Chương V Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015: Ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc Hội, đại biểu Hội đồng Nhân Dân
Số hiệu: | 85/2015/QH13 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Sinh Hùng |
Ngày ban hành: | 25/06/2015 | Ngày hiệu lực: | 01/09/2015 |
Ngày công báo: | 28/07/2015 | Số công báo: | Từ số 869 đến số 870 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
1. Công dân ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật này phải nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử.
2. Hồ sơ ứng cử bao gồm:
a) Đơn ứng cử;
b) Sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền;
c) Tiểu sử tóm tắt;
d) Ba ảnh chân dung màu cỡ 4cm x 6cm;
đ) Bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
3. Hội đồng bầu cử quốc gia hướng dẫn thi hành Điều này.
1. Việc nộp hồ sơ ứng cử của người ứng cử đại biểu Quốc hội được thực hiện như sau:
a) Người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương giới thiệu ứng cử nộp hai bộ hồ sơ ứng cử tại Hội đồng bầu cử quốc gia;
b) Người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế ở địa phương giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử nộp hai bộ hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử ở tỉnh nơi mình cư trú hoặc công tác thường xuyên;
c) Sau khi nhận và xem xét hồ sơ của những người ứng cử, nếu thấy hợp lệ theo quy định của Luật này thì Hội đồng bầu cử quốc gia chuyển danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của người được giới thiệu ứng cử đến Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ủy ban bầu cử ở tỉnh chuyển hồ sơ ứng cử của người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử tại địa phương đến Hội đồng bầu cử quốc gia; chuyển danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử tại địa phương đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, để đưa vào danh sách hiệp thương.
2. Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân nộp một bộ hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử ở đơn vị hành chính mà mình ứng cử. Người tự ứng cử, người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của địa phương nào thì phải là người đang cư trú hoặc công tác thường xuyên ở địa phương đó.
Sau khi nhận và xem xét hồ sơ của những người tự ứng cử, người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử, nếu thấy hợp lệ theo quy định của Luật này thì Ủy ban bầu cử chuyển danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của những người ứng cử đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp để đưa vào danh sách hiệp thương.
3. Công dân chỉ được nộp hồ sơ ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân tối đa ở hai cấp trong cùng một nhiệm kỳ; nếu nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội thì chỉ được nộp hồ sơ ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân ở một cấp.
1. Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
2. Người đang bị khởi tố bị can.
3. Người đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án.
4. Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích.
5. Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ nhất gồm Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời tham dự hội nghị này.
2. Hội nghị hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức chậm nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ nhất gồm Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và đại diện Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện trực thuộc. Đại diện Ủy ban bầu cử ở tỉnh, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự hội nghị này.
2. Hội nghị hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử ở tỉnh.
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất, chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
Trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất của Ủy ban thường vụ Quốc hội, căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương được phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội tiến hành lựa chọn, giới thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội như sau:
1. Ban lãnh đạo tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dự kiến người của tổ chức mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến cửa hội nghị cử tri, ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban thường vụ mở rộng hoặc Đoàn Chủ tịch mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
2. Ở cơ quan nhà nước, ban lãnh đạo cơ quan phối hợp với ban chấp hành, công đoàn cơ quan dự kiến người của cơ quan mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, ban lãnh đạo cơ quan tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, đại diện ban chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
3. Ở đơn vị vũ trang nhân dân, chỉ huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện ban chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
4. Việc tổ chức hội nghị cử tri quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Luật này;
5. Cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội phải chuyển biên bản hội nghị cử tri nơi công tác và biên bản hội nghị ban lãnh đạo của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình nhận xét về người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đến Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước khi hội nghị hiệp thương lần thứ hai được tổ chức.
Trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất cửa Ủy ban thường vụ Quốc hội, căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội tiến hành lựa chọn, giới thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội như sau:
1. Ban lãnh đạo tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội dự kiến người của tổ chức mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban thường vụ mở rộng để thảo luận, giới thiệu người cửa tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
2. Ban lãnh đạo cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế phối hợp với ban chấp hành công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị dự kiến người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị, đại diện ban chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
3. Ở đơn vị vũ trang nhân dân, chỉ huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện ban chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy đơn vị cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
4. Việc tổ chức hội nghị cử tri quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Luật này;
5. Cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội phải chuyển biên bản hội nghị cử tri nơi công tác và biên bản hội nghị ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị mình nhận xét về người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh trước khi hội nghị hiệp thương lần thứ hai được tổ chức.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất là 65 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở trung ương thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú. Việc tổ chức lấy ý kiến cử tri được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Luật này.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành, phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức chậm nhất là 65 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của Luật này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú; đối với người tự ứng cử thì còn được gửi lấy ý kiến cử tri nơi người đó công tác (nếu có). Việc tổ chức lấy ý kiến cử tri được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Luật này.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban bầu cử ở tỉnh.
1. Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn được tổ chức tại thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử đại biểu Quốc hội cư trú thường xuyên do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phối hợp với Ủy ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị đã giới thiệu người ứng cử được mời tham dự hội nghị này.
2. Hội nghị cử tri ở tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội do ban lãnh đạo tổ chức triệu tập và chủ trì; hội nghị cử tri ở cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phối hợp với ban chấp hành công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị triệu tập và chủ trì; hội nghị cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân là hội nghị quân nhân do lãnh, đạo, chỉ huy đơn vị triệu tập và chủ trì.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội được mời tham dự hội nghị này.
3. Tại hội nghị cử tri, cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của hội nghị.
4. Biên bản hội nghị cử tri lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Quốc hội phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị. Biên bản hội nghị cử tri tại nơi cư trú lấy ý kiến về người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu ứng cử được gửi đến Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Biên bản hội nghị cử tri lấy ý kiến về người tự ứng cử, người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu ứng cử được gửi đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh.
5. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định, chi tiết việc tổ chức hội nghị cử tri quy định tại Điều này.
1. Đối với vụ việc ở nơi công tác thì cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người ứng cử có trách nhiệm xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh.
Trường hợp người ứng cử đại biểu Quốc hội là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp có trách nhiệm xác minh và trả lời. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị không có cấp trên trực tiếp quản lý thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định, thành lập cơ quan, tổ chức, đơn vị đó có trách nhiệm xác minh và trả lời.
2. Đối với vụ việc ở khu dân cư thì cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh.
3. Đối với người tự ứng cử đại biểu Quốc hội thì Ủy ban bầu cử ở tỉnh có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người đó hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh.
4. Chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử, việc xác minh và trả lời về các vụ việc mà cử tri nêu đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội quy định tại Điều này phải được tiến hành xong.
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ hai, chậm nhất là 55 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở trung ương thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của Luật này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban bầu cử ở tỉnh.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở mỗi cấp do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức chậm nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ nhất gồm Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Ủy ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp được mời tham dự hội nghị này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở cấp tỉnh, cấp huyện thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước cùng cấp và của đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính, cấp dưới trên địa bàn.
3. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở cấp xã thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước cùng cấp và của đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, thôn, tổ dân phố trên địa bàn.
4. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp tỉnh được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận. Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp huyện, cấp xã được gửi ngay đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
1. Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất, chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
2. Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất, chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
Trên cơ sở kết quả hiệp thương lần thứ nhất và điều chỉnh của Thường trực Hội đồng nhân dân, căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã) được phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử tiến hành lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân như sau:
1. Ban lãnh đạo tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dự kiến người của tổ chức mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban thường vụ mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
2. Ban lãnh đạo cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế phối hợp với ban chấp hành công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị dự kiến người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, để giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị, đại diện ban chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
3. Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân dự kiến người của đơn vị mình để giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện ban chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
4. Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố dự kiến người của thôn, tổ dân phố để giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã và phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tổ chức hội nghị cử tri để thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở thôn, tổ dân phố do Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn;
5. Việc tổ chức hội nghị cử tri quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Luật này;
6. Cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải chuyển biên bản hội nghị cử tri nơi công tác và biên bản hội nghị lãnh đạo mở rộng của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình về việc thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương.
Ban công tác Mặt trận chuyển biên bản hội nghị cử tri ở thôn, tổ dân phố về việc thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở mỗi cấp do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức chậm nhất là 65 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ hai thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân, cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với người tự ứng cử, người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử và lấy ý kiến cử tri nơi công tác (nếu có) của người tự ứng cử, người được thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Việc tổ chức lấy ý kiến cử tri được thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Luật này.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp tỉnh được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp huyện, cấp xã được gửi ngay đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
1. Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn được tổ chức tại thôn, tổ dân phố do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Ủy ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì.
2. Hội nghị cử tri ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phối hợp với ban chấp hành công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị triệu tập và chủ trì. Hội nghị cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân là hội nghị quân nhân do lãnh đạo, chỉ huy đơn vị triệu tập và chủ trì.
3. Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố đã giới thiệu người ứng cử được mời tham dự các hội nghị này.
4. Tại hội nghị cử tri, cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người tự ứng cử, người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của hội nghị.
5. Biên bản hội nghị cử tri lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị. Biên bản hội nghị cử tri lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì gửi đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp đó để chuẩn bị cho hội nghị hiệp thương lần thứ ba.
6. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định chi tiết việc tổ chức hội nghị cử tri quy định tại Điều này.
1. Đối với vụ việc ở nơi công tác thì cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương.
Trường hợp người ứng cử là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp có trách nhiệm xác minh và trả lời. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị không có cấp trên trực tiếp quản lý thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập cơ quan, tổ chức, đơn vị đó có trách nhiệm xác minh và trả lời.
2. Đối với vụ việc ở khu dân cư thì cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương.
3. Đối với người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì Ủy ban bầu cử có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người đó hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương.
4. Chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử, việc xác minh và trả lời về các vụ việc mà cử tri nêu đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Điều này phải được tiến hành xong.
1. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở mỗi cấp do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử. Thành phần hội nghị hiệp thương lần thứ ba thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật này.
2. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân, cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử của cơ quan, tổ chức, đơn vị và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Biên bản hội nghị hiệp thương lần thứ ba phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến và kết quả hội nghị.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp tỉnh được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp huyện, cấp xã được gửi ngay đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
1. Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử, Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia biên bản hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử được Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
2. Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh gửi đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh biên bản hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội tại địa phương.
3. Căn cứ vào danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội được Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội đồng bầu cử quốc gia gửi đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh danh sách và hồ sơ những người được giới thiệu về ứng cử tại địa phương.
4. Hội đồng bầu cử quốc gia lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước theo danh sách do Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban bầu cử ở tỉnh gửi đến chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử.
5. Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quê quán, nơi thường trú, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi công tác của người ứng cử. Danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử được xếp theo vần chữ cái A, B, C...
Người ứng cử đại biểu Quốc hội chỉ được ghi tên vào danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở một đơn vị bầu cử.
6. Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
7. Chậm nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban bầu cử ở tỉnh phải công bố danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương mình theo quyết định, của Hội đồng bầu cử quốc gia.
1. Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh phải gửi biên bản hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp; Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã phải gửi biên bản hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
2. Chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban bầu cử phải lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo từng đơn vị bầu cử.
Việc lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 57 của Luật này.
3. Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó; nếu đơn vị bầu cử được bầu ba đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu ít nhất là hai người; nếu đơn vị bầu cử được bầu từ bốn đại biểu trở lên thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu ít nhất là ba người. Hội đồng bầu cử quốc gia hướng dẫn đối với trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng.
Chậm nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải niêm yết danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở khu vực bỏ phiếu.
1. Người có tên trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Hội đồng bầu cử quốc gia công bố mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị khởi tố bị can, bị bắt, giữ vì phạm tội quả tang, bị mất năng lực hành vi dân sự, chết hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật về bầu cử thì Hội đồng bầu cử quốc gia xóa tên người đó trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
2. Người có tên trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã được Ủy ban bầu cử công bố mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị khởi tố bị can, bị bắt, giữ vì phạm tội quả tang, bị mất năng lực hành vi dân sự, chết hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật về bầu cử thì Ủy ban bầu cử, sau khi thống nhất ý kiến với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, quyết định xóa tên người đó trong danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
1. Công dân có quyền tố cáo về người ứng cử, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về những sai sót trong việc lập danh sách những người ứng cử. Việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị được thực hiện như sau:
a) Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu Quốc hội, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội được gửi đến Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, Hội đồng bầu cử quốc gia. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử thì có quyền khiếu nại đến Hội đồng bầu cử quốc gia. Quyết định của Hội đồng bầu cử quốc gia là quyết định cuối cùng;
b) Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp nào thì được gửi tới Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp đó. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử thì có quyền khiếu nại đến Ủy ban bầu cử ở cấp tương ứng. Quyết định của Ủy ban bầu cử là quyết định, cuối cùng;
c) Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị nhận được theo thẩm quyền.
2. Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử ngừng việc xem xét, giải quyết mọi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử.
Trong trường hợp những khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đáp ứng đủ tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì Hội đồng bầu cử quốc gia (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội) hoặc Ủy ban bầu cử ở cấp tương ứng (đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân) quyết định xóa tên người đó trong danh sách chính thức những người ứng cử trước ngày bầu cử và thông báo cho cử tri biết.
3. Không xem xét, giải quyết đối với những đơn tố cáo không có họ, tên người tố cáo hoặc mạo danh người khác để tố cáo.
4. Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, Ủy ban bầu cử ở huyện, Ủy ban bầu cử ở xã chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đến Ủy ban thường vụ Quốc hội (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội) hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân khóa mới ở cấp tương ứng (đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân) để tiếp tục xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
CANDIDACY AND CONSULTATION, NOMINATION OF NATIONAL ASSEMBLY CANDIDATES AND PEOPLE'S COUNCIL DEPUTIES
Article 35. Candidacy dossiers and deadline for submitting candidacy dossiers
1. Citizens who stand for the National Assembly or People’s Council election as prescribed in this Law shall submit their candidacy dossiers within 70 days before the polling day.
2. A candidacy dossier includes:
a) An application for candidacy;
b) A curriculum vitae certified by the competent agency, organization or unit;
c) A summarized biography;
d) Three color photos in 4 cm x 6 cm size;
dd) An income and asset declaration prescribed in law on corruption prevention.
3. National Election Commission shall provide guidance on this Article.
Article 36. Submitting candidacy dossiers
1. Candidacy dossiers for National Assembly deputies shall be submitted as follows:
a) Every candidate nominated by the political, socio-political or social organizations, the People’s armed forces units or regulatory agencies in central governments shall submit two candidacy dossiers to National Election Commission;
b) Every candidate nominated by the political, socio-political or social organizations, the People’s armed forces units, central regulatory agencies, public service agencies or business organizations in local governments and every independent candidate shall submit two candidacy dossiers to the Election Commission of province where he/she resides or works regularly;
c) After receiving and considering the candidates’ dossiers, and seeing that they conform to the provisions of this Law, National Election Commission shall transfer the list of summarized biographies, curriculum vitae and income and asset declarations of nominated candidates to the Standing Committee of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front. The Election Committees of province shall transfer candidacy dossiers of nominated candidates and independent candidates of the province to National Election Commission; transfer the list of summarized biographies, curriculum vitae and income and asset declarations of nominated candidates and independent candidates to the Standing Board of the Fatherland Front Committee of the province or to include them into the list for consultation.
2. Each candidate for People’s Council election shall submit a candidacy dossier to the Election Commission where he/she stands for election. Each independent candidate or nominated candidate for People’s Council election of a local government is required to reside or work regularly in such local government.
After receiving and considering independent and nominated candidates’ dossiers, and seeing that they conform to the provisions of this Law, Election Commissions shall transfer the list of summarized biographies, curriculum vitae and income and asset declarations of candidates to the Standing board of Central committee of Vietnamese Fatherland Front at the same administrative level to include them into the list for consultation.
3. Each citizen is only entitled to submit candidacy dossiers on People’s Council deputy election up to two administrative levels in the same term; if the citizen has submitted a candidacy dossier on National Assembly deputy election, he/she is only entitled to submit a candidacy dossier on People’s Council deputy election in an administrative level.
Article 37. Persons not entitled to stand for the National Assembly and People’s Council election
1. The persons who are deprived of the right to stand for election under legally effective judgments or decisions of the Court, who are serving prison terms without suspended sentences, and who are limited or incapable of civil acts.
2. The persons who are being prosecuted for penal liability.
3. The persons who are serving penal sentences or decisions of the Court.
4. The persons who already served penal sentences or decisions of the Court but their criminal record have not yet been expunged.
5. The persons who are serving administrative sanctions through reform schools, detoxification centers, or who are put on administrative probation in communes.
Section 2. CONSULTATION AND NOMINATION OF NATIONAL ASSEMBLY CANDIDATES AND ADJUSTMENTS TO PROPORTION, COMPOSITION AND NUMBER OF NOMINATED NATIONAL ASSEMBLY CANDIDATES
Article 38. The first national consultative conference
1. Within 95 days before the polling day, the first national consultative conference shall be organized by the Presidium of the Central Committee of Vietnamese Fatherland Front. The first national consultative conference shall be composed of the Presidium of the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front and representatives of the leading bodies of the member organizations of the Front. The representatives of National Election Commission, Standing Committee of National Assembly and the Government shall be invited to attend this conference.
2. The consultative conference shall agree on the proportion, composition and number of the candidates nominated by the agencies, organizations and units in central government for National Assembly election on the basis of the proposition sent by Standing Committee of National Assembly.
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference and shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly and National Election Commission.
Article 39. The first provincial consultative conference
1. Within 95 days before the polling day, the first provincial consultative conference shall be organized by the Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front of each province. The first central consultative conference shall be composed of the Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front and representatives of the leading bodies of the member organizations of the Front at the same level and representatives of Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front of affiliated districts. The representatives of Election Commission of the province, Standing body of People’s Council and People's Committee of the province shall be invited to attend this conference.
2. The consultative conference shall agree on the proportion, composition and number of the candidates nominated by the agencies, organizations and units in local government for National Assembly election on the basis of the proposition sent by Standing Committee of National Assembly.
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference and shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly, National Election Commission and Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front and the Election Commission of province.
Article 40. The first Proposition of Standing Committee of the National Assembly
According to the first consultation results, not later than 90 days before the polling day, Standing Committee of the National Assembly shall make the first Proposition on the proportion, composition and number of the people of the central and local agencies, organizations and units to be elected as National Assembly deputies.
Article 41. Nomination of candidates for the National Assembly election by the central agencies, organizations and units
According to the first Proposition of Standing Committee of the National Assembly and standards applicable to National Assembly deputies, central agencies, organizations and units shall select and nominate National Assembly candidates as follows:
1. The leading body of each political organization, socio-political or social organization shall propose its people to be candidates for the National Assembly election, gather comments from the first conference of electors held in the working place(s) of such people. On the basis of these comments, the leading body of the organization shall organize a meeting of the expanded Executive Board or the expanded Presidium to discuss and nominate the people to stand for the National Assembly election;
2. The leading board of a State agency shall, in coordination with the Executive Committee of the agency’s Trade Union, propose its people to be National Assembly candidate(s), gather comments from the first conference of electors held in the working place(s) of such people. On the basis of these comments, the leading board of the agency shall organize a conference with the participation of the leading officials of the agency, the Executive Committee of the Trade Union, representatives of the leading officials of the affiliated units to discuss and nominate the agency’s candidate(s) for the National Assembly election;
3. For a unit of the People’s armed forces, its commander shall propose person(s) from the unit to be candidate(s) for the National Assembly election, gather comments from the first conference of electors held in the working place of such person(s). On the basis of these comments, the commander of the unit shall organize a conference with the participation of the leaders or commanders of the unit, the representative of the Executive Committee of the Trade Union (if any), the representatives of the soldiers of the immediate-lower commanding officers to discuss and nominate the person(s) of the unit to stand for the National Assembly election;
4. The first conference of electors mentioned in this Article shall be conducted in accordance with the provisions of Article 45 of this Law;
5. The central agencies, organizations and units that nominate candidates for the National Assembly election shall transfer the minutes of the first conference of electors and the minutes of the leading board conference to Standing board of Central committee of Vietnamese Fatherland Front before the second consultative conference is organized.
Article 42. Nomination of candidates for the National Assembly election by the local agencies, organizations and units
According to the first Proposition of Standing Committee of the National Assembly and standards applicable to National Assembly deputies, local agencies, organizations and units shall select and nominate National Assembly candidates as follows:
1. The leading body of each political organization, socio-political or social organization shall propose its people to be candidates for the National Assembly election, gather comments from the first conference of electors held in the working place(s) of such people. On the basis of these comments, the leading body of the organization shall organize a meeting of the expanded Executive Board and nominate the people to stand for the National Assembly election;
2. The leading board of a State agency, a public service provider, or a business organization shall, in coordination with the Executive Committee of the agency’s Trade Union, propose its people to be National Assembly candidate(s), gather comments from the first conference of electors held in the working place(s) of such people. On the basis of these comments, the leading board of the agency shall organize a conference with the participation of the leading officials of the agency, the Executive Committee of the Trade Union, representatives of the leading officials of the affiliated units to discuss and nominate the agency’s candidate(s) for the National Assembly election;
3. For a unit of the People’s armed forces, its commander shall propose person(s) from the unit to be candidate(s) for the National Assembly election, gather comments from the first conference of electors held in the working place of such person(s). On the basis of these comments, the commander of the unit shall organize a conference with the participation of the leaders or commanders of the unit, the representative of the Executive Committee of the Trade Union (if any), the representatives of the soldiers of the immediate-lower commanding officers to discuss and nominate the person(s) of the unit to stand for the National Assembly election;
4. The first conference of electors mentioned in this Article shall be conducted in accordance with the provisions of Article 45 of this Law;
5. The central agencies, organizations and units that nominate candidates for the National Assembly election shall transfer the minutes of the first conference of electors and the minutes of the leading board conference to Standing board of Central committee of Vietnamese Fatherland Front before the second consultative conference is organized.
Article 43. The second national consultative conference
1. Within 65 days before the polling day, the second national consultative conference shall be organized by the Presidium of the Central Committee of Vietnamese Fatherland Front. The composition of the second consultative conference shall comply with Clause 1 Article 38 of this Law.
2. The second consultative conference shall, on the basis of the standards applicable to the National Assembly deputies, the proportion, composition and number of deputies to be elected from the central agencies, organizations and units as proposed in the first Proposition by Standing Committee of the National Assembly, draw up a preliminary list of candidates for the National Assembly election and distribute it to the electors in the places of residence of the candidates for their comments. The conference of electors mentioned in this Article shall be conducted in accordance with the provisions of Article 45 of this Law.
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference and shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly and National Election Commission.
Article 44. The second provincial consultative conference
1. Within 65 days before the polling day, the second provincial consultative conference shall be organized by the Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front of the province. The composition of the second provincial consultative conference shall comply with Clause 1 Article 39 of this Law.
2. The second consultative conference shall, on the basis of the standards applicable to the National Assembly deputies, the proportion, composition and number of deputies to be elected from the central agencies, organizations and units as proposed in the first Proposition by Standing Committee of the National Assembly, draw up a preliminary list of candidates for the National Assembly election and distribute it to the electors in the places of residence of the candidates for their comments; for independent candidates (if any), comments shall be also collected from electors in their working place(s). The conference of electors mentioned in this Article shall be conducted in accordance with the provisions of Article 45 of this Law;
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference and shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly, National Election Commission and Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front and the Election Commission of the province.
Article 45. The first conference of electors
1. The first conference of electors in a commune organized in each village, where National Assembly candidate(s) permanently resides, shall be convened and chaired jointly by the Standing Board of the Fatherland Front Committee of such village and the People’s Committee at the same administrative level.
The National Assembly candidates, representatives of their agencies, organizations and units shall be invited to attend this conference.
2. The first conference of electors in a political, socio-political or social organization shall be convened and chaired by its leading board; the first conference of electors in a State agency shall be convened and chaired jointly by the leading board and the Executive Committee of the Trade Union of the agency; The conference of electors in a People’s armed force unit is the conference of the military personnel convened and chaired by the commander of the unit.
The National Assembly candidates shall be invited to attend this conference.
3. At the first conferences, the electors shall make their comments on the basis of the standards applicable to National Assembly deputies and make a vote of confidence for the candidates by either a show of hands or secret ballots under the decision of the conference.
4. The minutes of the first conference of electors to collect comments on National Assembly candidates must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference. The minutes of the first conference of electors to collect comments on the persons nominated by central agencies, organizations and units shall be sent to the Standing Board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front. The minutes of the first conference of electors to collect comments on the persons nominated by local agencies, organizations, and units and on the independent candidates shall be sent to the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the province.
5. Standing Committee of the National Assembly shall provide guidance on organization of the first conference of electors prescribed in this Article.
Article 46. Verifying and answering the electors’ questions relating to the candidates for the National Assembly election
1. For the questions relating to the candidate’s working place, the agency, organization or unit directly managing the candidate shall be responsible for verifying and making a written reply to the Standing Board of Central Committee of Vietnamese fatherland Front, the Standing Board of the Vietnamese Fatherland Front Committee of the province.
If the candidate is the head of the agency, organization or unit, the superior agency shall be responsible for verifying and making a reply. If the agency, organization or unit does not have any superior managing agency, the agency competent to decide the establishment of such agency, organization or unit shall be responsible for verifying and making a reply.
2. For the questions relating to the candidate’s residential area, the agency, organization or unit nominating the candidate shall, in coordination with the People’s Committee of the commune, verify and make a written reply to the Standing Board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front and the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the province.
3. For an independent candidate, the Election Committee shall, in coordination with the agency, organization or unit directly managing such candidate or the People’s Committee of the commune where he/she resides, verify and make a written reply to the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the province.
4. Not later than 40 days before the polling day, the verification and reply to the electors’ questions relating to the National Assembly candidates prescribed in this Article must be completed.
Article 47. The second Proposition of Standing Committee of the National Assembly
According to the second consultation results, not later than 55 days before the polling day, Standing Committee of the National Assembly shall make the second Proposition on the proportion, composition and number of the people of the central and local agencies, organizations and units to be elected as National Assembly deputies.
Article 48. The third national consultative conference
1. Within 35 days before the polling day, the third central consultative conference shall be organized by the Presidium of the Central Committee of Vietnamese Fatherland Front. The composition of the third consultative conference shall comply with Clause 1 Article 38 of this Law.
2. The third consultative conference shall, on the basis of the standards applicable to the National Assembly deputies, the proportion, composition and number of deputies to be elected from the central agencies, organizations and units as proposed in the second Proposition by Standing Committee of the National Assembly and the electors’ comments to select, draw up a preliminary list of candidates for the National Assembly election.
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference and shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly and National Election Commission.
Article 49. The third provincial consultative conference
1. Within 35 days before the polling day, the third provincial consultative conference shall be organized by the Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee of province. The composition of the third provincial consultative conference shall comply with Clause 1 Article 39 of this Law.
2. The third consultative conference shall, on the basis of the standards applicable to the National Assembly deputies, the proportion, composition and number of deputies to be elected from the central agencies, organizations and units as proposed in the second Proposition by Standing Committee of the National Assembly and the electors’ comments to select, draw up a preliminary list of candidates for the National Assembly election.
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference and shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly, National Election Commission and Standing board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front and the Election Commission of the province.
Section 3. CONSULTATION AND NOMINATION OF PEOPLE’S COUNCIL CANDIDATES AND ADJUSTMENT TO PROPORTION, COMPOSITION AND NUMBER OF NOMINATED PEOPLE’S COUNCIL CANDIDATES
Article 50. The first consultative conference
1. Within 95 days before the polling day, the first consultative conference at each administrative level shall be organized by the Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level. The first consultative conference shall be composed of the Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee, and representatives of the leading boards of the member organizations of the Front. The representatives of Election Commission, Standing body of People’s Council and People's Committee at the same administrative level shall be invited to attend this conference.
2. The first consultative conference of a province or a district shall agree on the proportion, composition and number of the People’s Council candidates nominated by the political organizations, socio-political organizations, social organizations, people's armed units, and State agencies at the same administrative level and public service providers, business organizations, and inferior administrative units in the administrative division.
3. The first consultative conference of a commune shall agree on the proportion, composition and number of the People’s Council candidates nominated by the political organizations, socio-political organizations, social organizations, people's armed units, and State agencies at the same administrative level and public service providers, business organizations, and villages in the administrative division.
4. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference.
The minutes of the consultative conference of the province shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly and National Election Commission, the Government, Central committee of Vietnamese Fatherland Front and Standing board of People’s Council, and Election Commission at the same administrative level.
The minutes of the consultative conference of the district and commune shall be immediately sent to Standing board of People’s Council, People’s Committee, Vietnamese Fatherland Front Committee of superior authority and Standing board of People’s Council and Election Commission at the same administrative level.
Article 51. Adjusting proportion, composition and number of People’s Council candidates by the Standing board of People’s Council
1. According to the first consultation results, not later than 90 days before the polling day, Standing board of People’s Council of province and district shall make a Proposition on the proportion, composition and number of the people of the local agencies, organizations and units to be elected as People’s Council deputies.
2. According to the first consultation results, not later than 90 days before the polling day, Standing board of People’s Council of the commune shall make a Proposition on the proportion, composition and number of the people of the local agencies, organizations, units and villages to be elected as People’s Council deputies.
Article 52. Nomination of candidates for the People’s Council election by the local agencies, organizations and units
According to the first consultation results and the Proposition of Standing board of People’s Council and standards applicable to People’s Council deputies, local agencies, organizations and units and villages (for commune level) shall select and nominate People’s Council candidates as follows:
1. The leading body of each political organization, socio-political or social organization shall propose its people to be candidates for the People’s Council election, gather comments from the first conference of electors held in the working place(s) of such people. On the basis of these comments, the leading body of the organization shall organize a meeting of the expanded Executive Board and nominate the people to stand for the People’s Council election;
2. The leading board of a State agency, a public service provider, or a business organization shall, in coordination with the Executive Committee of the agency’s Trade Union, propose its people to be People’s Council candidate(s), gather comments from the first conference of electors held in the working place(s) of such people. On the basis of these comments, the leading board of the agency shall organize a conference with the participation of the leading officials of the agency, the Executive Committee of the Trade Union, representatives of the leading officials of the affiliated units to discuss and nominate the agency’s candidate(s) for the People’s Council election;
3. For a unit of the People’s armed forces, its commander shall propose person(s) from the unit to be candidate(s) for the People’s Council election, gather comments from the first conference of electors held in the working place of such person(s). On the basis of these comments, the commander of the unit shall organize a conference with the participation of the leaders or commanders of the unit, the representative of the Executive Committee of the Trade Union (if any), the representatives of the soldiers of the immediate-lower commanding officers to discuss and nominate the person(s) of the unit to stand for the People’s Council election;
4. The Front board in a village shall, in coordination with the Head of the village, propose its people to be People’s Council candidate(s) of the commune, and organize the first conference to discuss and nominate the person(s) to stand for the People’s Council election of the commune.
The nomination of People’s Council candidates of communes in villages shall by prescribed by Standing committee of the National Assembly;
5. The first conference of electors mentioned in this Article shall be conducted in accordance with the provisions of Article 54 of this Law;
6. The central agencies, organizations and units that nominate candidates for the People’s Council election shall transfer the minutes of the first conference of electors and the minutes of the extended conference to Standing board of Central committee of Vietnamese Fatherland Front at the same administrative level.
The Front board shall transfer the minutes of the first conference of electors in village related to discussion and nomination of People’s Council candidates of the commune to the Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the commune.
Article 53. The second consultative conference
Within 65 days before the polling day, the second provincial consultative conference at each administrative level shall be organized by the Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level. The composition of the second consultative conference shall comply with Clause 1 Article 50 of this Law.
2. The second consultative conference shall, on the basis of the standards applicable to the People’s Council deputies, the proportion, composition and number of nominated candidates, draw up a preliminary list of candidates for the People’s Council election and distribute it to the electors in the places of residence and the working place(s) of the nominated and independent candidates for their comments. The conference of electors mentioned in this Article shall be conducted in accordance with the provisions of Article 54 of this Law;
3. The minutes of the consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference.
The minutes of the consultative conference of the province shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly, National Election Commission, the Government, Central committee of Vietnamese Fatherland Front and Standing board of People’s Council and Election Commission at the same administrative level.
The minutes of the consultative conference of the district and commune shall be immediately sent to Standing board of People’s Council, People’s Committee, Vietnamese Fatherland Front Committee of superior authority and Standing board of People’s Council and Election Commission at the same administrative level.
Article 54. The first conference of electors
1. The first conference of electors in a commune organized in each village shall be convened and chaired jointly by the Standing Board of the Vietnamese Fatherland Front Committee of such village and the People’s Committee at the same administrative level.
2. The first conference of electors in a political, socio-political or social organization, business organization or public service provider shall be convened and chaired jointly by the Executive Committee of the Trade Union of the agency. The first conference of electors in a People’s armed force unit is the conference of the military personnel convened and chaired by the commander of the unit.
3. The People’s Council candidates, representatives of their agencies, organizations units and the village shall be invited to attend this conference.
4. At the first conferences, the electors shall make their comments on the basis of the standards applicable to People’s Council deputies and make a vote of confidence for the candidates by either a show of hands or secret ballots under the decision of the conference.
5. The minutes of the first conference of electors to collect comments on People’s Council candidates must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference. The minutes of the first conference of electors to collect comments on People’s Council candidates shall be sent to Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level for the third consultative conference.
6. Standing Committee of the National Assembly shall provide guidance on organization of the first conference of electors prescribed in this Article.
Article 55. Verifying and answering the electors’ questions relating to the candidates for the People’s Council election
1. For the questions relating to the candidate’s working place, the agency, organization or unit directly managing the candidate shall be responsible for verifying and making a written reply to the Standing Board of Vietnamese fatherland Front Committee at the same administrative level.
If the candidate is the head of the agency, organization or unit, the superior agency shall be responsible for verifying and making a reply. If the agency, organization or unit does not have any superior managing agency, the agency competent to decide the establishment of such agency, organization or unit shall be responsible for verifying and making a reply.
2. For the questions relating to the candidate’s working place, the agency, organization or unit directly managing the candidate shall, in coordination with the People’s Committee of the commune, be responsible for verifying and making a written reply to the Standing Board of Vietnamese fatherland Front Committee at the same administrative level.
3. For an independent candidate, the Election Commission shall, in coordination with the agency, organization or unit directly managing such candidate or the People’s Committee of the commune where he/she resides, verify and make a written reply to the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of at the same administrative level.
4. Not later than 40 days before the polling day, the verification and reply to the electors’ questions relating to the candidates for People’s Council election prescribed in this Article must be completed.
Article 56. The third consultative conference
1. Within 35 days before the polling day, the third provincial consultative conference at each level shall be organized by the Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level. The composition of the third consultative conference shall comply with Clause 1 Article 50 of this Law.
2. The third consultative conference shall, on the basis of the standards applicable to the People’s Council deputies, the proportion, composition and number of nominated candidates and electors’ comments, draw up a preliminary list of candidates for the People’s Council election.
3. The minutes of the third consultative conference must clearly state the composition and number of the participants, the process and results of this conference.
The minutes of the consultative conference of the province shall be immediately sent to Standing Committee of National Assembly, National Election Commission, the Government, Central committee of Vietnamese Fatherland Front and Standing board of People’s Council and Election Commission at the same administrative level.
The minutes of the consultative conference of the district and commune shall be immediately sent to Standing board of People’s Council, People’s Committee, Vietnamese Fatherland Front Committee of superior authority and Standing board of People’s Council and Election Commission at the same administrative level.
Article 57. List of candidates for the National Assembly election
1. Within 30 days before the polling day, the Standing Board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front shall send to the Election Council the minutes of the third consultative conference and the list of qualified National Assembly candidates nominated by the Presidium of the Central Committee of Vietnamese Fatherland Front.
2. Within 30 days before the polling day, the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of a province shall send to the Election Committee of province the minutes of the third consultative conference and the list of qualified National Assembly candidates nominated by the Fatherland Front Committee of such province.
3. According to the list of qualified candidates nominated by the Presidium of the Central Committee of Vietnamese Fatherland Front, National Election Commission shall send to each Election Committee of province a list of nominated candidates in such province.
4. Within 25 days before the polling day, National Election Commission shall draw up and announce the list of candidates for each constituency in the whole country according to the list sent by the Standing Board of Central Committee of Vietnamese Fatherland Front and the Election Commissions.
5. The official list of candidates must clearly state their full names, dates of birth, gender, native places, places of permanent residence, race, religions, educational level, specialty, profession, working position and places. The candidates’ names shall be arranged in the alphabetical order.
Each candidate shall only have his/her name included in the list of National Assembly candidates of one constituency.
6. The number of National Assembly candidates in the list for each constituency must be at least two people greater than the number of deputies to be elected therein. If there is any vacancy of a National Assembly candidate in a constituency due to force majeure event, National Election Commission shall consider making decision.
7. Within 20 days before the polling day, Election Commission of the province shall announce the list of National Assembly candidates in such province as decided by National Election Commission.
Article 58. List of candidates for the People’s Council election
1. Within 30 days before the polling day, the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the province shall send the minutes of the third consultative conference and the list of qualified People’s Council candidates to National Election Commission, Standing committee of the National Assembly, the Government, Central Commission of Vietnamese Fatherland Front and Standing board of People’s Council and Election Commission at the same administrative level; the Standing Board of Vietnamese Fatherland Front Committee of the district or commune shall send the minutes of the third consultative conference and the list of qualified People’s Council candidates to Standing board of superior People’s Council, People’s Committee, Vietnamese Fatherland Front Committee and Standing board of People’s Council, Election Commission at the same administrative level.
2. Within 25 days before the polling day, Election Commission shall draw up and announce the official list of People’s Council candidates for each constituency.
The official list of People’s Council candidates shall be drawn up as prescribed in Clause 5 Article 57 of this Law.
3. The number of National Assembly candidates in the list for each constituency must be greater than the number of deputies to be elected therein; if the constituency has three deputies to be elected, the number of candidates in the list must be at least two people greater than the number of deputies to be elected therein; if the constituency has at least four deputies to be elected, the number of candidates in the list must be at least three people greater than the number of deputies to be elected therein. If there is any vacancy of a People’s Council candidate in a constituency due to force majeure event, National Election Commission shall provide guidance.
Article 59. Posting the list of candidates
Within 20 days before the polling day, each Election Team must post the official list of National Assembly and People’s Council candidates in the polling station.
Article 60. Crossing out the candidates’ names from the lists of National Assembly and People’s Council candidates
1. If any person, who has his/her name included in the official list of National Assembly candidates announced by National Election Commission, is prosecuted for penal liability, arrested for offenses with evidence, incapable of civil acts, dies, or commit serious violations against law on voting before the voting time, National Election Commission shall cross their name from the list of National Assembly candidates.
2. If any person, who has his/her name included in the official list of People’s Council candidates announced by the Election Commission, is prosecuted for penal liability, arrested for offenses with evidence, incapable of civil acts, dies, or commit serious violations against law on voting before the voting time, National Election Commission and Standing board of Vietnamese Fatherland Front Committee at the same administrative level shall jointly cross their name from the list of People’s Council candidates.
Article 61. Complaints and denunciations of candidates and lists of candidates
1. Every citizen is entitled to lodge denunciations of candidates, make complaints, denunciations or petitions against errors in the listings of candidates. The complaints, denunciations or petitions shall be lodged as follows:
a) The complaints, denunciations or petitions related to National Assembly candidates, listings of National Assembly candidates shall be sent to Election Boards of National Assembly deputies, Election Commissions of provinces and National Election Commission. If the complainant, denouncer or petitioner disagrees with the settlement by the Election Board or the Election Commission, he/she shall be entitled to lodge a complaint to National Election Commission. The decision of National Election Commission shall be the final decision;
b) The complaints, denunciations or petitions related to People’s Council candidates, listings of People’s Council candidates shall be sent to Election Boards of People’s Council deputies at the same administrative level. If the complainant, denouncer or petitioner disagrees with the settlement by the Election Board, he/she shall be entitled to lodge a complaint to the Election Commission at the same administrative level. The decision of the Election Commission shall be the final decision;
c) The Election Board, the Election Commission or the National Election Commission shall keep record and settle such complaints, denunciations and petitions according to their competence.
2. Within 10 days before the polling day, National Election Commission, Election Commissions and the Election Boards shall stop considering and settling all complaints, denunciations and petitions relating to the candidates and the listings of candidates.
If a complaint or denunciations has obvious evidence to conclude that a candidate does not satisfy standards applicable to the National Assembly or People’s Council deputy, National Election Commission (for National Assembly election) or Election Commission at the equivalent administrative level (for People’s Council election) shall decide to cross out the candidate’s name from the official list of candidates before the polling day and send notification to electors.
3. Any letter of denunciations without the denouncer’s full name or under impersonation shall not be settled.
4. National Election Commission, Election Commissions of provinces, districts and communes shall transfer all documents on complaints and denunciations without settlement to Standing Committee of the National Assembly (for National Assembly election) or Standing boards of new People’s Councils at the same administrative level (for People’s Council election) for continuous settlement within their competence.
Văn bản liên quan
Cập nhật
Điều 18. Mối quan hệ công tác của Hội đồng bầu cử quốc gia
Điều 43. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở trung ương
Điều 44. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Điều 46. Xác minh và trả lời các vụ việc mà cử tri nêu đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội
Điền 47. Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai
Điều 48. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở trung ương
Điều 49. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương