Chương X Bộ luật hình sự 1999: Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội
Số hiệu: | 15/1999/QH10 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 21/12/1999 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2000 |
Ngày công báo: | 29/02/2000 | Số công báo: | Số 8 |
Lĩnh vực: | Trách nhiệm hình sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2018 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.
1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
b) Đưa vào trường giáo dưỡng.
2. Toà án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Toà án giao trách nhiệm.
3. Toà án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
4. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Toà án quyết định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Toà án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng.
Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo;
2. Phạt tiền;
3. Cải tạo không giam giữ;
4. Tù có thời hạn.
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.
Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;
2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.
1. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
2. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
PROVISIONS APPLICABLE TO JUVENILE OFFENDERS
Article 68.- Application of the Penal Code to juvenile offenders
Juvenile offenders are offenders who are aged between full 14 years and under 18 years. They shall bear penal liability under the provisions of this Chapter as well as the provisions of the General Part of this Code which are not contrary to the provisions of this Chapter.
Article 69.- Principles for handling juvenile offenders
1. The handling of juvenile offenders aims mainly to educate and help them redress their wrongs, develop healthily and become citizens useful to society.
In all cases of investigation, prosecution and adjudication of criminal acts committed by juveniles, the competent State agencies shall have to determine their capability of being aware of the danger to society of their criminal acts and the causes and conditions relating to such criminal acts.
2. Juvenile offenders may be exempt from penal liability if they commit less serious crimes or serious crimes which cause no great harm and involve many extenuating circumstances and they are received for supervision and education by their families, agencies or organizations.
3. The penal liability examination and imposition of penalties on juvenile offenders shall only apply to cases of necessity and must be based on the nature of their criminal acts, their personal characteristics and crime prevention requirements.
4. The courts, if deeming it unnecessary to impose penalties on juvenile offenders, shall apply one of the judicial measures prescribed in Article 70 of this Code.
5. Life imprisonment or the death sentence shall not be imposed on juvenile offenders. When handing down sentences of termed imprisonment, the courts shall impose on them lighter sentences than those imposed on adult offenders of the corresponding crimes.
Pecuniary punishment shall not apply to juvenile offenders who are from full 14 to under 16 years old.
Additional penalties shall not apply to juvenile offenders.
6. The judgement imposed on juvenile offenders aged under 16 years shall not be taken into account for determining recidivism or dangerous recidivism.
Article 70.- Judicial measures applicable to juvenile offenders
1. In the case of juvenile offenders, the courts may decide the application of one of the following judicial measures of educative and preventive character:
a) Education at communes, wards or district towns;
b) Sending them to reformatory schools.
2. The courts may apply the commune/ward/district town-based education measure for between one and two years to juvenile offenders of less serious crimes or serious crimes.
Persons placed under the commune/ward/district town-based education must fulfill their obligations on study and labor, abide by laws under the supervision of and education by the local commune/ward/district town administration or social organizations assigned such responsibility by the courts.
3. The court may apply the measure of sending juvenile offenders to reformatory schools for between one and two years if it is deemed that due to the seriousness of their offenses, their personal identification and living environment, such persons should be sent to reeducation organizations with strict disciplines.
4. If persons subject to education at communes, wards or district towns or persons sent to reformatory schools have already served half of the term decided by the courts and made good progress, the courts, at the proposal of the agencies, organizations or schools assigned the responsibility of supervising and educating them, may decide the termination of the duration of education at communes, wards, district towns or the duration at reformatory schools.
Article 71.- Penalties applicable to juvenile offenders
The juvenile offenders shall be subject to one of the following penalties for each offense:
1. Warning;
2. Fine;
3. Non-custodial reform;
4. Termed imprisonment.
Fine shall be applied as a principal penalty to juvenile offenders aged full 16 years and under 18 years, if such persons have income or private property.
The fine levels applicable to juvenile offenders shall not exceed half of the fine level prescribed by the relevant law provision.
Article 73.- Non-custodial reform
When applying non-custodial reform to juvenile offenders, the income of such persons shall not be deducted.
The non-custodial reform duration for juvenile offenders shall not exceed the term prescribed by the relevant law provision.
Article 74.- Termed imprisonment
The juvenile offenders shall be penalized with termed imprisonment according to the following regulations:
1. For persons aged between full 16 and under 18 when they committed crimes, if the applicable law provisions stipulate life imprisonment or the death sentence, the highest applicable penalty shall not exceed eighteen years of imprisonment; if it is termed imprisonment, the highest applicable penalty shall not exceed three quarters of the prison term prescribed by the law provision;
2. For persons aged full 14 to under 16 when committing crimes, if the applicable law provisions stipulate the life imprisonment or death sentence, the highest applicable penalty shall not exceed twelve years; if it is the termed imprisonment, the highest applicable penalty shall not exceed half of the prison term prescribed by the law provision.
Article 75.- Augmentation of penalties in cases of committing multiple crimes
For a person who commits more than one crime, of which some were committed before he/she reaches the age of 18, penalty augmentation shall apply as follows:
1. If the most serious crime is committed before he/she reaches the age of 18 years, the common penalty shall not exceed the highest level prescribed in Article 74 of this Code;
2. If the most serious crime is committed when such person has reached the age of 18 years, the common penalty shall be the same as that applicable to adult offenders.
Article 76.- Reduction of penalties already declared
1. If juvenile offenders, who are subject to non-custodial reform or imprisonment, have made good progress and already served one-quarter of their term, they shall be considered by the court for penalty reduction; particularly for imprisonment, their penalty can be reduced each time by four years but only if they have already served two-fifths of the declared penalty term.
2. If juvenile offenders, who are subject to non-custodial reform or imprisonment, have recorded achievements or suffered from dangerous illnesses, they shall be immediately considered for penalty reduction and may be exempt from serving the remainder of their penalty.
3. For juvenile offenders who are subject to pecuniary penalty but fall into prolonged economic difficulties due to natural calamities, fires, accidents or ailments or who have recorded great achievements, the courts, at the proposal of the directors of the procuracies, may decide to reduce or exempt them from the remainder of the pecuniary penalty.
Article 77.- Remission of criminal records
1. The time limit for criminal record remission for juvenile offenders shall be half of the time limits prescribed in Article 64 of this Code.
2. Juvenile offenders subject to judicial measures stipulated in Clause 1, Article 70 of this Code, shall be considered as having no criminal records.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực