Một thời đại trong thi ca - Tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 - Cánh diều

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Một thời đại trong thi ca Ngữ văn lớp 11 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 3,617 17/09/2024


Tác giả tác phẩm: Một thời đại trong thi ca - Ngữ văn 11

I. Tác giả Hoài Thanh

Một thời đại trong thi ca - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

- Hoài Thanh (1909 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.

- Quê ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.

- Các tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950)…

- Phong cách phê bình:

+ Là nhà lý luận phê bình xuất sắc của nền Văn học Việt Nam hiện đại: “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”

+ Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế gần gũi và giàu cảm xúc, hình ảnh. Có sự kết hợp giữa tính khoa học với tính văn chương logic, độc đáo.

- Năm 2000 ông được nhận giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

II. Tìm hiểu tác phẩm Một thời đại trong thi ca

1. Thể loại

- Văn bản thuộc thể loại: văn bản nghị luận.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời

- Tiểu luận mở đầu "Thi nhân Việt Nam"

=> Sự khám phá và đánh giá đầu tiên; là công trình tổng kết có giá trị về phong trào thơ mới.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: nghị luận.

4. Bố cục văn bản Một thời đại trong thi ca

- Mở bài: Khẳng định sự phong phú và sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ

- Thân bài: Xác định tinh thần thơ mới là ở chữ "tôi" cá nhân, cái "tôi" nhiều bi kịch.

- Kết bài: Cách giải tỏa bi kịch của các nhà thơ lãng mạn

5. Tóm tắt Một thời đại trong thi ca

Trong tiểu luận này, Hoài Thanh đã nêu một vấn đề quan trọng là đi tìm tinh thần thơ Mới. Tác giả đã đưa ra nguyên tắc nhận diện tinh thần thơ Mới: Không căn cứ vào cục bộ và bài dở, phải căn cứ vào đại thể và bài hay. Xác định tinh thần thơ Mới là chữ “tôi” trong thơ Mới đối lập với chữ “ta” trong thơ cũ và cho thấy bi kịch của cái Tôi trong thơ Mới. Cuối cùng chỉ ra sự vận động của cái “tôi” và việc giải quyết bi kịch thời đại của nó bằng cách gửi cả vào tình yêu tiếng Việt.

6. Giá trị nội dung

- Nhận thức tinh tế, sâu sắc về tinh thần thơ mới, động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

7. Giá trị nghệ thuật

- Tính khoa học:

+ Cách lập luận chặt chẽ, từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến nay, từ xa đến gần. Điều này đã được phản ánh tư duy khoa học, sự am hiểu thấu đáo đối tượng phân tích của tác giả.

+ Luôn gắn những nhận định khái quát với luận cứ cụ thể, đa dạng, có sức thuyết phục; có sự so sánh giữa thơ mới với thơ cũ;

- Tính nghệ thuật: cách dẫn dắt ý theo mạch cảm xúc tinh tế, uyển chuyển và bằng ngôn ngữ hình ảnh, nhịp điệu.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Một thời đại trong thi ca

1. Nhan đề " Một thời đại trong thi ca":

Nhan đề đã thể hiện nhận định khái quát của tác giả về phong trào Thơ mới – một giai đoạn phát triển rực rỡ của thi ca với sự xuất hiện của nhiều nhà thơ nổi tiếng, nhiều phong cách sáng tác, nhiều nội dung phong phú. Đây xứng đáng là một thời đại trong thi ca.

Một thời đại trong thi ca - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

2. Phần 1

Khẳng định sự phong phú và sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ

Trong phần (1), để thuyết phục người đọc về sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ, tác giả đã lập luận bằng thao tác so sánh: đầu tiên, tác giả đưa ra tiêu chí so sánh (thời đại với thời đại), rồi chứng minh sự vượt trội của phong trào Thơ mới so với thơ cũ bằng việc dẫn ra bằng chứng về sự phong phú và đặc sắc của nhiều cá tính sáng tạo.

3. Phần 2

a. Căn cứ xác định tinh thần thơ mới.

*. Khó khăn:

-Tác giả trích dẫn chứng của hai nhà thơ cũ và mới tiêu biểu rồi đi đến chỉ ra sự khó khăn trong việc xác định thơ mới và thơ cũ.

- Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra: “hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”.

- Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở: Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào.

=> Bằng những câu văn giả định, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn trong việc xác định thơ mới mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.

*. Căn cứ để xác định tinh thần thơ mới

+ Căn cứ vào cái tiêu biểu: “so sánh bài hay với bài hay vậy” (cái dở khong đủ tư cách để đại diện)

+ Căn cứ vào cái “đại thể”, không nhìn vào cái tiểu tiết: “không nhìn vào cái lố lăng, tầm thường”

=> Tác giả sử dụng nghệ thuật lập luận quy nạp, theo logic chặt chẽ (đưa ra dẫn chứng và giả định- đi đến kết luận thuyết phục).

b. Tinh thần thơ mới:

- Nhận định táo bạo về thơ cũ và thơ mới:

+ thơ cũ chính là “cái ta” (ngày trước là thời chữ ta)

+ thơ mới chính là “cái tôi” (bây giờ là thời chữ tôi)

- Tinh thần thơ mới: Chữ tôi. Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó.

- Cách hiểu về chữ tôi: So sánh:

Tiêu chí

Thời xưa-thơ cũ chữ "Ta"

Thời nay-thơ mới chữ "tôi"

Giống nhau

Giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ "tôi" vẫn giống chữ "ta".

Khác nhau

+ Không có cá nhân chỉ có đoàn thể, lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.

+ Quan niệm cá nhân, gắn liền với cá nhân, cá thể của bản thân.

+ Không tự xưng hoặc ẩn mình sau chữ ta.

+ Thảng hoặc họăc cũng ghi hình ảnh họ...thảng trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi...Song.. không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay – thì cũng thế - với tất cả mọi người.

+ Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện một cách đường hoàng độc lập.

(không phụ thuộc vào người khác)

Nhận xét:

+ Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc. Thơ mới là tiếng nói của cái Tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.

+ Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều:

- Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.

- Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.

Chính vì đề cao giải phóng cái tôi nên thơ mới có sự xuất hiện của nhiều phong cách nghệ thuật riêng biệt, làm nên sự phong phú của cả nền thơ.

c. Hành trình vận động của cái tôi thơ mới:

- Ban đầu: Nó thực bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách =>khó chịu, ác cảm

- Sau này: Nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!=> quen dần và thương cảm.

=> Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để xem xét. Giọng điệu giàu cảm xúc.

4. Phần 3: Bi kịch cái tôi thơ mới

- Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì:

+ Mất cốt cách hiên ngang thưở trước

+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch: “càng đi sâu càng lạnh”.

=> Cách trình bày Có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn), lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.

- Nguyên nhân: Hoàn cảnh lịch sử:

+ Bi kịch của người thanh niên thời ấy: Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới). Đó là nỗi niềm của người thanh niên mất nước, không có điểm tựa, niềm tin trong cuộc đời.

- Con đường giải quyết bi kịch:

+ Họ Gửi cả vào tiếng việt.

+ Bởi vì:

Tiếng Việt là văn hóa, tiếng nói của dân tộc Việt Nam: là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.

Họ tin vào các giá trị vĩnh hằng trong cội nguồn dân tộc: thể thơ, ngôn ngữ (vì họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai).

Nhận xét: Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. Bởi họ tin rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn

IV. Đọc tác phẩm Một thời đại trong thi ca

[...] Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới.

Giá các nhà thơ mới cứ viết những câu như hai câu vừa trích trên này thì tiện cho ta biết mấy. Nhưng chính Xuân Diệu còn viết:

Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.

Với một nhà thơ cũ tả cảnh thu lại có những câu nhí nhảnh và lả tơi:

Ô hay! Cánh cũng ưa người nhỉ!
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?

Giá trong thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy. Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy.

Âu là ta đành phải nhận rằng trời đất không phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi phai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể.

Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nói giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau.

Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay – thì cũng thế - với tất cả mọi người. Mỗi khi nhìn vào tâm hồn họ hay đứng trước loài người mênh mông, hoặc họ không tự xưng, hoặc họ ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người. Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn. Chẳng trách gì tác phẩm họ vừa ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ. Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.

Bởi vậy cho nên, khi chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!

Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!

Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lý Thái Bạch, trong trời đất chỉ biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng không có nữa:

Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ

Không biết trong khi rên rỉ như thế Xuân Diệu có nghĩ đến Nguyễn Công Trứ, một người đồng quận, chẳng những đã đùa cảnh nghèo mà còn lấy cảnh nghèo làm vui.

Nhưng ta trách gì Xuân Diệu! Xuân Diệu, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại, chỉ nói cái khổ sở, cái thảm hại của hết thảy chúng ta.

Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.

Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.

Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước.

Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khi bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phú trên thi tử. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.

Đó, tất cả cái bi kịch đương diễn ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên.

Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng.

Chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”.

Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.

Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

V. Sơ đồ tư duy Một thời đại trong thi ca

Một thời đại trong thi ca - Tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 - Cánh diều (ảnh 1)

1 3,617 17/09/2024


Xem thêm các chương trình khác: