Chương 5 Nghị định 54-CP: Xử lý các vi phạm và giải quyết các khiếu nại
Số hiệu: | 54-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 28/08/1993 | Ngày hiệu lực: | 01/09/1993 |
Ngày công báo: | 31/10/1993 | Số công báo: | Số 20 |
Lĩnh vực: | Xuất nhập khẩu, Thuế - Phí - Lệ Phí | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2006 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Tổ chức, cá nhân nào chậm nộp thuế thì mỗi ngày chậm nộp bị phạt 0,2% (hai phần nghìn) số tiền nộp chậm.
a) Thời hạn để xác định ngày chậm nộp thuế đối với các trường hợp hàng xuất khẩu, nhập khẩu quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 1 Nghị định này:
a.1. Quá 15 ngày đối với hàng xuất khẩu kể từ ngày tổ chức và cá nhân nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp.
a.2. Quá 30 ngày đối với hàng nhập khẩu kể từ ngày tổ chức và cá nhân nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp.
a.3. Quá 90 ngày đối với hàng hoá là vật tư nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu kể từ ngày tổ chức và cá nhân nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp.
b) Các trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu hàng quy định tại các khoản 6, 7, 8, 9 Điều 1 Nghị định này phải nộp ngay thuế trước khi xuất khẩu hàng ra nước ngoài hoặc nhập khẩu hàng vào Việt Nam.
2. Trường hợp quá thời hạn 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế quy định tại các điểm a.1, a.2 khoản 1 Điều này và 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế quy định tại điểm a.3 khoản 1 Điều này, đối tượng nào chưa nộp xong thuế thì cơ quan Hải quan không được làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu cho chuyến hàng tiếp theo, đồng thời thông báo cho Bộ Thương mại để ngừng cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu cho đến khi nộp đủ số thuế nợ quá hạn.
3. Đối tượng nộp thuế có hành vi gian lậu thuế thì ngoài số tiền thuế phải nộp, tuỳ theo mức độ vi phạm còn bị phạt tiền bằng từ 2 đến 5 lần số thuế gian lậu.
4. Cá nhân có hành vi trốn thuế đã bị xử lý hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều này mà còn tái phạm, hoặc trốn thuế với số lượng lớn hoặc phạm tội trong các trường hợp nghiêm trọng khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật Hình sự.
Khi lý do miễn, giảm thuế đã thay đổi mà đối tượng nộp thuế không thực hiện đúng quy định về thời hạn khai báo theo quy định tại Điều 15 Nghị định này thì mỗi ngày quá hạn bị phạt 0,2% (hai phần nghìn) số thuế phải nộp và nếu tiếp tục vi phạm các quy định về thời hạn nộp thuế, gian lậu thuế thì sẽ bị phạt theo quy định tại Điều 17 Nghị định này.
Trong các trường hợp đối tượng nộp thuế không đồng ý với quyết định xử phạt của cơ quan thu thuế quy định tại khoản 1 và 3 Điều 17 Nghị định này thì vẫn phải chấp hành biện pháp xử phạt đó, nhưng có quyền khiếu nại lên Tổng cục Hải quan. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Tổng cục Hải quan phải giải quyết xong. Nếu vẫn không đồng ý cách giải quyết của Tổng cục Hải quan thì đối tượng nộp thuế có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trong thời hạn 30 ngày, Bộ trưởng Bộ Tài chính phải giải quyết xong, quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính là quyết định cuối cùng.
Cán bộ thuế và các cá nhân khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng, tham ô tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thì phải bồi thường cho Nhà nước toàn bộ số tiền đã chiếm dụng, tham ô và tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Cán bộ thuế, cá nhân khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao che cho người vi phạm hoặc cố ý làm trái quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Cán bộ thuế do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố tình xử lý sai, gây thiệt hại cho người nộp thuế thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Bộ Tài chính quy định cụ thể các hành vi vi phạm quy định tại Điều này.
DEALING WITH BREACHES AND RESOLVING COMPLAINTS
Dealing with breaches as provided for in article 20 of the Law on Export and Import Duty shall be stipulated as follows:
1. Where the payment of duty is overdue, the organizations which, and individuals who, are liable for the duty shall pay a fine of one fifth of one (0.2) per cent of the overdue amount in respect of each day of delay.
(a) In the cases of exports and imports referred to in clauses 1, 2, 3, 4 and 5 of article 1 of this Decree, the time for payment of duty shall be as follows:
- within fifteen (15) days from the date the organization which, or individual who, is liable for the export duty receives official notification of the amount to be paid from the tax office.
- within thirty (30) days from the date the organization which, or individual who, is liable for the import duty receives official notification of the amount to be paid from t he tax office.
- within ninety (90) days from the date the organization which, or individual who, imports materials and raw materials for the manufacture of exports receives official notification of the amount to be paid from the tax office.
(b) In the cases of exports and imports referred to in clauses 6, 7, 8 and 9 of article 1 of this Decree, the person liable for the duty must pay it before the goods are exported from or imported into Vietnam.
2. Where the person liable for payment of duty delays payment for more than ninety (90) days from the date of receipt of official notification from the tax office, the customs office shall suspend processing of the next consignment of that person and, at the same time, notify the Ministry of Trade. When the Ministry of Trade receives notification from the customs office it shall suspend the issuance of licences for export or import of goods to that person until all outstanding duty is paid as confirmed by the customs office.
3. Any person liable for duty who is fraudulent in relation to payment of duty shall be fined an amount which is between two to five times the amount of duty which was the subject of the fraud.
4. Any person who continues to evade the payment of duty after being subject to administrative punishment in accordance with the provisions of clause 3 of this article, who evades payment of a large amount of duty, or who commits a serious breach shall be prosecuted for criminal responsibility pursuant to the provisions of article 169 of the Criminal Code.
In the event that the original basis upon which an exemption of duty or reduction of duty was granted is changed, and the party concerned fails to notify the tax office as provided for in article 15 of this Decree, the party concerned shall pay a fine of one fifth of one (0.2) per cent of the amount of duty payable per day and, if the party continues to breach the provisions on the payment of overdue duty or fraudulent conduct, he or she shall be penalised in accordance with the provisions o f article 17 of this Decree.
Where a person liable for duty disagrees with a fine imposed by the tax office as provided for in clauses 1 and 3 of article 17, he shall pay the fine and may, at the same time, lodge a claim for review with the General Department of Customs. Within twenty (20) days from the date of receipt of the application for review, the General Department of Customs must fully resolve the matter. If the person disagrees with the decision of the General Department of Customs, he may lodge a claim for review with the Minister of Finance. Within thirty (30) days, the Minister of Finance must fully resolve the matter and the decision of the Minister of Finance shall be final.
Any tax officer or individual who takes advantage of his position and power to appropriate or embezzle duty paid on dutiable exports or imports shall repay to the State the appropriated or embezzled amount and shall, depending on the seriousness of the breach, be subject to administrative punishment or be prosecuted for criminal responsibility as provided by the law.
Any tax officer or individual who takes advantage of his position and power to protect those who breach their export and import duty obligations, or who deliberately breaches the Law on Export and Import Duties shall, depending on the seriousness of the breach, be subject to administrative punishment or be prosecuted for criminal responsibility as provided by the law.
Any tax officer who is irresponsible or intentionally deals with a case in an unlawful manner which results in damage being suffered by the taxpayer or person affected shall pay compensation to that person.
The Ministry of Finance shall issue basic provisions in relation to breaches of the law as stipulated in this article.