Chương II Luật về Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003: Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
Số hiệu: | 05/2003/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 17/06/2003 | Ngày hiệu lực: | 01/08/2003 |
Ngày công báo: | 18/07/2003 | Số công báo: | Số 95 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: | Hết hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
1. Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
2. Xem xét báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
4. Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
5. Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.
Quốc hội quyết định chương trình giám sát hàng năm của mình theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến chương trình giám sát của Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp cuối năm của năm trước và tổ chức thực hiện chương trình đó.
1. Tại kỳ họp cuối năm, Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác hàng năm của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến đại biểu Quốc hội; khi cần thiết, Quốc hội có thể xem xét, thảo luận.
Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Quốc hội, Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quốc hội có thể yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết.
2. Các báo cáo công tác quy định tại khoản 1 Điều này, trừ các báo cáo của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, phải được Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo theo trình tự sau đây:
a) Người đứng đầu cơ quan quy định tại khoản 1 Điều này trình bày báo cáo;
b) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Quốc hội thảo luận;
d) Người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà đại biểu Quốc hội quan tâm;
đ) Quốc hội ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết.
1. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất.
Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì đại biểu Quốc hội đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó; Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có trách nhiệm xem xét, trả lời đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước thì yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất.
2. Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo trình tự sau đây:
a) Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
b) Quốc hội thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan;
c) Quốc hội ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Tại kỳ họp Quốc hội, việc chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện như sau:
1. Đại biểu Quốc hội ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Chủ tịch Quốc hội để chuyển đến người bị chất vấn. Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch Quốc hội tổng hợp các chất vấn của đại biểu Quốc hội để báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kỳ họp và báo cáo Quốc hội quyết định;
3. Việc trả lời chất vấn tại phiên họp toàn thể của Quốc hội được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục;
b) Đại biểu Quốc hội có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời.
Thời gian trả lời chất vấn, thời gian nêu câu hỏi và trả lời thêm được thực hiện theo quy định tại Điều 43 của Nội quy kỳ họp Quốc hội;
4. Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
5. Người đã trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với các đại biểu Quốc hội bằng văn bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại kỳ họp tiếp theo.
1. Khi xét thấy cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban lâm thời do Quốc hội quyết định.
2. Quốc hội xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban lâm thời theo trình tự sau đây:
a) Chủ nhiệm Uỷ ban lâm thời trình bày báo cáo kết quả điều tra;
b) Quốc hội thảo luận;
c) Quốc hội ra nghị quyết về vấn đề đã được điều tra.
1. Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định sau đây:
a) Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc khi có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
b) Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước Quốc hội;
c) Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm.
2. Trong trường hợp người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm không được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người đó.
Căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc hội có các quyền sau đây:
1. Yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
2. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
3. Ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
4. Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
SUPREME SUPERVISORY ACTIVITIES OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Article 7.- Supervisory activities of the National Assembly
The National Assembly performs the supervision through the following activities:
1. Examining working reports of the State President, the National Assembly Standing Committee, the Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy;
2. Examining reports of the National Assembly Standing Committee on the situation of enforcement of the Constitution, laws and resolutions of the National Assembly;
3. Examining legal documents of the State President, the National Assembly Standing Committee, the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court or the Supreme People's Procuracy, which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly;
4. Examining interpellation replies of the State President, the National Assembly chairman, the Prime Minister, ministers and other members of the Government, the chief judge of the Supreme People's Court and/or the chairman of the Supreme People's Procuracy;
5. Setting up the Provisional Committee for investigating a certain issue and examining the report on investigation results of the Committee.
Article 8.- Supervisory programs of the National Assembly
The National Assembly decides on its annual supervisory programs at the proposals of the National Assembly Standing Committee, the Nationality Council, the Committees of the National Assembly, the Associations of National Assembly deputies, National Assembly deputies, the Vietnam Father Front Central Committee and at the opinions and proposals of the voters nationwide.
The National Assembly Standing Committee shall project the supervisory program of the National Assembly and submit it to the National Assembly for consideration and decision at the year-end session of the previous year and organize the implementation of such program.
Article 9.- Examining working reports
1. At year-end sessions, the National Assembly shall examine and discuss the annual working reports of the National Assembly Standing Committee, the Government, the Supreme People's Court, the Supreme People's Procuracy. At mid-year sessions, these agencies shall forward their working reports to National Assembly deputies; when necessary, the National Assembly may examine and discuss them.
At its term-end session, the National Assembly shall examine and discuss the working reports on the whole term of the National Assembly, the State President, the National Assembly Standing Committee, the Prime Minister, the chief judge of the Supreme People's Court, the chairman of the Supreme People's Procuracy.
The National Assembly may request the National Assembly Standing Committee, the Government, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy to report on other issues when deeming it necessary.
2. The working reports prescribed in Clause 1 of this Article, except the reports of the National Assembly, the National Assembly Standing Committee and the State President, must be verified by the Nationality Council and/or Committees of the National Assembly according to the assignment by the National Assembly Standing Committee.
3. The National Assembly shall examine and discuss reports in the following order:
a) The heads of the agencies defined in Clause 1 of this Article present the reports;
b) The chairman of the Nationality Council or the chairman of the concerned Committee of the National Assembly presents the verification report;
c) The National Assembly holds discussions;
d) The agency heads presenting the reports may additionally present relevant matters which the National Assembly deputies are interested in;
e) The National Assembly issues resolutions on the work of the agencies which have presented their reports when deeming it necessary.
Article 10.- Examining legal documents which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly
1. When detecting that legal documents of the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly, the National Assembly Standing Committee shall consider and suspend the implementation thereof and propose the National Assembly to consider and decide on the cancellation of parts or whole of such documents at its nearest session.
When detecting that legal documents of the National Assembly Standing Committees and/or the State President show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly, the National Assembly deputies shall propose the National Assembly Standing Committee and/or the State President to amend or annul parts or whole of such documents; the National Assembly Standing Committee and/or the State President shall have to examine them and reply the National Assembly deputies. In cases where the National Assembly deputies disagree with the replies of the National Assembly Standing Committee and/or the State President, they shall request the National Assembly Standing Committee to submit them to the National Assembly for consideration and decision at its nearest session.
2. The National Assembly examines legal documents of the National Assembly Standing Committee, the State President, the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy, which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly, in the following order:
a) The National Assembly Standing Committee submits to the National Assembly for consideration the legal documents which show signs of contravening the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly;
b) The National Assembly holds discussions.
In the course of discussions, the heads of the agencies which have promulgated such legal documents may additionally present relevant matters;
c) The National Assembly issues resolutions that the legal documents do not contravene the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly; decides to annul parts or whole of the legal documents which contravene the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly.
Article 11.- Interpellation and answers at sessions
At the National Assembly sessions, the interpellation and answers thereto shall be carried out as follows:
1. National Assembly deputies clearly write the interpellating contents and the to be- interpellated persons in the interpellation cards and send them to the National Assembly chairman for transfer to the interpellated persons. The session secretariat shall assist the National Assembly chairman in summing up the questions of National Assembly deputies for report to the National Assembly Standing Committee;
2. The National Assembly Standing Committee projects the list of persons responsible for answers to interpellations at the sessions and report it to the National Assembly for decision.
3. Answers to interpellations at plenary meetings of the National Assembly shall be carried out in the following order:
a) The interpellated persons shall answer directly and fully the contents of matters questioned by National Assembly deputies and clearly determine the responsibilities therefor as well as remedying measures;
b) National Assembly deputies may put questions related to the interpellated contents for the interpellated persons to answer.
The time for answer to interpellation, the time for putting questions and making additional answers shall comply with the provisions in Article 43 of the Internal Regulations of the National Assembly sessions;
4. After listening to answers, if National Assembly deputies disagree with the reply contents, they may propose the National Assembly to continue the discussions at such meetings, to put up for discussions at other meetings of the National Assembly or propose the National Assembly to consider the responsibility of the interpellated persons. The National Assembly shall issue resolutions on answers to interpellations and responsibilities of the interpellated persons when deeming it necessary;
5. Persons who have given answers to interpellations at National Assembly sessions, at meetings of the National Assembly Standing Committee or have given written answers to questions of National Assembly deputies shall have to report to the National Assembly deputies in writing the realization of matters they pledged in their answers to interpellations at the next session.
Article 12.- Setting up the Provisional Committee of the National Assembly
1. When deeming it necessary, the National Assembly Standing Committee shall propose on its own or at the request of the State President, the Prime Minister, the Nationality Council, the Committees of the National Assembly or National Assembly deputies the National Assembly to decide on the setting up of the Provisional Committee for investigation of a certain issue.
The tasks and powers of the Provisional Committee shall be decided by the National Assembly.
2. The National Assembly examines the reports on the results of investigation by the Provisional Committee in the following order:
a) The chairman of the Provisional Committee presents the report on investigation results;
b) The National Assembly holds discussion about it;
c) The National Assembly issues a resolution on the investigated issue.
Article 13.- The National Assembly organizes votes of confidence
1. The National Assembly shall organize votes of confidence on persons holding positions elected or ratified by the National Assembly according to the following regulations:
a) The National Assembly Standing Committee shall propose on its own or at the request of at least twenty percent (20%) of the total number of National Assembly deputies or the request of the Nationality Council or Committees of the National Assembly the National Assembly to organize votes of confidence on persons holding positions elected or ratified by the National Assembly;
b) Persons put up for votes of confidence are entitled to present their opinions before the National Assembly;
c) The National Assembly holds discussions and casts votes of confidence.
2. In cases where the persons put up for votes of confidence receive votes of confidence by less than half of the total number of the National Assembly deputies, the agencies or persons that nominated them for election to such positions or proposed the ratification thereof shall have to propose the National Assembly to consider and decide on the relief from duty or dismissal or ratify the relief from duty or dismissal of such persons.
Article 14.- The National Assembly's competence in examining the supervision results
Basing itself on the supervision results, the National Assembly shall have the following rights:
1. To request the National Assembly Standing Committee, the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court or the Supreme People's Procuracy to issue legal documents guiding the implementation of the Constitution, laws or resolutions of the National Assembly;
2. To annul parts or whole of legal documents of the State President, the National Assembly Standing Committee, the Government, the Prime Minister, the Supreme People's Court and/or the Supreme People's Procuracy, which are contrary to the Constitution, laws and/or resolutions of the National Assembly;
3. To adopt resolutions on answers to interpellations and responsibilities of the interpellated persons when deeming it necessary;
4. To relieve from duty or remove from office the State President, the State Vice-President, the National Assembly chairman, the National Assembly deputy-chairmen, members of the National Assembly Standing Committee, the Prime Minister, the chief judge of the Supreme People's Court and the chairman of the Supreme People's Procuracy; to ratify the relief from duty or dismissal of deputy-prime ministers, ministers and other members of the Government.