid votes and more votes than others. If even after the additional election but the number of elected candidates is still smaller than the designated number, there shall not be the second additional election.
1. If, in a constituency, the number of poll-goers is not more than half of the number of electors registered in the electoral register, the Election Board shall clearly state it in a report and immediately report it to the Election Commission to decide a re-election in such constituency.
2. Regarding election of deputies to the National Assembly, the Election Commission of province shall request National Election Commission to consider and decide a re-election in the constituency which the number of poll-goers is not more than half of the number of electors registered in the electoral register.
3. Regarding election of deputies to the People’s Council, the Election Commission decide the re-election day in the constituency which the number of poll-goers is not more than half of the number of electors registered in the electoral register with the consent of National Election Commission.
4. In case of a re-election, the polling day shall be not later than 15 days after the first polling day. In the re-election, electors shall choose from the candidates on the list of the first election candidates. If, in the re-election, the number of poll-goers is still not more than half of the number of voters registered in the list and the election result shall be accepted, no re-election shall be held for the second time.
Article 81. Cancellation of election result and decision on re-election
1. The National Election Commission shall cancel by itself or at the proposal of the Government, the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front or the Election Committee the election result in a polling station or constituency where there have been serious violations of law and decide the re-election day in such polling station or constituency.
2. In case of a re-election, the polling day shall be not later than 15 days after the first polling day. In the re-election, electors shall only choose from those on the list of the first election candidates.
Article 82. Electoral register of the additional election or re-election
The Electoral register of the additional election or re-election shall be drawn up according to the Electoral register of the first election and in accordance with this Law.
Section 4. SUMMING UP OF THE ELECTION
Article 83. Reports on election returns of National Assembly deputies of provinces
1. After receiving and checking the reports on election returns of National Assembly deputies from Election Boards and the settlement of complaints (if any), the Election Commission shall make a report on election returns in the province.
2. A report on election returns of National Assembly deputies of province must clearly state:
a) The number of constituencies;
b) The number of candidates;
c) The total number of electors in the province;
d) The number of electors who have cast their votes; the percentage of electors who have cast their ballots against the total number of electors;
dd) The number of valid votes;
e) The number of invalid votes;
g) The number of votes for each candidate;
h) The list of elected candidates in each constituency;
i) The complaints and denunciations already settled by the Election Teams and Election Boards;
k) The important incidents and solutions thereto;
l) The complaints and denunciations already settled by the Election Commission of the province;
m) The complaints, denunciations and petitions referred to National Election Commission.
3. The report on election returns of National Assembly deputies of the province shall be made in four copies, each affixed with the signatures of the Chairman and the Secretary of the Election Commission. Not later than 07 days after the polling day, the report shall be sent to National Election Commission, the Standing Committee of the National Assembly, the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front, and the Fatherland Front Committee of the province.
Article 84. Closing report on the election of National Assembly deputies
1. After receiving and checking the Election Boards’ and the Election Commissions’ reports on election returns and the settlement of complaints and denunciations (if any), National Election Commission shall make a closing report on the election of National Assembly deputies nationwide.
2. The report must clearly state:
a) The total number of the elected National Assembly deputies;
b) The total number of candidates;
c) The total number of electors;
d) The total number of electors who have cast their votes; the percentage of electors who have cast their ballots against the total number of electors nationwide;
dd) The number of valid votes;
e) The number of invalid votes;
g) The number of votes for each candidate;
h) The list of elected candidates in each constituency;
i) The important incidents and solutions thereto;
k) The complaints and denunciations settled by National Election Commission.
3. The report shall be made in five copies, each affixed with the signatures of the Chairman, Deputy Chairmans of National Election Commission. Each copy of the report shall be sent to the Standing Committee of the National Assembly, the Government, and the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front and one copy shall be submitted to the National Assembly new legislature.
Article 85. Closing report on the election of People’s Council deputies
1. After receiving and checking the Election Boards’ reports on election returns and the settlement of complaints and denunciations (if any), the Election Commission shall make a closing report on the election of People’s Council deputies under their responsibility.
2. The report must clearly state:
a) The total number of the elected People’s Council deputies;
b) The total number of candidates;
c) The total number of electors in administrative divisions;
d) The total number of electors who have cast their votes; the percentage of electors who have cast their ballots against the total number of electors in administrative divisions;
dd) The number of valid votes;
e) The number of invalid votes;
g) The number of votes for each candidate;
h) The list of elected candidates in each constituency;
i) The important incidents and solutions thereto;
k) The complaints and denunciations settled by the Election Commission.
3. The report shall be made in six copies, each affixed with the signatures of the Chairman, Deputy Chairmans of the Election Commission. Each copy of the closing report on election of People’s Council deputies of the district or commune shall be sent to the People’s Council, the People’s Committee, and Vietnamese Fatherland Front Committee at the same or superior administrative level. Each copy of the closing report on election of People’s Council deputies of the province shall be sent to the People’s Council, the People’s Committee, and Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level, Standing committee of the National, the Government and Central Committee of Vietnamese Fatherland Front.
Article 86. Announcement of election result and list of elected candidates
1. Not later than 20 days after the polling day, National Election Commission shall announce the election result and list of elected National Assembly deputies according to the closing reports nationwide.
2. Not later than 10 days after the polling day, the Election Commission shall announce the election result and list of elected People’s Council deputies at their administrative level according to the closing reports.
Article 87. Settlement of complaints about the election returns
1. All complaints about the election returns of National Assembly deputies must be sent to the National Election Commission within 05 days from the date on which the election returns are announced.
All complaints about the election returns of People’s Council deputies must be sent to the Election Commission within 05 days from the date on which the election returns are announced.
2. National Election Commission shall consider and settle complaints about election returns of National Assembly deputies within 30 days from the date on which the complaints are received.
The Election Commission shall consider and settle complaints about election returns of People’s Council deputies within 20 days from the date on which the complaints are received.
3. The decisions on the settlement of the complaints of National Election Commission and Election Commissions shall be the final decisions.
Article 88. Certifying status of elected National Assembly and People’s Council deputies
1. According to the closing report of election of National Assembly deputies, settlement results of complaints and denunciations related to elected National Assembly deputies, National Election Commission shall certify status of elected National Assembly deputies, issue Certificates of National Assembly deputies of new legislature to the elected deputies and send report on certification results of National Assembly deputies’ status to the new National Assembly in the first session.
2. According to the closing report of election of People’s Council deputies, settlement results of complaints and denunciations related to elected People’s Council deputies, the Election Commission shall certify status of elected People’s Council deputies, issue Certificates of People’s Council deputies of new legislature to the elected deputies and send report on certification results of People’s Council deputies’ status to the new People’s Council in the first session.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực