TOP 6 mẫu Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (2024) SIÊU HAY
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu lớp 10 Chân trời sáng tạo gồm dàn ý và 6 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 10 hay hơn.
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu
Đề bài: Viết bài văn phân tích, đánh giá tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Sang thu (Hữu Thỉnh).
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (mẫu 1)
Mùa thu, mùa của sự lãng mạn. Nó gợi lên cho con người biết bao nhiêu cảm xúc dâng trào. Chẳng khó có thể lý giải lý do vì sao mà có nhiều bài thơ hay viết về mùa thu đến vậy. Vẻ đẹp của mùa thu chắc hẳn bất cứ ai cũng có thể nhìn ra. Nhưng cái khoảnh khắc sang thu có lẽ phải nhờ đến tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ mới có thể cảm nhận được. Bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh đã chỉ ra cho người đọc cái nhìn đầy tinh tế về sự chuyển giao giữa mùa hạ sang mùa thu.
Bài thơ được tác giả viết theo thể thơ 5 chữ. Toàn bộ bài cũng chỉ có 3 khổ, ngắn gọn nhưng súc tích. Bài thơ không chỉ vẽ lên được được cảnh đẹp của giây phút chuyển mùa mà còn thể hiện được tâm trạng và cảm xúc của tác giả trước cảnh đẹp thiên nhiên. Mở đầu bài thơ Hữu Thỉnh viết:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Khác với thơ xưa khi miêu tả mùa thu thường nhắc đến màu vàng của lá với hình ảnh lá rụng mùa thu. Ở thơ Hữu Thỉnh, ông cảm nhận mùa thu qua nhiều giác quan khác nhau. Đó là khứu giác, là xúc giác, là thị giác và là tri giác. Mùa thu trong Hữu Thỉnh đến từ mùi hương của những bông hoa ổi và những quả ổi chín vàng ươm. Mùa thu còn đến từ những cơn gió se, không lạnh như gió mùa đông cũng không nóng như gió mùa hè. Nó dịu mát và làm tâm hồn con người thêm thư thái. Mùa thu với đặc trưng sương mù cũng bắt đầu hiện hữu, chúng “chùng chình qua ngõ” và len lỏi khắp mọi ngõ ngách của đường phố. Tất cả những điều ấy khiến cho tác giả đặt ra một câu nghi vấn. Ông không khẳng định mà chỉ nói rằng “hình như thu đã về”. Từ “hình như” gợi lên cho người đọc một sự ngỡ ngàng, một sự bâng khuâng không dám tin rằng đây lại là sự thật.
Sau sự cảm nhận của các giác quan thì lúc này, dường như mùa thu đã hiện hữu rõ nét hơn thông qua những hình ảnh cụ thể:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Tác giả Hữu Thỉnh đã rất khéo léo khi sử dụng những tính từ để chỉ sự chảy trôi của dòng sông và của những cánh chim bay. Sông thì “dềnh dàng” bởi mùa thu những cơn gió sẽ khiến cho dòng nước lững lờ trôi. “Dềnh dàng” ý chỉ sự chậm rãi, ung dung, tự tại cũng giống như từ “chùng chình” khi miêu tả sương ở câu thơ trên. Nhưng đối lập với sự chậm rãi ấy lại là sự “vội vã” của những chú chim. Đó là sự nhạy cảm của tác giả khi nhìn cảnh vật xung quanh. Ông hiểu rằng, mùa đông là thời điểm lũ chim sẽ bay về phương nam tránh rét. Vì vậy mà khi trời chuyển sang thu, chúng sẽ bắt đầu chuẩn bị cho một hành trình dài bay về phương xa. Sự vội vã ở đây cũng là điều rất dễ hiểu. Nhưng hình ảnh đám mây mới là hình ảnh tinh tế nhất. Vì đây là khoảnh khắc sang thu nên tiết trời vẫn còn chút vấn vương của mùa hạ. Điều đó thể hiện qua hình ảnh đám mây “vắt nửa mình sang thu”. Một nửa của nó vẫn còn đang ở mùa hạ. Dường như giữa hai mùa chỉ cách nhau một ranh giới trên bầu trời. Chỉ cần đám mây kia di chuyển qua vạch ranh giới ấy là mùa thu sẽ chính thức gõ cửa.
Khổ thơ cuối cùng, tác giả đã cảm nhận mùa thu bằng lý trí của mình. Ông lồng ghép trong đó những tâm sự của con người trước thời cuộc:
" Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Mùa thu mới chớm tới, nắng dù vẫn còn nhiều nhưng những cơn mưa đã thưa thớt dần, sấm chớp cũng không còn dữ dội và khiến người ta bất ngờ như những ngày đầu hè nữa. Ở đây, có thể hiểu câu thơ của tác giả theo hai lớp nghĩa, một là đơn thuần tả cảnh thiên nhiên, hai là nói đến cảm xúc của con người. Nếu những hàng cây cổ thụ không còn bất ngờ bởi tiếng sấm thì những con người đã trải qua biết bao biến cố của cuộc đời cũng không e ngại bất cứ một sóng gió nào nữa.
Bằng cách dùng tính từ chỉ con người để nói về cảnh vật, nhà thơ Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa một cách tài tình khiến cảnh vật trở nên sống động và có hồn hơn. Câu thơ đọc lên đến đâu là gợi mở cảm xúc cho con người đến đó. Bài thơ cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước khi mùa xuân về.
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (mẫu 2)
Giữa bộn bề mưu sinh của cuộc sống, chẳng mấy ai còn bận tâm hay dành thời gian để cảm nhận thời khắc giao mùa. Nếu mùa xuân là của của sự sống đâm chồi nảy lộc, mùa hạ là mùa của hoa thơm trái ngọt, mùa đông là mưa dầm gió bấc thì mùa thu là mùa của lá rơi và kỷ niệm. Bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh thực sự đã mang giây phút giao mùa sang thu chạm đến sự rung động của người đọc. Khoảnh khắc nhận ra thu về vừa ấn tượng lại dịu dàng và rất tinh tế.
Đối với Hữu Thỉnh, dấu hiệu để nhận biết mùa thu sang không phải là lá vàng rơi rụng mà là hương ổi chín thơm ngọt ngào. Một mùi hương tuy bình dị, dân dã nhưng lại rất đặc trưng và quen thuộc.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Từ “bỗng” mở đầu bài thơ cho thấy tác giả khi ấy rất ngỡ ngàng, bất chợt nhận ra một mùi hương thân thuộc từ trong ngọn gió se se lạnh. Động từ “phả” được đảo lên đầu câu không chỉ diễn tả sự giao thoa, hòa quyện giữa hương ổi và gió se mà còn gợi sự vận động, lan tỏa nhẹ nhàng của một hương thơm thanh mát, dịu nhẹ của hương ổi trong không gian. Tác giả Hữu Thỉnh đã cảm nhận được dấu hiệu mơ hồ của mùa thu bằng các giác quan: khứu giác, thị giác và bằng cả tâm hồn nhạy cảm của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Cách cảm nhận của tác giả thật khéo léo, những màn sương sớm được nhà thơ ví là đang “chùng chình” đi qua ngõ, mang vẻ ngập ngừng, thong dong, không chắc rằng thu đã về hay chưa, và để rồi cảm thấy bâng khuâng nhận ra “thu đã về”. “Hình như” đã diễn tả sự mơ hồ, không xác định trong cảm giác của nhà thơ khi bắt gặp những dấu hiệu chưa thực sự rõ nét của mùa thu.
Nếu trong khổ thơ đầu Hữu Thỉnh mơ hồ cảm nhận được những dấu hiệu của mùa thu thì sang khổ thơ thứ hai, sự thay đổi của đất trời khi thu sang được cảm nhận vô cùng rõ ràng. Quá trình chuyển biến của thiên nhiên khi sang thu hiện hữu ở mọi cảnh vật, khiến cho con người ta nhận ra mùa thu đang ngày càng hiện hình rõ nét chứ không còn mơ hồ nữa.
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Có thể thấy, sự biến chuyển của không gian, thiên nhiên trong quá trình sang thu đã được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan, đặc biệt đó là sự cảm nhận từ chính sự rung động của tác giả trước mùa thu. Dòng sông bước vào mùa thu không còn nước dâng cao chảy xiết mà “dềnh dàng” một cách nhẹ nhàng, yên ả, gợi lên vẻ đẹp dịu dàng của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Những cánh chim cũng bắt đầu “vội vã” bay về phương Nam tránh rét. Hình ảnh thú vị đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” khiến người đọc liên tưởng đám mây kia không phải vật vô tri vô giác mà bỗng trở nên có hồn, có cảm xúc. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây mùa hạ cuối cùng di chuyển một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển “vắt nửa mình sang thu”, dường như đám mây ấy vừa mong chờ thu sang nhưng cũng như lưu luyến, nuối tiếc phải chia tay mùa hạ.
Nếu như cuộc đời con người cũng như bốn mùa trong năm thì mùa thu là mùa mà ở đó con người ta đã trưởng thành, đã đủ chín chắn để chiêm nghiệm ra nhiều điều.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Tiết trời mùa thu vẫn còn vương vấn cái oi nồng của mùa hạ “còn bao nhiêu nắng”, tuy vẫn sáng nhưng không chói chang gay gắt mà nhạt dần, dịu dần. Vẫn có mưa, nhưng không còn là những cơn mưa rào đến bất ngờ và đi trong thoáng chốc “vơi dần cơn mưa”. Trời vào thu cũng đã bớt đi những tiếng sấm đột ngột và bất ngờ trên những hàng cây đứng tuổi. Hai câu thơ cuối bài được coi là câu thơ hay nhất cũng là kết tinh giá trị tư tưởng cho toàn bộ bài thơ:
“Nắng cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Nắng, mưa hay sấm đều là những tác động bất ngờ và bất thường tự nhiên. Từ hiện tượng bất thường của thời tiết, tác giả Hữu Thỉnh đã gợi cho người đọc những chiêm nghiệm sâu sắc về tác động của nghịch cảnh trong cuộc đời mỗi người. “Hàng cây đứng tuổi” là những hàng cây cổ thụ, đó cũng là biểu tượng cho những con người đã trưởng thành. Khi con người đã trưởng thành, đã từng đi qua những bão táp, giông tố sẽ vững vàng, kiên cường hơn hơn trước những biến cố bất ngờ của cuộc sống.
Đất trời cuối hạ sang thu chuyển mình một cách rất nhẹ nhàng nhưng rõ rệt, nhờ có nhà thơ Hữu Thỉnh với bài “Sang thu” mà người đọc đã có cơ hội lắng mình trong giây phút để cảm nhận thu về. Không chỉ là sự cảm nhận về thay đổi thời tiết, thiên nhiên mà còn để nhìn nhận về chính bản thân mình sau những đổi thay.
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (mẫu 3)
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều tác phẩm thơ ca và văn xuôi xuất sắc như: m vang chiến hào, Thư mùa đông, Trường ca biển,... Nhưng nổi tiếng nhất phải kể tới bài thơ "Sang thu". Bài thơ là bức tranh giao mùa đẹp đẽ của thiên nhiên đất trời khi từ hạ sang thu.
Bài thơ "Sang thu" được nhà thơ Hữu Thỉnh viết năm 1977 và in trong tập "Từ chiến hào đến thành phố". Bài thơ chứa đựng những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những chuyển biến của đất trời từ cuối hạ sang thu.
Hữu Thỉnh sinh ra và lớn lên tại vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, chính vì thế mùa thu đất Bắc đối với ông là sự quen thuộc, gần gũi. Vậy nhưng khi ông bắt gặp những tín hiệu chớm thu của thiên nhiên đất trời, nhà thơ cũng không khỏi giật mình mà ngỡ ngàng, kinh ngạc:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Hữu Thỉnh đã vẽ lên bức tranh giao mùa của thiên nhiên bằng những nét bút chấm phá. Những tín hiệu của mùa thu quen thuộc được ông tinh tế phát hiện ra. Đó là một "hương ổi" thoảng qua trong "gió se" lạnh, là làn sương mù mờ mịt buổi sớm đang bao quanh xóm làng. Từ "bỗng" được nhà thơ đặt ở đầu câu cho thấy một sự ngỡ ngàng, kinh ngạc khi ông bất chợt nhận thấy mùi hương ổi quen thuộc đang đánh thức những giác quan nhạy bén nhất của mình. Ổi vốn là thức quà quen thuộc của người dân Việt Nam và "hương ổi" chính là tín hiệu đầu tiên, rõ ràng nhất khi đất trời chớm vào mùa thu. Nhưng bầu trời chớm thu không chỉ có "hương ổi" mà còn có những làn gió se lạnh đang mơn man thổi khắp không gian. Những cơn gió giờ đây đã đi hết những hơi nóng, chỉ còn lại sự mát mẻ, dịu dàng, mơn man của mùa thu. "Hương ổi" hoà vào trong gió, tung bay đến khắp chốn, khắp mọi nơi để báo hiệu thu về. Động từ "phả" được nhà thơ đặt ở đầu câu thơ như muốn diễn tả sự chủ động của "hương ổi". "Hương ổi" chín thơm tự "phả" mình vào trong giò để gió làn toả khắp mọi nơi.
Tín hiệu thứ ba của mùa thu là màn sương mù đang giăng khắp chốn. Làn sương ấy chậm chạp bao phủ hết những con ngõ nhỏ quanh xóm làng. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương như có linh hồn, đang "chùng chình" từng bước cố ý chậm lại để trùm lên khắp xóm làng thân yêu. Màn sương ấy cứ chậm rãi tiến tới, báo hiệu cho nhà thơ rằng mùa thu đã về. Tất cả những tín hiệu quen thuộc ấy cùng hiện lên khiến cho nhà thơ kinh ngạc, ngỡ ngàng mà thốt lên, tự hỏi mình
"Hình như thu đã về"
"Hình như" là cảm giác mơ hồ, không rõ ràng. Nhà thơ thảng thốt, ngỡ ngàng trước những chuyển biến của đất trời khi vào thu, khiến cho ông không tin vào chính bản thân mình mà tự hỏi lại chính mình: "hình như thu đã về".
Thế nhưng qua đi những phút giây ngỡ ngàng, bức tranh mùa thu với những chuyển biến của đất trời hiện lên rõ ràng hơn:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã"
Bức tranh thu giờ đây hiện lên thật rõ. Dòng sông mùa hạ với những con nước cuồn cuộn giờ đây đã tình lặng, dịu dàng hơn. Nó thong thả, chậm rãi trôi đi trong sự yên ả của mùa thu đất trời. Đối lập với dòng sông, những chú chim lại "bắt đầu vội vã" bay về phương Nam tránh rét. Hữu Thỉnh đã rất tinh tế khi đặt hai từ láy tượng hình "dềnh dàng", "vội vã" đối lập nhau trong hai câu thơ liên tiếp. Nó khiến cho ta cảm nhận được sự đối lập của vạn vật khi mùa thu sang. Mùa thu là một mùa thật đặc biệt, bởi mùa thu đến, tất cả vạn vật đất trời đều chuyển mình: sông thì "dềnh dàng", chim thì "vội vã", màn sương thì chậm rãi "chùng chình". Tất cả đều chỉ để đón chờ nàng thu sang!
Thế nhưng đẹp đẽ nhất, độc đáo nhất trong những biến chuyển của đất trời mùa thu thì phải nói tới "đám mây mùa hạ":
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Đám mây trên bầu trời vẫn còn vương một chút nắng hạ, chỉ mới "vắt nửa mình" sang mùa thu mới. Phải chăng đám mây ấy còn luyến tiếc điều gì từ mùa hạ đang qua? Lối liên tưởng của nhà thơ Hữu Thỉnh quả thực rất độc đáo, chưa có nhà thơ nào lại có một sự liên tưởng độc đáo đến thế! Đám mây đó hẳn là còn tiếc nuối mùa hạ, bâng khuâng nên mới chỉ buông "nửa mình" qua trời thu như thế!
Đất trời đã chớm thu. Không gian mùa hạ đang dần thu hẹp. Thế nhưng đâu đó chút ánh nắng cuối hạ vẫn rực rỡ trong không gian:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Vẫn là những cơn nắng, vẫn là những trận mưa với những tiếng sấm rền trời, vậy nhưng đã chẳng còn sự dữ dội, tất cả đều đã nhạt dần, "vơi bớt" đi trong không gian.
Bài thơ Sang thu là những chuyển biến nhẹ nhàng nhưng rõ ràng của thiên nhiên, đất trời khi chuyển mình từ hạ sang thu. Những chuyển biến đó được nhà thơ Hữu Thỉnh ghi lại bằng những cảm nhận tinh tế, qua những hình ảnh quen thuộc.
Bằng thể thơ năm chữ hiện đại cùng các biện pháp nghệ thuật như nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, Hữu Thỉnh đã vẽ lên bức tranh giao mùa vừa mới mẻ lại vừa quen thuộc. Ngôn ngữ trong thơ rất giản dị, mộc mạc, gần gũi với mọi người. Hình ảnh thơ trong sáng, giàu sức gợi với những liên tưởng rất độc đáo. Ngoài ra, ông cũng rất khéo léo trong việc sử dụng các từ láy trong các câu thơ cùng giọng điệu ngỡ ngàng đã khiến cho ta cảm nhận được hình ảnh mùa thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ rất dân dã và bình yên.
Sang thu của Hữu Thỉnh đã giúp chúng ta cảm nhận được rõ bức tranh thiên nhiên giao mùa ở một miền quê hương đồng bằng thân thuộc rất đẹp đẽ, giản dị và nên thơ. Sang thu quả là một trong những bài thơ mùa thu hay và độc đáo trong nền thi ca Việt Nam.
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (mẫu 4)
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?
(Lưu Trọng Lư)
Mùa thu với sắc trời xanh thẳm, với những áng mây trắng trôi lững lờ, với những chiếc lá vàng chao nghiêng trong gió se lạnh đã gợi lên trong lòng thi nhân biết bao hoài niệm. Chính vì vậy mà từ rất lâu, nét thu duyên dáng đầy thi vị đã đi vào thi ca với bao tuyệt phẩm. Vẫn viết về đề tài mùa thu song bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh lại chọn một góc nhìn rất mới lạ. Mùa thu ở đây chưa định hình bởi nó đang ở khoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu.
Bài thơ được mở ra bằng sự cảm nhận của tác giả về những tín hiệu thiên nhiên lúc chuyển mùa:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Mùa thu đến một cách đội ngột, đánh thức giác quan Hữu Thỉnh bằng những tín hiệu thật vô hình, mong manh. Đó chính là mùi hương ổi chín – mùi hương quen thuộc ở vùng nông thôn Bắc bộ. Từ “phả” gợi cảm giác về mùi hương dường như từ từ lan tỏa thơm ngát trong không gian. “Hương ổi” thơm đến nhờ sự giúp đỡ của “gió se“. Đó là những ngọn gió nhẹ, mang theo chút hơi lạnh, khô của đất trời.
Gió mang hương ổi đi khắp thôn xóm tạo cảm giác vấn vương lòng người. Cũng chính nhờ ngọn “gió se” mà nhà thơ nhận ra làn “sương chùng chình” mờ ảo đang từ từ tan loãng, đang di chuyển chậm chạp, giăng mắc trên đường thôn ngõ xóm. Từ “chùng chình” cùng biện pháp nhân hóa trong câu thơ tạo đã diễn tả thật chính xác cái cảm giác làn sương đang cố ý đi chậm lại nơi cửa ngõ thời gian nối giữa hai mùa như để được tận hưởng những phút giây chuyển mùa.
Tác giả như đang dùng mọi giác quan để đón nhận những tín hiệu mùa thu vì nó đến không báo trước. Từ “bỗng” diễn tả cảm giác ngạc nhiên, bất ngờ đầy thú vị của nhà thơ. Và ngay cả khi khứu giác, xúc giác cùng với thị giác mách bảo, khi đã nhận ra “hương ổi”; ” gió se” và cả “sương chùng chình”, tác giả vẫn bâng khuâng, xao xuyến chưa dám tin vào giác quan của mình: “hình như thu đã về”. Bởi tất cả những tín hiệu quá mơ hồ, hư ảo. Bước chân mùa thu ngập ngừng trước cửa ngõ thời gian lay động lòng người, đánh thức giác quan, xôn xao hoài niệm. Phải có một cảm nhận tinh tế, sâu sắc như Hữu Thỉnh mới có thể nhận ra sự hiện diện của của mùa thu ngay từ những phút giây đầu tiên như thế.
Bức tranh mùa thu lúc giao mùa đi từ vô hình, mong manh đến hữu hình, cụ thể :
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Cảm xúc bâng khuâng, ngỡ ngàng lúc ban đầu dần tan biến nhường chỗ cho những cảm hứng mãnh liệt hơn. Hình dáng mùa thu dần hiện rõ, không gian thua dần mở rộng hơn trong tầm quan sát của tác giả. Dòng sông trong thời điểm giao mùa đã bớt đi sự cuồn cuộn của mùa mưa bão. Nó trở nên hiền hòa hơn, êm ả hơn, cố tình chậm lại để tận hưởng khoảnh khắc thu mới chớm.
Người đọc như cảm nhận được sự hài lòng của dòng sông khi được đắm chìm mình vào không gian thu. Trái ngược hẳn với dòng sông, những cánh chim bắt đầu vội vã hơn khi nhận ra phút đầu thu. Sự cảm nhận về thời khắc giao mùa thúc giục cánh chim bay nhanh hơn, để có thể tìm nơi cư trú ở phương Nam ấm áp trước khi đón nhận những đợt gió giá lạnh của mùa đông.
Sự tinh tế của tác giả là nhận ra sự thay đổi về tốc độ khi nó mới chỉ “bắt đầu”, thật mơ hồ khó nhận thấy. Điều đó chỉ có được khi có sự gắn bó sâu nặng với cuộc đời. Điểm thú vị ở hai câu thơ này là tốc độ trái chiều giữa chậm và nhanh thể hiện một cách sinh động quy luật của tự nhiên trong thời điểm giao thoa của thời tiết. Mùa thu mới chớm thật dịu nhẹ, thật êm đềm, mênh mang cả đất trời. Hữu Thỉnh đã tô điểm khung trời thu bằng áng mây duyên dáng :
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Đám mây mùa hạ vẫn còn đó, nhưng nó đã bớt trĩu nặng hơi nước mùa mưa. Nó đã nhẹ nhàng hơn, trắng xốp và bồng bềnh hơn, êm ả trôi lững lờ trên nền trời mùa hạ đang nhuốm dần sắc thu. Nó mềm mại như dải lụa “vắt nửa mình” đầy gợi cảm giữa hai bến bờ thời gian. Cái đặc biệt của khổ thơ không chỉ là khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên lúc sang thu mà còn là lấy không gian để miêu tả thời gian.
Ở khổ thơ cuối, tác giả tiếp tục hoàn thiện bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa bằng những chi tiết chọn lọc :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Nắng, mưa, sấm là những đặc trưng của mùa hạ vẫn còn vương lại trong khoảng khắc này. Nắng, mưa, sấm vẫn còn song từ gay gắt thành dịu nhẹ, từ dày đặc thành thưa thớt, từ ồn ào thành vắng lặng. Sắc nắng nhạt dần, mưa bớt đi độ xối xả, sấm cũng thưa hơn và hàng cây lâu năm với sắc lá đang dẫn sẫm lại cũng bớt bị bất ngờ bởi sấm. Tất cả đã xuất hiện với độ giảm dần để trở thành tín hiệu mùa thu. Thiên nhiên đang nhẹ bước qua ranh giới mong manh giữa hai mùa. Sự thay đổi từ thiên nhiên có vẻ như đã rõ hơn song chỉ có thể xác định được bằng sự nhạy cảm khó lường của giác quan mách bảo.
Đặc biệt hơn trong hai câu cuối, nghệ thuật nhân hóa và ẩm dụ đã giúp người đọc có được sự chiêm nghiệm độc đáo về cuộc đời. “Sấm” tượng trưng cho những tác động, khó khăn của cuộc sống, “hàng cây đứng tuổi” lại chỉ những con người đã trưởng thành. Khi con người ta từng trải, có kinh nghiệm sống sẽ điềm tĩnh hơn trước những bão táp của cuộc đời.
Đến đây ta bỗng hiểu sao vừa có sự “chùng chình” bịn rịn với mùa hạ, “dềnh dàng” mà lại “vội vã” lúc thu sang. Đời người vất vả lo toan, bỗng nhận ra mình đã “sang thu” rồi, bỗng nhận ra mình đang ở độ tuổi xế chiều. Cái bồng bột đi qua nhường lại chỗ cho sự điềm tĩnh, chín chắn.
Với sự cảm nhận tinh tế, ý thơ hàm xúc mang cốt cách rất riêng, vừa cổ điển vừa hiện đại, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến một không gian mới chớm thu thật đẹp, thi vị. Bài thơ lay động cảm xúc, lắng đọng trong hồn người. Sang thu thể hiện một tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ Hữu Thỉnh, xứng đáng là một trong những bài thơ hay về thơ mùa thu trong nền văn học nước nhà.
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (mẫu 5)
Mùa thu là một không gian trữ tình, thi vị nhất trong bốn mùa. Cảnh sắc thu gợi nhớ, gợi thương. Nhưng nếu như mùa thu dưới con mắt các thi nhân xưa với vẻ đẹp ước lệ với lá vàng rơi, gió hiu hắt thì đối với Hữu Thỉnh, mùa thu hiện ra mới lạ, gần gũi mà đầy tinh tế. Cảm xúc ấy được nhà thơ thể hiện rõ ràng qua bài thơ “Sang thu”.
Ngay từ đầu tác giả đã khẳng định về thời gian cùa mùa thu qua tiêu đề: thời điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng cao, cũng không phải là cuối thu khi sắc trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẫn vào trong gió. Đất trời chỉ mới chớm thu thôi, một khoảng khắc giao mùa nhẹ nhàng êm dịu đủ để con người giật mình ngỡ ngàng:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Dựờng như hương ổi thơm dịu chỉ đang phảng phất đâu đây. “Hương ổi” ngọt ngào mà thuần khiết lòng ta chọt xán xang. Hiện lên trong tâm hồn ta hình ảnh của quê hương, của xóm làng với những chiều đi hái trộm ổi, cái vị ngọt ngào, thanh thanh cứ đọng lại mãi nơi đầu lưỡi, tuy bị mắng nhưng kỉ niệm đó chẳng thể nào phai nhòa. “Phả” là động từ được sử dụng rât khéo léo để khẳng định sự xuất hiện của hơi thu. Cái cảm giác se lạnh để rồi thảnh thơi đón nhận một luồng khí thu mát rượi trong lành. Làn gió ấy từ lâu vẫn được coi như là hồn thu nơi đất Bắc.
Tiếp đến, nhà thơ nhận ra làn sương sớm “chùng chình” nơi đầu ngõ. Nó không trôi đi mà như đang cố bấu víu để ở lại. Hình ảnh :Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.
Sau một thoáng bối rối, bồi hồi nhà thơ như bừng tỉnh: “Hình như thu đã về”. hai từ hình như biểu lộ hết sự hoài nghi và vui mừng, cuống quyt của tác giả khi nhận ra dấu hiệu mùa thu hiện rõ trong không gian buổi sớm. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
Để thực sự kiểm chứng điều thấy được cảm nhận được ấy, nhà thơ vội vã bước ra với không gian rộng lớn, đón nhận tất cả màu thu vào lòng:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế, thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi” ,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.
Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu cũng bắt đẩu đập mạnh. Sông mùa này chẳng còn những dòng chảy xiết, đỏ quạnh phù sa của mùa hạ mà trong xanh hơn, trôi một cách “dềnh dàng” chậm chạp thong thả, cứ cố nán lại đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Hình ảnh thơ thật thi vị lãng mạn làm sao.
Trái ngược với vẻ khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim trời bắt đầu di trú về phương Nam. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. Những cánh chim chiều không còn mãi miết rong chơi nơi chân trời tối mà bắt đầu “vội vã” tìm về tổ ấm. Có lẽ cũng bởi mùa đông sắp đến và mùa thu cũng là thời điểm để chúng đi tránh rét phương Nam. Những tín hiệu báo mùa về phản ngược nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu.
Nhịp mạnh có hương ổi phả – chim vội vã nhịp nhẹ có sương chùng chình – sông dềnh dàng. Một hiện tượng trái chiều mà ta vẫn thường thấy trong mỗi cuộc đổi thay. Phải chăng, những vận động trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên? Cho nên thật thú vị, chính sự trái ngược kia tạo nên cái bản giao hường gợi cảm của đất trời thu. Nhưng những cảm nhận tinh tế về khúc giao mùa được thể hiện rõ nét nhất qua hình ảnh đám mây. Đám mây trời là dải khăn và nền trời thu chính là giá nâng chiếc khăn ấy. Đám mây kia có hai nửa thì một nửa bên nằm bên mùa hạ, một nửa kia thuộc về mùa thu. Tất cả gợi cho ta một vẻ đẹp liên tưởng về quá khứ của mùa hạ đầy sôi động. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.
Sau những cảm xúc trước những biến đổi âm thầm của mùa thu, tác giả trầm ngâm suy ngẫm về những triết lý của cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời. Nắng mùa hạ vẫn còn nồng nhưng không còn chói chang nữa. Những cơn mưa rào sầm sập đã vơi dần, sấm sét cũng ít đi. Chính vì vậy những hàng cây đã đứng tuổi không còn bất ngờ nữa nhưng hơn hết là thời gian đã giúp cho hàng cây quen dần với tiếng sấm.
Những ý nghĩa triết lý chợt hiện ra rõ nét sau khi xuất hiện hình ảnh hàng cây đứng tuổi. Thời gian trôi qua nhanh và cuộc đời mỗi con người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi xa. Đó là cảm xúc trước sự biến thiên của thời gian. Tuy đã sang thu nhưng lòng “vẫn còn bao nhiêu nắng”, bao cơn mưa thở than nay cũng đã vơi dần.
“Sấm” là những khó khăn, thất bại là những vang động bất thường trong cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” là những con người từng trải, có kinh nghiệm, họ sẽ vững vàng bước qua những tiếng sấm cùa cuộc đời. Từ đó ta hiểu rằng nếu ta biết dừng lại suy ngẫm ta sẽ chiêm nghiệm ra được nhiều điều. Thì ra mùa thu đâu chì có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là sự trường thành trong suy nghĩ trong tâm hồn.
Đến đây, giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.
Bằng một cách nhìn riêng, một lối tả riêng, thoát khỏi những ước lệ, Hữu Thỉnh đã miêu ti những chuyển mình tinh tế của mùa thu qua hương ổi, màn sương, cơn gió, dòng sông, bầy chim, đám mây, nắng, mưa, sấm, cây cối sang thu, hồn người cũng sang thu. Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.
Bài thơ “Sang thu” đã gợi trong ta những cảm xúc bâng khuâng, lòng yêu quê hương, đất nước dâng trào mãnh liệt. “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.
Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài Sang thu (mẫu 6)
Có lẽ, trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa thu thường gợi cảm hứng cho thi ca, nhạc họa nhiều nhất. Ta có thể bắt gặp chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư hay "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu... và cũng viết về đề tài mùa thu, nhà thơ Hữu Thỉnh với thi phẩm "Sang thu" đã có những cảm nhận về phút giây giao mùa chuyển từ cuối hạ sang đầu thu thật mới mẻ, tinh tế, nhẹ nhàng. Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập "Từ chiến hào đến thành phố", rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ, thiết tha, sâu lắng của Hữu Thỉnh.
Mở đầu bài thơ là những cảm nhận ban đầu trước những tín hiệu dịu nhẹ lúc sang thu trong một không gian thu rất gần và hẹp:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Tín hiệu đầu tiên báo hiệu thời khắc của sự giao mùa từ cuối hạ sang thu là hình ảnh "hương ổi" bay phảng phất trong gió se. Hương ổi chín thơm ấy, vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Quen thuộc vì nó là hương thơm thường gắn liền với đồng quê, thôn xóm của người Việt, rất dân dã, mộc mạc. Nhưng nếu trong thơ xưa, các nhà thơ khi miêu tả cảnh thu thường gắn liền với ao thu, bầu trời thu hay bông hoa cúc vàng rực rỡ, một chiếc lá vàng khô... thì ở đây, Hữu Thỉnh lại cảm nhận tín hiệu ban đầu báo hiệu thời khắc của sự chuyển giao mùa hạ sang thu là hương ổi. Điều đó đã tạo nên sự mới mẻ trong cách cảm nhận và miêu tả cảnh thu của nhà thơ. Hương thơm ngát của ổi chín đã được tác giả miêu tả qua động từ "phả". Từ "phả" diễn tả một mùi hương nồng nàn, đậm đà, lan tỏa trong gió se. "Gió se" là một loại gió chỉ có trong mùa thu, hơi khổ, se se lạnh. Và chính ngọn gió đầu mùa ấy đã đưa mùi hương bay tỏa ra khắp không gian làm nên vẻ đẹp của mùa thu.
Mùa thu tới không chỉ có gió, có hương ổi mà còn có cả làn sương. Không gian thu lãng đãng hơi sương, tạo cho khung cảnh thu thêm lãng mạn. Làn sương được nhân hóa qua động từ "chùng chình", có tác dụng gợi tả những làn sương mỏng manh, nhẹ nhàng như cố ý chậm lại, như lưu luyến chưa muốn bước hẳn vào thu. Ngõ ở đây vừa là ngõ thực của thôn làng, ngõ xóm; lại vừa là ngõ cửa của thời gian như chao nghiêng ranh giới giữa hai mùa, mùa hạ thì chưa muốn qua mà mùa thu thì chưa muốn tới.
Cảm xúc trước của nhà thơ trước những tín hiệu mùa thu đã được tác giả diễn tả qua từ "bỗng", thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bất ngờ khi phát hiện ra những tín hiệu đó. Và thiên nhiên, trời đất đã được tác giả mở lòng ra mà đón nhận bằng tất cả các giác quan với những rung động thật tinh tế, nhẹ nhàng: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). Từ tất cả các tín hiệu trên (gió, hương, sương) tác giả đi đến kết luận: "Hình như thu đã về". Đây là một sự phỏng đoán bằng cảm giác, bằng linh tính của tâm hồn. "Hình như" là từ tình thái thể hiện sự tin tưởng thấp, chưa chắc chắn, vẫn còn mơ hồ. Trạng thái cảm xúc này không chỉ phù hợp với cảnh thu mà cũng rất phù hợp với logic tâm trạng. Bởi những tín hiệu của mùa thu đều là những tín hiệu vô hình, không có hình khối, màu sắc rõ ràng, cụ thể nên nhà thơ mới có cảm xúc ngỡ ngàng, bâng khuâng, có phần hơi bối rối trước tín hiệu mùa thu.
Nếu như khổ thơ đầu, không gian thu được co hẹp trong một không gian rất gần và hẹp thì tới khổ hai, không gian thu đã được mở rộng về biên độ với tầm nhìn cao và xa hơn, từ mặt đất lên bầu trời:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Hình ảnh dòng sông được nhân hóa qua từ láy "dềnh dàng", tức là chậm chạp, thong thả. Dòng sông không còn cuồn cuộn, gấp gáp chảy trước những cơn mưa lũ của mùa hạ nữa mà thay vào đó, nó trở nên lắng lại, từ từ, nhẹ nhàng, lững lờ trôi. Dường như, dòng sông cũng ngập ngừng như muốn níu kéo mùa hạ, chưa muốn sang mùa thu. Ngược lại với sự "dềnh dàng" của dòng sông là trạng thái "vội vã" của cánh chim đang mải miết bay đi tránh rét khi chúng bắt đầu cảm nhận được cái se se lạnh của tiết trời đầu thu. Nghệ thuật đăng đối ở hai câu thơ đầu tạo nên hình ảnh thơ thật đẹp, rất chỉnh, giàu tính chất tạo hình, đồng thời làm cho không gian thu trở nên rộng mở hơn, rất khoáng đạt.
Khép lại khổ thơ là hình ảnh đám mây được nhân hóa với hành động "vắt nửa mình". Hình ảnh thơ rất giàu tính chất tạo hình trong không gian và có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đám mây trắng buốt mềm mại trải dài như một tấm lụa treo ngang trên bầu trời, rất nhẹ nhàng, duyên dáng. Và mây cũng chính là ranh giới chao nghiêng giữa hai mùa hạ - thu. Cảnh vật trở nên vừa hư lại vừa thực, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng rất nên thơ và hết sức độc đáo, mới mẻ của tác giả. Tóm lại, với một hệ thống những hình ảnh đẹp, giàu tính chất tạo hình trong không gian, kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, tương phản, nhà thơ đã khắc họa thành công khung cảnh trời đất khi bắt đầu vào thu thật sống động, tinh tế, nhẹ nhàng. Chắc chắn Hữu Thirnh phải là một ngòi bút tài năng, một tâm hồn nghệ sĩ và tình yêu thiết tha với thiên nhiên tạo vật thì mới tạo nên câu thơ viết về mùa thu đẹp, lãng mạn đến như vậy.
Từ những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến và những rung động mãnh liệt trước những phút giây giao mùa vào thu ở khổ một, hai, nhà thơ chuyển sang giọng điệu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi."
Nhà thơ thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết. Vẫn là sấm, mưa, nắng, những hiện tượng thời tiết của mùa hè nhưng trong khoảnh khắc giao mùa này đã có sự đổi thay về mức độ. Cái nắng nóng chói chang của mùa hạ đã dần nhạt màu, không còn gay gắt như còn ở giữa mùa hạ; những cơn mưa rào bất chợt ào ào kéo đến cũng đã vơi dần đi. Sấm chớp kéo theo những cơn dông lốc dữ dội cũng bớt đi, cũng trở nên thưa thớt hơn nhiều. Những từ như "vẫn còn", "vơi dần", "cũng bớt" đã có tác dụng diễn tả những hiện tượng của tự nhiên đó (sấm, mưa, nắng) đã giảm đi về mức độ và cường độ khi trời đất đang giao mùa cuối hạ, đầu thu rất nhẹ nhàng, khó nhận biết. Thế nhưng, với một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, nhà thơ đã phát hiện ra sự chuyển biến đó của thiên nhiên, vũ trụ.
Từ hiện tượng của tự nhiên, nhà thơ suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời:
"Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
"Sấm" là hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho những tác động của ngoại cảnh với những biến động của cuộc đời. "Hàng cây đứng tuổi" là những cành cây lâu năm, cành lá sum suê, rễ cắm sâu xuống lòng đất vô cùng chắc chắn. Những hàng cây này đã trải qua biết bao nhiêu mùa bão giông với những biến thiên của trời đất. Và nó biểu trưng cho những con người từng trải đã đi qua biết bao nhiêu những khó khăn, vất vả, hiểm nguy trên đường đời. Như vậy, bằng nghệ thuật ẩn dụ, nhà thơ thể hiện sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời con người: con người từng trải sẽ trở nên vững vàng hơn trước những thử thách trong cuộc đời. Lúc viết bài thơ này, Hữu Thỉnh mới chỉ hơn ba mươi tuổi, ấy vậy nhưng Hữu Thỉnh đã tự cho rằng mình là người từng trải. Có lẽ điều này xuất phát từ hoàn cảnh của ông xuất thân từ một người lính, đã trải qua biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan, vất vả; với biết bao nhiêu tang tóc, hi sinh, mất mát nơi chiến trường khốc liệt... nên đã rèn luyện cho nhà thơ một bản lĩnh cứng cỏi và nghị lực vươn lên, dám đương đầu với mọi biến động bất thường mà cuộc sống sẽ xảy ra. Đặt câu thơ "sấm cũng bớt bất ngờ" vào trong một hệ thống các câu thơ ở khổ một, hai như làn "sương chùng chình qua ngõ" và "vắt nửa mình sang thu", người đọc chợt nhận ra sự lưu luyến muốn níu kéo thời gian của nhà thơ khi nhận ra sự sang thu của tạo vật cũng chính là sự "sang thu" của đời người...
Bài thơ được viết theo thể năm chữ, hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi , ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu cảm đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật và sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân trước thiên nhiên, vũ trụ đất trời khi bắt đầu sang thu. Đọc xong bài thơ, chúng ta thấy được sự mới mẻ trong cách cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh, đồng thời thấy được tình yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước sâu sắc của nhà thơ.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Toán 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Toán 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Toán 10 – Chân trời sáng tạo
- Chuyên đề dạy thêm Toán 10 Chân trời sáng tạo (2024 có đáp án)
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Friends Global – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Tiếng Anh 10 Friends Global – Chân trời sáng tạo
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 10 Friends Global đầy đủ nhất
- Ngữ pháp Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Vật lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Vật lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Vật lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Vật lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Hóa học 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Hóa học 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Hóa học 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Hóa học 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Sinh học 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Sinh học 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Sinh học 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Sinh học 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Lịch sử 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Lịch sử 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Lịch sử 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Lịch sử 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Địa lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết Địa Lí 10 - Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Địa lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Địa lí 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải Chuyên đề Kinh tế và pháp luật 10 – Chân trời sáng tạo
- Lý thuyết KTPL 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sbt Hoạt động trải nghiệm 10 – Chân trời sáng tạo
- Giải sgk Giáo dục thể chất 10 – Chân trời sáng tạo