TOP 13 mẫu Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (2025) SIÊU HAY

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc lớp 9 Chân trời sáng tạo gồm dàn ý và 13 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.

1 8,741 05/02/2025


Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc

TOP 13 mẫu Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc

Dàn ý Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc

a. Mở đầu truyện

- Giới thiệu bối cảnh, nhân vật chính của câu chuyện

b. Diễn biến truyện

Thuật lại diễn biến các sự kiện trong câu chuyện theo trình tự hợp lí; thể hiện khả năng tưởng tượng và cách kể chuyện sáng tạo; có kết hợp sử dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong khi kể chuyện.

- Sự việc 1: Kể lại sự việc thứ nhất.

- Sự việc 2: Kể lại sự việc thứ hai.

- Sự việc 3: Kể lại sự việc thứ ba.

- ....

c. Kết thúc truyện

- Kết thúc phù hợp, gây ấn tượng hoặc gợi suy nghĩ đối với người đọc.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (mẫu 1)

Cô bé Lọ Lem và chiếc xe đạp huyền bí

Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nhỏ bình yên ven biển, có một cô bé tên là Lọ Lem. Lọ Lem mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống cùng bà dì ghẻ và hai người chị em cùng cha khác mẹ. Hai người chị em của Lọ Lem xinh đẹp, kiêu hãnh, luôn ganh tị và đối xử tàn tệ với cô. Lọ Lem phải làm mọi việc nhà từ sáng sớm đến tối mịt, không có thời gian vui chơi hay học hành như những đứa trẻ khác.

Vào một buổi sáng mùa hè trong trẻo, Lọ Lem đang miệt mài giặt giũ bên bờ suối thì bất ngờ nghe thấy tiếng chuông reo vang. Nhìn theo âm thanh, cô bé thấy một chiếc xe đạp màu bạc lấp lánh xuất hiện giữa khu rừng. Chiếc xe đạp có khung bằng kim loại sáng bóng, bánh xe bằng cao su mềm mại, và những chiếc nan hoa lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Lọ Lem chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe đạp nào đẹp đến vậy.

Bị thu hút bởi vẻ đẹp lộng lẫy, Lọ Lem tò mò tiến đến chiếc xe đạp. Ngay khi cô bé đặt tay lên tay lái, một luồng ánh sáng kỳ diệu bao trùm lấy Lọ Lem và chiếc xe đạp. Khi ánh sáng tan biến, Lọ Lem bỗng nhiên được biến hóa thành một cô gái xinh đẹp rạng rỡ, mặc trên mình bộ váy màu xanh biếc lấp lánh, mái tóc đen dài uốn xoăn bồng bềnh.

Chiếc xe đạp cũng thay đổi ngoại hình, trở thành một cỗ xe ngựa lộng lẫy, được kéo bởi bốn chú ngựa trắng tinh khôi. Lọ Lem ngỡ ngàng nhìn ngắm sự biến hóa kỳ diệu này, không thể tin vào mắt mình. Bỗng nhiên, một giọng nói nhẹ nhàng vang vọng từ trong khu rừng: "Lọ Lem, con hãy nhanh chóng đến dự vũ hội hoàng gia. Hãy tận hưởng khoảnh khắc tuyệt vời này, con xứng đáng được hạnh phúc."

Lọ Lem vui mừng khôn xiết, cô bé vội vã leo lên cỗ xe ngựa và ra lệnh cho những chú ngựa đưa mình đến cung điện. Vừa đến cổng cung điện, mọi người đều choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy của Lọ Lem và cỗ xe ngựa huyền bí. Hoàng tử, khi nhìn thấy Lọ Lem, đã ngay lập tức bị thu hút bởi vẻ đẹp và sự thanh tao của cô bé. Hoàng tử mời Lọ Lem vào dự vũ hội, và họ đã có những giây phút vui vẻ, hạnh phúc bên nhau.

Tuy nhiên, Lọ Lem biết rằng phép thuật sẽ chỉ kéo dài đến nửa đêm. Khi tiếng chuông đồng hồ điểm 12 giờ, Lọ Lem vội vã rời khỏi vũ hội, bỏ lại một chiếc dép thủy tinh nhỏ xinh. Hoàng tử quyết tâm tìm kiếm người con gái bí ẩn đã đánh cắp trái tim mình, và anh đã đi khắp nơi để thử chiếc giày thủy tinh cho tất cả những người phụ nữ trong vương quốc.

Cuối cùng, hoàng tử đến nhà của Lọ Lem, nơi hai người chị em của cô bé đang cố gắng nhồi nhét đôi chân to lớn của họ vào chiếc dép thủy tinh. Lọ Lem xuất hiện, và khi hoàng tử thử chiếc dép cho cô bé, nó vừa vặn hoàn hảo. Lọ Lem mỉm cười hạnh phúc, và phép thuật biến mất, trả lại cho cô bé hình ảnh giản dị thường ngày.

Hoàng tử nhận ra Lọ Lem chính là cô gái bí ẩn mình đã tìm kiếm bấy lâu nay. Anh vô cùng vui mừng và cầu hôn Lọ Lem. Họ đã tổ chức một đám cưới lộng lẫy, và họ sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (mẫu 2)

Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.

Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.

Năm ấy, giặc ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”, người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: “Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc”. Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.

Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ “Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!”, rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.

Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (mẫu 3)

Nhà tôi nghèo lắm. Vợ chồng tôi làm nghề kiếm củi để nuôi thân. Vất vả cực nhọc lại hiếm hoi nữa. Một hôm tôi vào rừng kiếm củi, khát nước quá, chợt thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước trong vắt. Tôi đánh liều, nhắm mắt uống cạn. Về nhà thế là tôi có mang...

Đẻ con ra, tôi buồn lắm. Chỉ là một cục thịt đỏ hỏn, tuy có mắt, có mũi, nhưng chẳng có mình mẩy, chân tay. Định vứt đi, nhưng lòng mẹ không nỡ, dù sao nó cũng là hột máu cắt đôi của mình. Tôi đặt tên con là Sọ Dừa. Có điều lạ là tôi đi đâu nó cũng lăn theo đấy! Một hôm bực mình, tôi nói: “Bằng tuổi mày, con người ta đã biết chăn bò giúp bố mẹ, còn mày thì chẳng được tích sự gì!”. Thương lắm, khi nghe nó nói: “Làm gì chứ chăn bò thì con làm tốt. Mẹ đến nói với phú ông cho con sang ở chăn bò...”

An ủi nó, tôi đánh liều sang gặp phú ông. Phú ông ngẫm nghĩ một lát. Thương mẹ con tôi hay là giễu, rồi ông bảo: “Thôi cứ cho nó sang đây! Cứ thử xem đã!”. Thế rồi, cả một đàn bò đông đúc được nó chăn dắt, con nào con nấy béo nung núc. Ai cũng ngạc nhiên. Phú ông tỏ ý bằng lòng.

Phú ông có ba cô con gái, cô út rất hiền và xinh đẹp. Cô út hay đem cơm cho con tôi. Cô út đã yêu và mê nó mới lạ chứ! Sau này, tôi mới biết nhiều lần cô nhìn thấy Sọ Dừa nhà tôi biến thành một chàng trai tuấn tú, nằm trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Cô út âm thầm chăm sóc nó, có miếng gì ngon, cô cũng kín đáo mang cho nó.

Một hôm, thằng con tôi lăn về nhà, nó bảo: “Mẹ sang hỏi cô út của phú ông cho con!”. Tôi sửng sốt, ai đời “đũa mốc dám chòi mâm son” bao giờ? Tủi phận nghèo hèn, nhưng lại thương con, thôi thì “một liều ba bảy cũng liều”. Nghe tôi nói, phú ông cười mỉa:

“Thế cơ à? Mẹ con bà sắm đủ 10 tấm lụa đào, 10 con lợn béo, 10 vò rượu tăm và một chĩnh vàng cốm đem sang đây làm lễ vấn danh nhé!”.

Tôi xấu hổ ra về. Nghe tôi nói, nó cười bảo: “Mẹ cứ yên tâm. Con sẽ biện đủ”. Sáng hôm sau mẹ con tôi đem sính lễ đến họ nhà gái. Phú ông ngạc nhiên quá. Trót đã hứa rồi, vả lại loá mắt vì của, phú ông cho gọi ba cô con gái lên. Hai cô chị bĩu môi, nguýt! Cô út bẽn lẽn cúi đầu thưa: “Cha đặt đâu con xin ngồi đấy!”. Con trai tôi thành gia thất. Tôi có con dâu, tôi vừa mừng vừa lo... Thật không ngờ, nó cởi lốt Sọ Dừa từ lúc nào. Nó trở thành một chàng trai thông minh, hào hoa, lịch sự. Từ đấy, cùng với vợ chồng nó, ba mẹ con tôi sống rất hạnh phúc. Mấy năm sau, vua mở khoa thi, kén nhân tài làm quan. Con tôi đã dự thi và đỗ Trạng nguyên, vẻ vang quá! Vua lại cử nó đi sứ sang Tàu. Ở nhà, hai cô chị xảo quyệt đã lập mưu dìm cô em út chết đuối. Con dâu tôi bị con cá to nuốt vào bụng. May phúc nhà tôi, nó đã lấy dao rạch bụng cá chui ra rồi dạt vào hoang đảo. Nó lấy đá đánh lửa, nướng cá ăn, chờ thuyền đến cứu. Hai quả trứng nó mang theo đã nở thành đôi gà đẹp lắm, lớn lên gáy rất hay! Một hôm, thuyền con tôi đi sứ về qua đảo. Bỗng nghe gà gáy... Tôi già rồi, lẩn thẩn quên mất tiếng gà gáy... Ờ, tôi nhớ ra rồi. Gà gáy như tiếng người gọi:

“Ò... ó... o

Phải thuyền Quan Trạng rước cô tôi về...”

Vợ chồng nó gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Sau này tôi mới hay là con trai tôi trước khi đi sứ đã để lại cho vợ nó một hòn đá lửa, một con dao, hai quả trứng gà, và dặn phải giắt luôn bên người để phòng thân. Quan Trạng có khác, có tài tiên tri. À, hai cô chị nanh ác sau này đi đâu mất tích.

Ở đời, mẹ hay nói tốt cho con. Tôi quê mùa có chi tôi nói thế. Sọ Dừa - Quan Trạng, chính là con tôi...

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (mẫu 4)

Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.

Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng cảnh đời lại đẩy vào nơi tối tăm của bi kịch - Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, là con của một gia đình làm nông nghèo. Mẹ nàng mất từ sớm, trong nhà chỉ có hai cha con cùng nương tựa lẫn nhau và trải qua những tháng ngày bình lặng, hạnh phúc.

Khi nàng đến tuổi lập gia đình, đã được một chàng Trương vì thấy nàng đẹp người lại đẹp nết nên đã qua hỏi cưới. Nàng không yên tâm để cha già sống cảnh một mình, nhưng vẫn phải đồng ý lấy Trương Sinh trước những lời khuyên của cha. Trước khi nàng được gả đi, cha đã dặn dò nàng sang nhà chồng phải biết hiếu kính với nhà chồng, phải đảm đang việc nhà, làm tròn đạo dâu, đạo vợ. Nếu không, nàng sẽ chịu những điều tiếng không hay.

Một tuần sau, Vũ Thị Thiết đã chính thức trở thành vợ của Trương Sinh. Từ khi bước vào nhà họ Trương, nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính là mẹ của nàng, nên nàng sẽ chăm sóc và phụng dưỡng như chính người thân máu mủ của mình.

Cuộc sống thời gian đầu hôn nhân cũng được coi là êm ấm. Nhưng rồi, biến cố đã xảy ra và chia cắt nàng với chồng. Cũng chính đây là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan sâu nặng của nàng sau này.

Năm ấy, giặc Chiêm xâm lược nước ta, triều đình phải kêu gọi binh lính đi chiến đấu, mà Trương Sinh vì không học nên đã bị bắt đi lính. Buổi chia ly giữa Vũ Thị Thiết với Trương Sinh diễn ra một cách đầy nước mắt bởi sự lưu luyến, không muốn rời xa. Trương Sinh đã dặn dò nàng ở nhà phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, đảm đương việc nhà chu toàn đợi chàng trở về.

Khi ấy, cả hai sẽ lại được đoàn tụ và cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho riêng mình. Dẫu rất buồn rầu, hơn ai hết nàng hiểu rõ sự nguy hiểm của chuyến đi này, và sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha ai bao giờ.

Nàng bày tỏ nguyện vọng của mình trong nước mắt, nàng chẳng cầu chồng mang áo gấm phong hầu trở về, chỉ mong rằng chồng nàng có thể bình an, mạnh khỏe mà quay về đoàn tụ với gia đình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…”

Thế rồi, Trương Sinh lên đường ra trận. Trong nhà, Vũ Thị Thiết vừa chăm lo cho mẹ già, lại nuôi nấng cho đứa con nhỏ vừa mới sinh sau khi chồng đi. Nhưng nàng chẳng hề than thở hay trách cứ, nàng chỉ yên lặng chăm lo ruộng vườn, chăm lo người thân. Chuyện gì nàng cũng hoàn thành một cách chu toàn, không cầu được công nhận, chỉ mong ngày chồng trở về.

Mẹ chồng nàng bị ốm nặng, nàng cũng không kêu than mà rời mẹ nửa bước. Nàng cố gắng chăm lo mẹ, động viên mẹ vượt qua bạo bệnh, đợi này chồng trở về. Biết mình không thể qua khỏi cơn bệnh này, mẹ chồng nàng đã nói nàng không cần lãng phí tiền bạc nữa, nhưng nàng vẫn một mực chăm sóc đủ đầy, đến mức mẹ chồng nàng phải hết lời khen ngợi nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.

Một thời gian sau, mẹ chồng Vũ Thị Thiết mất. Nàng đã lo cho việc hậu sự một cách chu đáo thay cho chồng. Ngôi nhà nhỏ giờ chỉ còn có hai mẹ con. Vì thấm thía nỗi đau không có được sự che chở trọn vẹn của cha và mẹ, nên nàng luôn mong muốn con được hạnh phúc, lại càng không muốn con phải ghen tị với bạn vì có cả cha lẫn mẹ.

Vì thế, nàng đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào bóng của mình trên tường và dối con rằng đó là ba của Đản. Nhưng nàng cũng chẳng thể ngờ được, lời nói dối để con vơi đi nỗi nhớ cha, cũng giúp mình nguôi ngoai nỗi nhớ chồng lại đẩy nàng vào bi kịch với oan khuất nhất đời.

Trương Sinh trở về, nhưng bé Đản lại không nhận ông là cha. Chàng ta liền nói với Đản rằng mình là cha của bé, nhưng Đản lại kể với Trương Sinh về một người cha tối nào cũng đến thăm mẹ con bé. Vốn tính đa nghi, cộng thêm lời trẻ thơ dại, Trương Sinh liền nổi giận đùng đùng nghi ngờ vợ hư hỏng. Trong cơn giận dữ, Trương Sinh đã lớn tiếng chửi mắng, kết tội và đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho nàng cố gắng giải thích và sự bao che của bà con làng xóm.

Vì quá đau khổ, nàng lại chẳng có cơ hội nào để giải thích, nên nàng đã đi ra sông Hoàng Giang trẫm mình tự vẫn để giải oan cho chính mình. Khi đó, nàng đã gặp được Linh Phi là vợ của đức Long Quân cứu giúp. Cuộc sống nàng lại bắt đầu với những ngày tháng sống cùng Linh Phi. Tưởng như nỗi đau năm nào đã nguôi ngoai, nào ngờ chỉ cần chạm nhẹ lại vào vết sẹo năm xưa, mọi ký ức lại hiện về

Nàng tình cờ gặp được một người bà con của mình ở đây. Nhớ lại nỗi oan chưa được giải của mình, nàng liền nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh. Về phần Trương Sinh, sau khi biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh liền lập đàn trên sông Hoàng Giang để giải oan cho sợ. Vũ Thị Thiết hiện về giữa sông. Cảm thấy nỗi oan đã được giải trừ, nàng cũng chẳng hề oán trách chồng mình, nhưng cũng chẳng thiết tha trở về với cuộc sống cũ nữa. Vì thế, nàng đã nói lời cuối với Trương Sinh rồi biến mất trong lòng sông.

Cái kết của câu chuyện này có lẽ không quá có hậu, nhưng nó lại là cách hợp lý nhất giúp cho câu chuyện thêm phần đáng tin và không mất đi kết quả hiện thực. Nhưng dẫu sao, Vũ Nương trong chuyện cũng đã được giải oan. Đó chính là niềm an ủi lớn nhất, mang tính nhân văn sâu sắc nhất. Đồng thời, câu chuyện cũng chính là lời cáo buộc tội ác của xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã cướp đi quyền được hạnh phúc của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc (mẫu 5)

Ngày xửa ngày xưa, ở một khu rừng xa xôi, có một chú Khỉ và một chú Gấu sống gần nhau. Cả hai chú đều thích nhau và trở thành bạn thân. Một ngày, khi họ đang vui chơi, chú Khỉ và chú Gấu bắt đầu tranh cãi về việc ai mạnh mẽ hơn.

Cuộc tranh cãi này dẫn đến một ý tưởng mới: cuộc thi thi đấu sức mạnh giữa chú Khỉ và chú Gấu. Cả hai đều đồng ý với cuộc thi và bắt đầu chuẩn bị. Bài kiểm tra của cuộc thi là đẩy một tảng đá lớn qua một con suối sâu.

Chú Khỉ, do sự linh hoạt và nhanh nhẹn của mình, đã bắt đầu rất tốt. Anh ta nhảy lên tảng đá và cố gắng đẩy nó qua suối. Tuy nhiên, do sự nhẹ nhàng và khéo léo, chú Gấu đã đưa ra một chiến thuật khác: anh ta chen vào dưới tảng đá và đẩy nó lên từ phía dưới.

Chú Khỉ, mặc dù có sức mạnh, nhưng không thể kiểm soát đối tượng lớn và không linh hoạt như chú Gấu. Cuộc đua diễn ra khá lâu và gặp không ít khó khăn, nhưng cuối cùng, chú Gấu với chiến thuật thông minh của mình đã đẩy tảng đá qua suối.

Chú Gấu không chỉ chiến thắng cuộc thi, mà còn giành được sự tôn trọng của chú Khỉ. Chú Khỉ, sau khi nhận ra sự quan trọng của sự thông minh và sự kiên nhẫn, biết ơn chú Gấu và cả hai trở nên thân thiết hơn.

Truyện này mang đến cho chúng ta bài học về sự quan trọng của sự thông minh và kiên nhẫn. Đôi khi, sức mạnh không chỉ đến từ cơ bắp mà còn từ khả năng nghĩ cách và kiên trì.

1 8,741 05/02/2025