Chương 3 Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995: Thành lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước
Số hiệu: | 39-L/CTN | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 20/04/1995 | Ngày hiệu lực: | 30/04/1995 |
Ngày công báo: | 31/07/1995 | Số công báo: | Số 14 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2004 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước được thực hiện ở những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những ngành, lĩnh vực được ưu tiên xem xét khi thành lập mới doanh nghiệp nhà nước trong từng thời kỳ do Chính phủ quy định.
1- Thủ trưởng cơ quan sáng lập doanh nghiệp nhà nước là người đề nghị thành lập và tổ chức thực hiện các thủ tục đề nghị thành lập doanh nghiệp nhà nước.
2- Người đề nghị thành lập doanh nghiệp nhà nước phải lập và gửi hồ sơ đề nghị thành lập doanh nghiệp nhà nước đến người có quyền quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước; hồ sơ gồm:
a) Tờ trình đề nghị thành lập doanh nghiệp;
b) Đề án thành lập doanh nghiệp
c) Dự kiến mức vốn điều lệ;
d) Dự thảo điều lệ của doanh nghiệp;
đ) Giấy đề nghị cho doanh nghiệp sử dụng đất.
1- Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập các tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước độc lập có quy mô lớn hoặc quan trọng.
2- Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập các doanh nghiệp nhà nước không quy định tại Khoản 1 Điều này theo phân cấp của Chính phủ.
1- Trước khi quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước, phải lập hội đồng thẩm định để xem xét các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều này. Chính phủ quy định việc thành lập, thành phần, chế độ làm việc của Hội đồng thẩm định và trình tự thẩm định doanh nghiệp nhà nước.
2- Điều kiện để xem xét quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước gồm:
a) Có hồ sơ hợp lệ theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Luật này;
b) Đề án thành lập doanh nghiệp nhà nước bảo đảm tính khả thi và hiệu quả, phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu công nghệ và quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật;
c) Mức vốn điều lệ phù hợp với quy mô, ngành, nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động và không thấp hơn vốn pháp định do Chính phủ quy định: có chứng nhận của cơ quan tài chính về nguồn và mức vốn cấp;
d) Dự thảo điều lệ của doanh nghiệp không trái với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước;
đ) Có xác nhận đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về nơi đặt trụ sở và mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3- Trên cơ sở kết luận bằng văn bản của Hội đồng thẩm định, người có quyền quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước ra quyết định thành lập; trường hợp không chấp nhận thành lập doanh nghiệp, thì phải trả lời bằng văn bản trong thời hạn không quá 30 ngày (ba nươi ngày), kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
4- Việc bổ nhiệm Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị (nếu có), tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp phải được thực hiện trong thời hạn không quá 30 ngày (ba mươi ngày), kể từ ngày có quyết định thành lập doanh nghiệp.
1- Doanh nghiệp tiến hành đăng ký kinh doanh tại Uỷ ban kế hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: quyết định thành lập, điều lệ doanh nghiệp, giấy chứng nhận quyền sử dụng trụ sở chính của doanh nghiệp, quyết định bổ nhiệm Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp.
2- Trong thời hạn không quá 60 ngày (sáu mươi ngày), kể từ ngày có quyết định thành lập, doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh.
3- Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trong thời gian không quá 30 ngày (ba mươi ngày), kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng báo hàng ngày của trung ương hoặc địa phương trong năm số liên tiếp về các nội dung chính sau đây:
1- Tên, trụ sở chính của doanh nghiệp, họ và tên chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị (nếu có) và tổng giám đốc hoặc giám đốc;
2- Tên cơ quan ra quyết định và ngày ra quyết định thành lập doanh nghiệp, ngày và số đăng ký kinh doanh;
3- Mức vốn điều lệ;
4- Số tài khoản tiền gửi ngân hàng; số điện thoại, telex, fax (nếu có);
5- Lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh hoặc hoạt động;
6- Thời điểm bắt đầu hoạt động kinh doanh và thời hạn hoạt động.
1- Khi muốn đặt chi nhánh tại các tỉnh, thành phố khác trực thuộc trung ương, doanh nghiệp nhà nước phải có phương án hoạt động của chi nhánh và được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt chi nhánh chấp thuận bằng văn bản.
Chi nhánh của doanh nghiệp nhà nước không có tư cách pháp nhân; doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với chi nhánh của doanh nghiệp.
2- Trường hợp đặt văn phòng đại diện tại tỉnh, thành phố khác trực thuộc trung ương, doanh nghiệp nhà nước phải đăng ký với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt văn phòng đại diện.
3- Việc đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nhà nước tại nước ngoài được thực hiện theo các quy định của Chính phủ.
1- Các biện pháp áp dụng để tổ chức lại doanh nghiệp bao gồm: sáp nhập vào doanh nghiệp nhà nước khác, chia tách doanh nghiệp nhà nước và những biện pháp khác làm thay đổi mục tiêu hoạt động, hình thức tổ chức của doanh nghiệp.
2- Người đề nghị thành lập doanh nghiệp nhà nước phải lập phương án tổ chức lại doanh nghiệp. Người quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước phải lập Hội đồng thẩm định phương án tổ chức lại doanh nghiệp và ra quyết định tổ chức lại doanh nghiệp.
3- Việc áp dụng các biện pháp tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước quan trọng trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước mà dẫn đến thay đổi mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh, vốn điều lệ thì doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký lại hoặc đăng ký bổ sung với cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kinh doanh.
Doanh nghiệp nhà nước bị xem xét để giải thể trong các trường hợp sau đây:
1- Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập mà doanh nghiệp không xin gia hạn;
2- Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài nhưng chưa lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
3- Doanh nghiệp không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước quy định sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết;
4- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết.
1- Người quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước có quyền quyết định giải thể doanh nghiệp nhà nước.
2- Người quyết định thành lập doanh nghiệp phải lập Hội đồng giải thể. Hội đồng giải thể làm chức năng tham mưu cho người quyết định thành lập doanh nghiệp về việc quyết định giải thể doanh nghiệp nhà nước và tổ chức thực hiện quyết định giải thể doanh nghiệp nhà nước. Thành phần và quy chế làm việc của Hội đồng giải thể, trình tự và thủ tục thực hiện quyết định giải thể doanh nghiệp do Chính phủ quy định.
3- Các khiếu nại liên quan đến giải thể doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Việc giải quyết phá sản doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo Luật phá sản doanh nghiệp.
ESTABLISHMENT, REORGANIZATION, DISSOLUTION AND BANKRUPTCY OF A STATE ENTERPRISE
Section I. ESTABLISHMENT OF THE ENTERPRISE AND BUSINESS REGISTRATION
Article 13.- The establishment of a State enterprise is allowed in key and important sectors or areas likely to open the way and create conditions for other economic sectors to develop, promote the quick and sustainable development of the economy, regularize and guide the market economy along the socialist orientation.
The sectors and areas to be given priority at the time of the establishment of a new State enterpris in each period shall be decided by the Government.
1. The Head of the foundering agency of a State enterprise is the person who proposes and organizes the filling of the procedure for the establishment of such an enterprise.
2. The proposing person must compile and submit a dossier to that effect to the person having the right to decide the establishment of such an enterprise. The dossier includes:
a/ A report proposing the establishment;
b/ The plan of establishment;
c/ The proposed level of the statutory capital;
d/ The draft statute of the enterprise;
e/ Request for land use by the enterprise.
1. The Prime Minister decides the establishment or empowers the Minister of the controlling Ministry, or the President of the People's Committee of the province or city under the Central Government, to decide the establishment of State corporations, or independent State enterprises of a large size or of importance.
2. The Minister of the controlling Ministry, the President of the People's Committee of the province or city under the Central Government shall decide the establishment of State enterprises not defined in Item 1 of this Article, as assigned by the Government.
1. Before deciding to establish a State enterprise, it is necessary to set up an Appraisal Committee to consider the conditions stipulated in Item 2 of this Article. The Government provides regulations for the establishment, composition and working regime of the Appraisal Committee, and for the appraisal order concerning the State enterprise.
2. The conditions to consider a decision on the establishment of a State enterprise include:
a/ A duly formed dossier as prescribed by Item 2 of Article 14 of this Law;
b/ The plan for its establishment must ensure its feasibility and effectiveness, and be in keeping with the strategy and planning for socio-economic development laid down by the State, and satisfies the requirements of technology and the State regulations on environmental protection as well as other provisions of law;
c/ The level of the statutory capital is compatible with the scope, branch, business line, area of operation, and is not inferior to the prescribed capital defined by the Government; availability of a certificate issued by a financial agency about the source and level of the allocated fund;
d/ The draft statute of the enterprise shall not vary with the provisions of this Law and other provisions of laws with regard to State enterprises;
e/ The availability of a confirmation of approval by the competent State agency related to the site of the head office, and the location of production and business operations.
3. On the basis of a written conclusion by the Appraisal Committee, the person having the right to decide the establishment of a State enterprise shall issue a decision to this effect; in the event of non-approval, a written reply must be issued not later than 30 (thirty) days after receipt of the duly formed dossier.
4. The appointment of the Chairman and of all members of the Board of Management (if any), the Director General or Deputy Director General must be made within no more than 30 (thirty) days after the decision to establish the enterprise is made.
1. The enterprise shall register at the State Planning Committee of a province or city under the Central Government where the head office of the enterprise is located.
The dossier for business registration includes: the decision on the establishment, the business statute, the certificate of the right of use of the head office of the enterprise, the decision to appoint the Chairman and members of the Board of Management, the Director General or Director of the enterprise.
2. Within 60 (sixty) days after the decision to establish the enterprise is issued, the enterprise must make a business registration.
3. The State enterprise has a legal person status after obtaining the certificate of business registration.
Article 18.- Within 30 (thirty) days after obtaining the certificate of business registration, the enterprise must announce in 5 consecutive issues of a daily newspaper at the central or local level the following main points:
1. The name and main office of the enterprise, names and surnames of the Chairman and members of the Board of Management (if any), and the Director General or the Director;
2. The name of the Government body issuing the decision, and the date of issue of the decision to establish the enterprise, the date and number of the business registration;
3. The statutory capital;
4. The number of its bank account; numbers of telephone, telex and fax (if any);
5. Business area, business lines and activities;
6. Date of commencement of business and term of operation.
1. If a State enterprise wants to set up a branch in another province or city under the Central Government, it must have an operational plan for the branch, and obtain a written authorization by the President of the People's Committee of the province or city under the Central Government where the branch is to be located.
The State enterprise branch is not a legal person; the State enterprise takes a civil responsibility for its branch.
2. If the State enterprise opens a representative office in another province or city under the Central Government, this office must register with the People's Committee of the province or city under the Central Government where it is located.
3. The establishment of a branch or a representative offcie of a State enterprise in a foreign country shall conform with government regulations.
Section II. REORGANIZATION, DISSOLUTION AND BANKRUPTCY OF A STATE ENTERPRISE
1. The measures to reorganize an enterprise include: merger with another State enterprise, splitting the State enterprise, and other measures to change the operational objectives and organizational pattern of the enterprise.
2. The person who has proposed the establishment of a State enterprise, shall have to work out a draft plan for reorganization of the enterprise. The person who has decided the establishment of the State enterprise, has to set up an Appraisal Committee for the enterprise's reorganization plan, and to issue a decision on the reorganization of the enterprise.
3. The adoption of measures for reorganizing the important State enterprises which directly cater for defense, security and public service is at the discretion of the Prime Minister.
Article 21.- If the reorganization of State enterprises involves modifications of the business objective and lines or the statutory capital, the enterprise has to fill the procedures for renewing the registration, or complementary registration with the agency with authority in business registration.
Article 22.- A State enterprise is liable to dissolution in the following cases:
1. Expiry of term of operation mentioned in the decision on establishment with no application for extension;
2. The enterprise has been incurring prolonged losses, but has not yet become insolvent;
3. The enterprise has failed to fulfil the tasks assigned by the State after having taken the necessary measures;
4. To keep the enterprise operating further is unnecessary.
1. The person who has decided the establishment of a State enterprise has the right to decide its dissolution.
2. The person who has decided the establishment of the enterprise, has to set up a Dissolution Committee. This Committee performs the function of consultant to the person who decided the establishment of the enterprise, regarding the decision on its dissolution, and on how to carry out the decision on its dissolution. The composition and working statute of the Dissolution Committee, the order and procedures for carrying out the decision on dissolution of the enterprise are prescribed by the Government.
3. All claims related to the dissolution of the State enterprise shall be settled as prescribed by law.
Article 24.- The handling of the bankruptcy of a State enterprise shall be carried out in accordance with the Law on Business Bankruptcy.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực