Chương III Luật về Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003: Hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội
Số hiệu: | 05/2003/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 17/06/2003 | Ngày hiệu lực: | 01/08/2003 |
Ngày công báo: | 18/07/2003 | Số công báo: | Số 95 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: | Hết hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội - Ngày 17/06/2003, Quốc hội đã ban hành Luật số 05/2003/QH11, về hoạt động giám sát của Quốc hội. Theo đó, Quốc hội giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao...Đoàn đại biểu Quốc hội sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân... Trong việc xem xét kết quả giám sát Quốc hội có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ nếu phat hiện có sai phạm... Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/08/2003.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
1. Xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
2. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
3. Xem xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
4. Xem xét báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
5. Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
6. Tổ chức Đoàn giám sát.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình căn cứ vào chương trình giám sát của Quốc hội, đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước.
Căn cứ vào chương trình giám sát đã được thông qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân công thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện các nội dung trong chương trình; có thể giao Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thực hiện một số nội dung thuộc chương trình và báo cáo kết quả với Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quyết định tiến độ thực hiện và các biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình giám sát.
1. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; yêu cầu các cơ quan này báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết.
2. Báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra trước khi trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo theo trình tự sau đây:
a) Người đứng đầu cơ quan quy định tại khoản 1 Điều này trình bày báo cáo;
b) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Đại diện các cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
đ) Người đứng đầu cơ quan trình báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội quan tâm;
e) Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết.
1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội quyết định xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao cho Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội chuẩn bị ý kiến về văn bản quy phạm pháp luật đó để báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật quy định tại khoản 1 Điều này theo trình tự sau đây:
a) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày ý kiến;
b) Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
c) Người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản trình bày ý kiến;
d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quyết định huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất.
1. Việc trả lời chất vấn tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội được thực hiện như sau:
a) Chủ tịch Quốc hội nêu chất vấn của đại biểu Quốc hội đã được Quốc hội quyết định cho trả lời tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và những chất vấn khác được gửi tới Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
b) Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục;
c) Đại biểu Quốc hội đã chất vấn có thể được mời tham dự phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phát biểu ý kiến. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội có chất vấn không tham dự phiên họp thì nội dung trả lời chất vấn, kết quả phiên họp trả lời chất vấn phải được gửi tới đại biểu đó chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nếu đại biểu Quốc hội có chất vấn không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội đưa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc hội.
2. Sau khi nghe trả lời chất vấn, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội quyết định xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao cho Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội chuẩn bị ý kiến về nghị quyết đó để báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét nghị quyết quy định tại khoản 1 Điều này theo trình tự sau đây:
a) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày ý kiến;
b) Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
c) Chủ tịch Hội đồng nhân dân nơi đã ra nghị quyết được mời tham dự phiên họp và trình bày ý kiến;
d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Hàng năm, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi báo cáo hoạt động của mình đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Khi xét thấy cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và ra nghị quyết về hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật.
Trình tự, thủ tục giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về bầu cử.
1. Căn cứ vào chương trình giám sát của mình hoặc theo yêu cầu của Quốc hội, đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc thành lập Đoàn giám sát phải xác định rõ nội dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Nội dung, kế hoạch giám sát của Đoàn giám sát được thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chậm nhất là bảy ngày, trước ngày Đoàn bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát.
2. Đoàn giám sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát trong nghị quyết về việc thành lập Đoàn giám sát;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà Đoàn giám sát quan tâm;
c) Xem xét, xác minh những vấn đề mà Đoàn giám sát thấy cần thiết;
d) Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật;
đ) Chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát phải có báo cáo kết quả giám sát gửi Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo của Đoàn giám sát theo trình tự sau đây:
1. Trưởng Đoàn giám sát trình bày báo cáo;
2. Đại diện cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
3. Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, đại diện Đoàn giám sát có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan;
4. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về vấn đề được giám sát. Nghị quyết này được gửi tới cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm, đồng thời yêu cầu người có thẩm quyền xem xét, giải quyết; nếu không đồng ý với việc giải quyết của người đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phải báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết.
Căn cứ vào kết quả giám sát, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có các quyền sau đây:
1. Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất;
2. Quyết định huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
3. Kiến nghị với Quốc hội hoặc yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức, xử lý đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng;
4. Đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
5. Quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
6. Ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
7. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, kịp thời khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm;
8. Huỷ bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết định bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó.
SUPERVISORY ACTIVITIES OF THE NATIONAL ASSEMBLY STANDING COMMITTEE
Article 15.- Supervisory activities of the National Assembly Standing Committee
The National Assembly Standing Committee shall conduct supervision through the following activities:
1. Examining working reports of the Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy during the intervals between two National Assembly sessions;
2. Examining legal documents of the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy, which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee;
3. Examining the interpellated persons' replies to interpellations during the intervals between two National Assembly sessions;
4. Examining working reports of the provincial/municipal People's Councils; examining resolutions of the provincial/municipal People's Councils which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee;
5. Examining the settlement of complaints and denunciations of citizens;
6. Organizing supervising delegations.
Article 16.- Supervisory programs of the National Assembly Standing Committee
The National Assembly Standing Committee shall decide on its quarterly and annual supervisory programs, based on the supervisory programs of the National Assembly, the proposals of the Nationality Council, the Committees of the National Assembly, Associations of National Assembly deputies, National Assembly deputies or the Vietnam Fatherland Front Central Committee and the opinions and proposals of voters nationwide.
Basing itself on the approved supervisory programs, the National Assembly Standing Committee shall assign its members to materialize the contents in the programs; may assign a number of program contents to the Nationality Council and/or Committees of the National Assembly for implementation then reporting on the results to the National Assembly Standing Committee; and decide on the implementation progress and measures to ensure the implementation of supervisory programs.
Article 17.- Examining reports of the Government, the Supreme People's Court, the Supreme People's Procuracy
1. During the intervals between two National Assembly sessions, the National Assembly Standing Committee shall examine working reports of the Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy; request these agencies to report on other issues when deeming it necessary.
2. The reports of the Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy shall be verified by the Nationality Council or the National Assembly's Committees before they are submitted to the National Assembly Standing Committee.
3. The National Assembly Standing Committee shall examine reports in the following order:
a) The heads of the agencies defined in Clause 1 of this Article present the reports;
b) The chairman of the Nationality Council or heads of the National Assembly's Committees present the verification report;
c) Representatives of the agencies or organizations, invited to attend the meeting, give speeches;
d) The National Assembly Standing Committee holds discussions;
e) The heads of the agencies presenting the reports may additionally present relevant matters which the National Assembly Standing Committee members are interested in;
f) The National Assembly Standing Committee issues resolutions on the works of the agencies which have presented the reports when deeming it necessary.
Article 18.- Examining legal documents which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly as well as ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee
1. The National Assembly Standing Committee examines on its own or at the requests of the Nationality Council, Committees of the National Assembly, Associations of National Assembly deputies or of National Assembly deputies the legal documents of the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy, which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly as well as ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee. The National Assembly Standing Committee assigns the Nationality Council or Committees of the National Assembly to prepare opinions on those legal documents for report to the National Assembly Standing Committee.
2. The National Assembly Standing Committee examines the legal documents prescribed in Clause 1 of this Article in the following order:
a) The chairman of the Nationality Council or the chairman of the concerned Committee of the National Assembly presents opinions;
b) The National Assembly Standing Committee holds discussions;
c) The heads of the agencies that have promulgated such legal documents present opinions;
d) The National Assembly Standing Committee issues resolutions that the legal documents are not contrary to the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee; decides to annul parts or whole of the legal documents contrary to ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee; suspends the implementation of parts or whole of the legal documents contrary to the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly and submits them to the National Assembly for consideration and decision at its nearest session.
Article 19.- Answers to interpellations at meetings of the National Assembly Standing Committee
1. The answers to interpellation at meetings of the National Assembly Standing Committee shall be carried out as follows:
a) The National Assembly chairman puts forth interpellations of National Assembly deputies, which have been decided by the National Assembly to be answered at the meetings of the National Assembly Standing Committee and other questions forwarded to the National Assembly Standing Committee during the interval between two National Assembly sessions;
b) The interpellated persons answer directly and fully the contents of issues questioned by National Assembly deputies and clearly determine the responsibility therefor and remedial measures;
c) The interpellating National Assembly deputies may be invited to attend meetings of the National Assembly Standing Committee and give their opinions. In cases where they fail to attend such meetings, the contents of the replies to questions and the results of the meetings on answers to interpellations must be sent to such deputies within no more than seven days as from the conclusion of the meetings of the National Assembly Standing Committee; if they disagree with the reply contents, they are entitled to request the National Assembly Standing Committee to put up for discussions at National Assembly sessions.
2. After hearing answers to interpellations, the National Assembly Standing Committee issues resolutions on the answer to interpellation and the responsibilities of the interpellated persons when deeming it necessary.
Article 20.- Examining resolutions of the provincial/municipal People's Councils, which show signs of contravening the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee
1. The National Assembly Standing Committee decides on its own or at proposals of the Prime Minister, the Nationality Council, Committees of the National Assembly, the Associations of National Assembly deputies or National Assembly deputies to examine resolutions of the provincial/municipal People's Councils, which show signs of contravening the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee. The National Assembly Standing Committee assigns the Nationality Council or Committees of the National Assembly to prepare opinions on those resolutions for report to the National Assembly Standing Committee.
2. The National Assembly Standing Committee examines the resolutions prescribed in Clause 1 of this Article in the following order:
a) The chairman of the Nationality Council or the chairman of the concerned Committee of the National Assembly presents opinions;
b) The National Assembly Standing Committee holds discussions;
c) The chairmen of the People's Councils where the resolutions were issued, who are invited to attend the meetings, present opinions;
d) The National Assembly Standing Committee issues resolutions that the resolutions of the provincial/municipal People's Councils are not contrary to the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee; decides to annul parts or whole of the resolutions of the provincial/municipal People's Councils, which are contrary to the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly, ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee.
Article 21.- Examining reports on activities of the provincial/municipal People's Councils
Annually, the provincial/municipal People's Councils send reports on their activities to the National Assembly Standing Committee.
When deeming it necessary, the National Assembly Standing Committee considers and issues resolutions on activities of the provincial/municipal People's Councils.
Article 22.- Supervising the elections of National Assembly deputies, People's Council deputies
The National Assembly Standing Committee supervises the elections of deputies to the National Assembly and deputies to the People's Councils of all levels, ensuring that the elections are carried out in a democratic and lawful manner.
The order and procedures for supervising the elections of deputies to the National Assembly and deputies to the People's Councils of all level shall comply with the law provisions on elections.
Article 23.- Organizing supervising delegations of the National Assembly Standing Committee
1. Basing itself on its supervisory programs or at the request of the National Assembly, the proposals of the Nationality Council, the Committees of the National Assembly, Associations of National Assembly deputies or National Assembly deputies, the National Assembly Standing Committee decides to set up its supervising delegations.
The National Assembly Standing Committee's resolutions on setting up the supervising delegations must clearly define the supervision contents and plans, the composition of the supervising delegations and the to be-supervised agencies, organizations and/or individuals.
The supervising delegations' supervision contents and plans shall be notified to the to be-supervised agencies, organizations and/or individuals at least seven days before the delegations carry out the supervisory activities.
2. The supervising delegations have the following tasks and powers:
a) To strictly comply with the supervision contents and plans stated in the resolutions on setting up the supervising delegations;
b) To request the supervised agencies, organizations and/or individuals to report in writing, to supply information and documents related to the supervision contents, explain matters which the supervising delegations are interested in;
c) To examine and verify matters which the supervising delegations deem necessary;
d) When detecting acts of law violation, which cause harms to the interests of the State, the legitimate rights and interests of organizations and/or individuals, the supervising delegations may request the concerned agencies, organizations and/or individuals to apply measures to timely put an end to the violation acts and restore the interests of the State, the legitimate rights and interests of the infringed organizations and/or individuals; request competent agencies, organizations and/or individuals to examine the responsibilities of the agencies, organizations and/or individuals committing acts of violation as provided for by law;
e) Within no more than fifteen days after the conclusion of the supervisory activities, the supervising delegations must send the supervision reports to the National Assembly Standing Committee for consideration and decision.
Article 24.- Examining reports of the supervising delegations of the National Assembly Standing Committee
The National Assembly Standing Committee examines the reports of its supervising delegations in the following order:
1. The delegation heads present the reports;
2. The representatives of agencies and/or organizations, invited to attend the meetings, give their opinions;
3. The National Assembly Standing Committee holds discussions.
In the course of discussion, the representatives of the supervising delegations may additionally present the relevant matters;
4. The National Assembly Standing Committee issues resolutions on the supervised issues. Those resolutions shall be sent to the supervised agencies, organizations and/or individuals.
Article 25.- The National Assembly Standing Committee's supervision of the settlement of complaints and denunciations
The National Assembly Standing Committee supervises the implementation of the legislation on complaints and denunciations; examines reports of the Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy on settlement of complaints and denunciations; organizes supervising delegations or assigns the Nationality Council or Committees of the National Assembly to supervise the settlement of complaints and denunciations.
When detecting acts of law violation, which cause harms to the interests of the State, the legitimate rights and interests of organizations and/or individuals, the National Assembly Standing Committees requests competent agencies, organizations and/or individuals to apply measures to timely put an end to acts of law violation, examine the responsibilities, handle the violators, restore the interests of the State, the legitimate rights and interests of the infringed organizations and/or individuals, and at the same time requests competent persons to consider and settle them; if disagreeing with the settlement by such persons, requests the heads of the immediate superior agencies or organizations to consider and settle them. The concerned agencies, organizations and individuals shall have to meet the requests of the National Assembly Standing Committee and report to the latter within seven days as from the date the settlement decisions are issued.
Article 26.- The National Assembly Standing Committee's competence in examining the supervision results
Based on the supervision results, the National Assembly Standing Committee has the following rights:
1. To suspend the implementation of parts or whole of the legal documents of the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy, which are contrary to the Constitution, laws, resolutions of the National Assembly and propose the National Assembly to consider and decide on the annulment of parts of whole of those legal documents at its nearest session;
2. To decide on the annulment of parts or whole of the legal documents of the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procurary, which are contrary to ordinances and/or resolutions of the National Assembly Standing Committee;
3. To propose the National Assembly or to request the competent agencies or individuals to relieve from duty, remove from office or dismiss, handle persons who commit serious law violations;
4. To propose the National Assembly to organize votes of confidence on persons holding positions elected or ratified by the National Assembly;
5. To decide on annulment of parts or whole of the erroneous resolutions of the provincial/municipal People's Councils; to dissolve the provincial/municipal People's Councils in cases they cause serious damage to the people's interests;
6. To issue resolutions on the answer to interpellation and the responsibilities of the interpellated persons when deeming it necessary;
7. To request competent agencies, organizations and/or individuals to apply measures to timely put an end to acts of law violation, examine the responsibilities, handle violators, timely restore the interests of the State, the legitimate rights and interests of the infringed organizations and/or individuals;
8. To cancel the election of People's Council deputies at the election units where serious law violations are committed and decide on the re-election at such election units.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực