Chương 5 Nghị định 138/2004/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong hải quan : Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Số hiệu: | 138/2004/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 17/06/2004 | Ngày hiệu lực: | 13/07/2004 |
Ngày công báo: | 28/06/2004 | Số công báo: | Số 33 |
Lĩnh vực: | Xuất nhập khẩu, Vi phạm hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2007 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Trường hợp áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 100.000 đồng thì thủ tục xử phạt thực hiện theo quy định tại Điều 54 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
Đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan không thuộc trường hợp quy định tại Điều 31 Nghị định này, người có thẩm quyền xử phạt phải kịp thời lập biên bản theo quy định. Nếu người lập biên bản không có thẩm quyền xử phạt thì người có thẩm quyền xử phạt phải ký tên vào biên bản; trường hợp cần thiết thì tiến hành xác minh trước khi ký biên bản.
Hình thức, nội dung, trình tự lập biên bản thực hiện theo quy định tại Điều 55 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
Hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thực hiện theo quy định tại Điều 56 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
1. Hàng hoá nhập khẩu quá thời hạn 90 ngày, kể từ ngày hàng hoá tới cửa khẩu dỡ hàng mà không có người đến làm thủ tục hải quan thì người có thẩm quyền tại các khoản 2, 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở Hải quan. Trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu không có người đến làm thủ tục hải quan thì người có thẩm quyền quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải ra quyết định tịch thu hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm theo quy định.
2. Trường hợp không xác định được chủ sở hữu của tang vật, phương tiện vi phạm, người có thẩm quyền quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải thông báo về việc này trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở Hải quan. Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà vẫn không có người đến nhận thì người có thẩm quyền quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải ra quyết định tịch thu hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm theo quy định.
3. Hàng hoá nhập khẩu không đúng giấy phép, hợp đồng, vận tải đơn hoặc lược khai hàng hoá mà người nhận hàng từ chối nhận, thì xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Người có thẩm quyền quy định tại các khoản 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải thông báo cho cá nhân, tổ chức có trách nhiệm về trường hợp hàng hoá theo quy định phải tái xuất hoặc buộc phải đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Quá thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan hải quan mà hàng hoá vẫn chưa được tái xuất hoặc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì người có thẩm quyền quy định tại các khoản 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải ra quyết định tịch thu hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm theo quy định, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
1. Khi áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, người có thẩm quyền xử phạt quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 22 Nghị định này phải thực hiện đúng thủ tục tịch thu quy định tại Điều 60 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
2. Người ra quyết định tịch thu có trách nhiệm bảo quản và phân loại tang vật, phương tiện vi phạm để chuyển giao cho cơ quan tài chính cấp quận, huyện hoặc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tỉnh, thành phố bán đấu giá theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và các Điều 32, 33, 34 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
3. Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu là văn hoá phẩm độc hại, hàng giả không có giá trị sử dụng, hàng hoá gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng thì bị tiêu hủy theo quy định tại Điều 21 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
4. Tang vật vi phạm là hàng hoá dễ bị hư hỏng thì xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 61 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt. Việc nộp tiền phạt được thực hiện theo quy định tại Điều 58 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
2. Cá nhân, tổ chức đã nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành theo quy định.
3. Việc hoãn chấp hành quyết định phạt tiền thực hiện theo quy định tại Điều 65 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
1. Việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính thực hiện theo các biện pháp sau:
a) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng;
b) Kê biên tài sản có trị giá tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
c) Tạm đình chỉ làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và phương tiện vật tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cho tới khi thi hành xong quyết định xử phạt.
d) Các biện pháp cưỡng chế khác quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 66 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính trừ biện pháp buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
2. Trước khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế quy định tại các điểm b, d khoản 1 Điều này, cơ quan hải quan phải thông báo bằng văn bản cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường, xã, thị trấn nơi thực hiện việc cưỡng chế để phối hợp thực hiện.
3. Chỉ những người được quy định tại Điều 67 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính mới có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế và có nhiệm vụ tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt.
4. Khi được cơ quan hải quan yêu cầu, các đơn vị quản lý, kinh doanh có cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế chấp hành quyết định xử phạt có trách nhiệm thực hiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
5. Các cơ quan Tài chính, Ngân hàng, Công an, Bộ đội Biên phòng và chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm phối hợp để thực hiện quyết định cưỡng chế của cơ quan hải quan.
6. Cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí về việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế.
ADMINISTRATIVE VIOLATION-SANCTIONING PROCEDURES
Article 30.- Stopping administrative violations
Upon detecting administrative violations, the persons with sanctioning competence must issue decisions to immediately stop such violation acts. The stoppage decisions can be made in writing or expressed in words, whistle, signals or other forms, depending on each specific violation case.
Article 31.- Simple procedures
Where the sanctioning form of caution or fine of up to VND 100,000, the sanctioning procedures shall comply with the provisions in Article 54 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
Article 32.- Making records on administrative violations
For administrative violations in the customs domain which do not fall into the cases prescribed in Article 31 of this Decree, the persons with sanctioning competence must promptly make records thereon according to regulations. If the record makers have no sanctioning competence, the persons having the sanctioning competence must sign their names in the records; in case of necessity, verification shall be made before signing the records.
Forms and contents of, and order of making, the records shall comply with the provisions in Article 55 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
Article 33.- Sanctioning decisions
The forms and contents of, the order and procedures for promulgating, decisions to sanction administrative violations in the customs domain shall comply with the provisions in Article 56 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
Article 34.- Handling of cases where import goods are not cleared from customs procedures within the prescribed time limits or are compelled to be taken out of the Vietnamese territory or re-exported
1. If past 90 days counting from the date the goods arrive at the unloading border-gates nobody comes to carry out the customs procedures, the competent persons defined in Clause 2, 3 and 4 of Article 22 of this Decree must announce such on the mass media or publicize it at customs offices. Within 180 days counting from the date of such announcement, if nobody comes to carry out the customs procedures, the competent persons defined in Clauses 2, 3 and 4 of Article 22 of this Decree must issue decisions to confiscate or destroy the violation material evidences according to regulations.
2. Where the owners of violation material evidences or means cannot be identified, the competent persons defined in Clauses 2, 3 and 4 of Article 22 of this Decree must announce such on the mass media and publicize it at customs offices. If after 30 days counting from the date of such announcement nobody comes to claim them, the competent persons defined in Clauses 2, 3 and 4 of Article 22 of this Decree must issue decisions to confiscate or destroy the violation material evidences or means according to regulations.
3. Goods imported at variance with permits, contracts, bills of lading or brief declarations, which are disclaimed by good consignees, shall be handled according to the provisions in Clause 2 of this Article.
4. The competent persons defined in Clause 3 and 4 of Article 22 of this Decree must notify responsible individuals or organizations of the cases where, according to regulations, goods must be re-exported or taken out of the Vietnamese territory. If past 30 days counting from the date of receiving the notification of the customs offices, the goods are not yet re-exported nor taken out of the Vietnamese territory, the competent persons defined in Clauses 3 and 4 of Article 22 of this Decree must issue decisions to confiscate or destroy the violation material evidences according to regulations, except for cases of having plausible reasons.
Article 35.- Procedures for confiscating and handling material evidences and means of administrative violations
1. When applying the form of confiscation of material evidences and/or means of administrative violations in the customs domain, the persons with sanctioning competence, defined in Clauses 2, 3 and 4 of Article 22 of this Decree must strictly comply with the confiscation procedures prescribed in Article 60 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
2. Persons issuing confiscation decisions shall have to preserve and classify the violation material evidences and means for transferring them to the district-level finance agencies or the provincial/municipal auction service centers according to the provisions in Clause 1, Article 61 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations and Articles 32, 33 and 34 of the Government’s Decree No. 134/2003/ND-CP of November 14, 2003 detailing the implementation of a number of articles of the 2002 Ordinance on Handling of Administrative Violations.
3. The confiscated material evidences and/or means of administrative violations, which are harmful cultural products, fake goods with no use value or goods harmful to human health, domestic animals and/or crops, shall be destroyed according to the provisions in Article 21 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
4. Violation material evidences, which are easy-to-decay goods, shall be handled according to the provisions in Clause 3, Article 61 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
Article 36.- Execution of sanctioning decisions and postponing the execution of fining decisions
1. Individuals and organizations sanctioned for administrative violations must execute the decisions on sanctioning such administrative violations within 10 days counting from the date of receiving the sanctioning decisions. The payment of fines shall comply with the provisions in Article 58 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
2. Individuals and organizations that have received the administrative violation- sanctioning decisions but failed to voluntarily execute them shall be coerced to execute them according to regulations.
3. The postponement of execution of fining decisions shall comply with the provisions in Article 65 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.
Article 37.- Measures to coerce the execution of sanctioning decisions
1. The coercive execution of administrative violation-sanctioning decisions shall comply with the following measures:
a) Deducting part of wages or incomes, deducting money from bank accounts;
b) Distraining assets with value equivalent to the fine amounts for auction;
c) Suspending the customs procedures for export/import goods, exit, entry or transit means of transport till the sanctioning decisions are completely served.
d) Other coercive measures prescribed at Point c, Clause 1, Article 66 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations, except for measures of forcible dismantlement of illegally-constructed works.
2. Before applying the coercive measures prescribed at Points b and d of Clause 1 of this Article, the customs offices must notify such in writing to the presidents of the People’s Committees of the wards, communes or district townships where the coercion shall be applied for implementation coordination.
3. Only the persons defined in Article 67 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations can issue coercion decisions and have the task to organize the coercive execution of sanctioning decisions.
4. When requested by customs offices, the management or business units having individuals or organizations that are forced to execute sanctioning decisions shall have to comply with the provisions at Point a of Clause 1 of this Article.
5. The finance bodies, banks, police, border guards and the local administrations at all levels shall have to coordinate with one another for the execution of coercion decisions of customs offices.
6. The coerced individuals and organizations must bear all expenses for the organization of execution of coercive measures.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực