Chương III Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 1996: Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội
Số hiệu: | 52-L/CTN | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Lê Đức Anh |
Ngày ban hành: | 12/11/1996 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2997 |
Ngày công báo: | 31/01/1997 | Số công báo: | Số 2 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2009 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật, kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc Hội ban hành Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 1996
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1- Luật quy định các vấn đề cơ bản, quan trọng thuộc các lĩnh vực về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
2- Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước, điều chỉnh ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, phê chuẩn điều ước quốc tế, quyết định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
1- Pháp lệnh quy định về những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành luật.
2- Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương và quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
1- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của công dân.
2- Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật được quy định tại Điều 87 của Hiến pháp năm 1992 gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đồng thời gửi đến Chính phủ, trong đó phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản, xác định đối tượng và phạm vi điều chỉnh của văn bản, các điều kiện cần thiết cho việc soạn thảo văn bản; kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội cũng được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ.
Chính phủ lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phát biểu ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.
3- Uỷ ban pháp luật của Quốc hội chủ trì và phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội thẩm tra dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.
4- Căn cứ vào dự kiến chương trình của Chính phủ, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội lập dự án Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội quyết định.
5- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh bao gồm chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo nhiệm kỳ Quốc hội và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm.
6- Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ trong năm đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm tại kỳ họp cuối năm của năm trước.
Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội quyết định điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội khi kiến nghị về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải có tờ trình nêu rõ lý do việc điều chỉnh.
Thủ tục, trình tự điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Luật này.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự án pháp lệnh đã được quyết định trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có trách nhiệm tổ chức việc soạn thảo, bảo đảm chất lượng và thời hạn trình dự án.
1- Cơ quan, tổ chức trình dự án luật, dự án pháp lệnh thành lập Ban soạn thảo. Trong trường hợp dự án luật, dự án pháp lệnh có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo gồm đại diện có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức hữu quan.
Đối với dự án luật do Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo. Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh do Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trình, thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo theo đề nghị của cơ quan, đại biểu Quốc hội trình dự án.
2- Việc soạn thảo dự án luật, dự án pháp lệnh do Ban soạn thảo đảm nhiệm.
Ban soạn thảo chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án về tiến độ và chất lượng dự án.
3- Cơ quan, tổ chức hữu quan có thành viên trong Ban soạn thảo có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về những nội dung liên quan đến lĩnh vực công tác của cơ quan, tổ chức hữu quan đó và chịu trách nhiệm về ý kiến của mình.
Trong việc soạn thảo dự án luật, dự án pháp lệnh, Ban soạn thảo tiến hành các công việc sau đây :
1- Tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dự án; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án;
2- Tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên quan đến dự án;
3- Chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự án;
4- Tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan bằng các hình thức thích hợp tuỳ theo tính chất của từng dự án;
5- Chuẩn bị tờ trình và tài liệu liên quan đến dự án. Tờ trình nêu rõ sự cần thiết phải ban hành, mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng và nội dung chính của dự án, những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau;
6- Phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan chuẩn bị dự thảo các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành;
7- Trong việc soạn thảo dự án luật, dự án pháp lệnh, phải tính đến điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
1- Luật, pháp lệnh phải có tên, căn cứ pháp lý để ban hành. Tuỳ theo nội dung, luật, pháp lệnh có thể có lời nói đầu, được bố cục theo phần, chương, mục, điều, khoản, điểm; phần, chương, mục phải có tiêu đề.
2- Luật, pháp lệnh được ban hành phải xác định các văn bản, các điều, khoản của văn bản bị bãi bỏ.
1- Cơ quan, tổ chức trình dự án luật, dự án pháp lệnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo Ban soạn thảo và thường xuyên cho ý kiến về việc soạn thảo dự án;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến dự án.
c) Mời chuyên gia tham gia xây dựng dự án;
d) Xem xét, quyết định việc trình dự án luật ra Quốc hội, trình dự án pháp lệnh ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp chưa trình được dự án luật, dự án pháp lệnh theo chương trình, thì phải kịp thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội và nêu rõ lý do;
2- Đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự án pháp lệnh có nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều này. Văn phòng Quốc hội bảo đảm điều kiện cần thiết cho Ban soạn thảo dự án luật, dự án pháp lệnh do đại biểu Quốc hội trình.
1- Chính phủ có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể những dự án luật, dự án pháp lệnh do Chính phủ trình, biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự án luật ra Quốc hội, trình dự án pháp lệnh ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đối với những dự án luật, dự án pháp lệnh do cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình, thì Chính phủ có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản.
2- Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản về dự án luật, dự án pháp lệnh mà nội dung của dự án liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực của mình.
3- Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự án pháp lệnh để Chính phủ xem xét trước khi quyết định trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc để Chính phủ tham gia ý kiến đối với những dự án do cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền tham gia ý kiến vào dự án luật, dự án pháp lệnh.
Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tổ chức bộ máy nhà nước, thì cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự án luật, dự án pháp lệnh đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên để lấy ý kiến.
Dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân công soạn thảo. Dự thảo nghị quyết được gửi để lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
1- Dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra (gọi chung là cơ quan thẩm tra).
Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình dự án luật thì Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó; đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trình, thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra.
2- Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan soạn thảo báo cáo về những vấn đề thuộc nội dung của dự án; tự mình hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo sát thực 52-L/CTN tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được cơ quan thẩm tra yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.
3- Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra, thì Uỷ ban pháp luật của Quốc hội tham gia thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Chậm nhất là ba mươi ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội hoặc chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phải gửi tờ trình, dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tới cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra.
Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nhưng tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây :
1- Sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh;
2- Sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự án và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
3- Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;
4- Tính khả thi của dự án.
Dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có thể được thẩm tra một lần hoặc nhiều lần.
Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội để xin ý kiến, thì phải được cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra sơ bộ.
Đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định thông qua, thì phải được cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra chính thức.
Khi thẩm tra chính thức, cơ quan thẩm tra phải tiến hành phiên họp toàn thể.
Trong trường hợp dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết được giao cho nhiều cơ quan phối hợp thẩm tra, thì cơ quan được giao chủ trì thẩm tra có trách nhiệm tổ chức phiên họp liên tịch để tiến hành thẩm tra.
Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan thẩm tra.
Chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết phải gửi tờ trình, dự án và các tài liệu có liên quan đến cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra sơ bộ.
Chậm nhất là bảy ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết phải gửi tờ trình, dự án và tài liệu có liên quan ; cơ quan thẩm tra phải gửi báo cáo thẩm tra về dự án luật, dự thảo nghị quyết đó đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
1- Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự án luật, dự thảo nghị quyết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết một lần hoặc nhiều lần.
2- Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây :
a) Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết thuyết trình về dự án và những vấn đề thuộc nội dung dự án luật, dự thảo nghị quyết cần xin ý kiến;
b) Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra ;
c) Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
d) Các thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận ;
đ) Chủ toạ phiên họp kết luận.
Trên cơ sở ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thụ ý kiến và tổ chức việc chỉnh lý dự án.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có ý kiến khác với ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
1- Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án luật,dự án pháp lệnh, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh.
2- Nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và việc tiếp thụ ý kiến nhân dân để chỉnh lý dự án.
1- Công dân góp ý kiến về dự án luật, dự án pháp lệnh thông qua cơ quan, tổ chức của mình, trực tiếp hoặc gửi thư góp ý tới Văn phòng Quốc hội, cơ quan, tổ chức soạn thảo dự án hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân có trách nhiệm tổ chức, tạo điều kiện để công dân thuộc tổ chức, cơ quan, đơn vị mình tham gia ý kiến vào dự án luật, dự án pháp lệnh.
Ý kiến của nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh phải được tập hợp, nghiên cứu, tiếp thụ để chỉnh lý dự án.
Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm tập hợp đầy đủ ý kiến của nhân dân.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu, tiếp thụ ý kiến nhân dân, chỉnh lý dự án và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Trong quá trình soạn thảo, nếu được Uỷ ban thường vụ Quốc hội đồng ý thì dự án luật được gửi lấy ý kiến đại biểu Quốc hội.
Chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, dự án luật phải được gửi đến đại biểu Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận dự án luật tại địa phương và gửi biên bản thảo luận về Văn phòng Quốc hội chậm nhất là bảy ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
Khi xét thấy cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội gửi dự án pháp lệnh để lấy ý kiến đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức thảo luận dự án pháp lệnh tại địa phương và gửi biên bản thảo luận về Văn phòng Quốc hội chậm nhất là bảy ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội .
Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm tập hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội về dự án luật, dự án pháp lệnh. Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu, tiếp thụ ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội để chỉnh lý dự án.
1- Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự án luật, Quốc hội có thể xem xét dự án luật tại một hoặc nhiều kỳ họp của Quốc hội. Trong trường hợp dự án luật được xem xét tại nhiều kỳ họp của Quốc hội, thì trong lần xem xét đầu, Quốc hội thảo luận và cho ý kiến về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nội dung cơ bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án luật. Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có trách nhiệm tiếp thụ, chỉnh lý dự án.
2- Quốc hội xem xét , thông qua dự án luật theo trình tự sau đây :
a) Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án thuyết trình về dự án;
b) Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra;
c) Quốc hội thảo luận dự án luật tại phiên họp toàn thể. Việc thảo luận có thể tiến hành theo từng vấn đề, từng chương hoặc toàn bộ dự án. Trước khi thảo luận ở phiên họp toàn thể, dự án luật được trao đổi ở Đoàn, ở Tổ đại biểu Quốc hội.
Trong quá trình thảo luận, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án được trình bày bổ sung về những vấn đề liên quan đến dự án;
d) Đoàn thư ký kỳ họp phối hợp với cơ quan thẩm tra và cơ quan soạn thảo tiếp thụ ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự kiến chỉnh lý dự án và báo cáo với Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi trình Quốc hội quyết định.
Đối với những dự án luật có nhiều vấn đề phức tạp, còn có nhiều ý kiến khác nhau, thì Quốc hội có thể thành lập tổ công tác gồm đại diện cơ quan thẩm tra, cơ quan, tổ chức soạn thảo, một số đại biểu Quốc hội và một số chuyên gia để chỉnh lý dự án;
đ) Quốc hội thông qua dự án luật bằng cách biểu quyết từng điều, từng chương, nghe đọc toàn văn, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ dự án một lần.
Dự án luật được thông qua khi quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
3- Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật.
4- Trong trường hợp dự án luật chưa được thông qua, Quốc hội cho ý kiến về những vấn đề cần được tiếp tục chỉnh lý và giao cho cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phối hợp với cơ quan thẩm tra chỉnh lý trong thời hạn do Quốc hội quyết định.
1- Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, Quốc hội có thể xem xét dự thảo tại một hoặc nhiều kỳ họp.
2- Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây:
a) Đại diện cơ quan, tổ chức được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo;
b) Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra;
c) Quốc hội thảo luận;
d) Quốc hội thông qua dự thảo nghị quyết bằng cách biểu quyết từng vấn đề và sau đó biểu quyết toàn bộ dự thảo hoặc biểu quyết toàn bộ dự thảo một lần.
Dự thảo nghị quyết của Quốc hội được thông qua khi quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp quy định tại Điều 88 của Hiến pháp năm 1992.
3- Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực nghị quyết của Quốc hội.
1- Tuỳ theo tính chất, nội dung của dự án pháp lệnh, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét dự án tại một hoặc nhiều phiên họp.
2- Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh theo trình tự sau đây :
a) Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án thuyết trình và đọc toàn văn dự án;
b) Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra;
c) Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
d) Các thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
đ) Chủ tọa phiên họp kết luận;
e) Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết.
Dự án pháp lệnh được thông qua khi quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành.
3- Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh.
4- Trong trường hợp dự án pháp lệnh chưa được thông qua thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về những vấn đề cần được tiếp tục chỉnh lý và giao cho cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phối hợp với cơ quan thẩm tra chỉnh lý trong thời hạn do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.
1- Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét dự thảo tại một hoặc nhiều phiên họp.
2- Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây:
a) Đại diện cơ quan, tổ chức được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo;
b) Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra;
c) Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
d) Các thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
đ) Chủ tọa phiên họp kết luận;
e) Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết.
Dự thảo nghị quyết được thông qua khi quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành.
3- Chủ tịch Quốc hội ký nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Đối với pháp lệnh, nghị quyết đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua mà Chủ tịch nước đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại theo quy định tại khoản 7 Điều 103 của Hiến pháp năm 1992, thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại những vấn đề mà Chủ tịch nước có ý kiến. Nếu pháp lệnh, nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.
Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố luật, nghị quyết của Quốc hội mà việc công bố nghị quyết đó thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày luật, nghị quyết được thông qua.
1- Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà việc công bố nghị quyết đó thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày pháp lệnh, nghị quyết được thông qua.
2- Đối với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã được thông qua mà Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại hoặc trình Quốc hội quyết định, thì thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, sau khi đã xem xét lại hoặc kể từ ngày Quốc hội quyết định.
1- Tuỳ theo tính chất, nội dung của vấn đề cần được giải thích, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2- Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây:
a) Đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan, đại biểu Quốc hội đã có đề nghị giải thích được mời tham dự phiên họp trình bày ý kiến ;
b) Đại diện cơ quan được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo;
c) Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích;
d) Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
đ) Các thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
e) Chủ tọa phiên họp kết luận;
g) Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết.
Dự thảo nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh được thông qua khi quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành.
3- Chủ tịch Quốc hội ký nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh.
4- Nghị quyết về việc giải thích luật, pháp lệnh được đăng Công báo và đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
LEGAL DOCUMENTS OF THE NATIONAL ASSEMBLY AND THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Section 1. CONTENTS OF THE LEGAL DOCUMENTS OF THE NATIONAL ASSEMBLY AND THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Article 20.- Laws and resolutions of the National Assembly
1. Laws shall provide for the fundamental and important matters pertaining to external and internal relations, the country’s socio-economic, defense and security tasks, the major principles on the organization and operation of the State apparatus, on social relations and the activities of citizens.
2. Resolutions are issued by the National Assembly to decide the socio-economic development plans, national fiscal and monetary policies, policies on nationalities, religion, external relations, defense, security, State budget estimates and allocations, adjustment of the State budget, approve the final State budget statement, ratify international agreements, decide the working regime of the National Assembly, the Standing Committee of the National Assembly, the Council on Nationalities, the Commissions of the National Assembly, the National Assembly deputies; and decide other issues under the jurisdiction of the National Assembly.
Article 21.- Ordinances and resolutions of the Standing Committee of the National Assembly
1. The ordinances shall provide for the matters assigned by the National Assembly, which shall be submitted, after being implemented for a period of time, to the National Assembly for consideration and decision to be passed into laws.
2. Resolutions are issued by Standing Committee of the National Assembly to interpret the Constitution, laws and ordinances, to supervise the observance of the Constitution and the legal documents of the National Assembly and the Standing Committee of the National Assembly, to supervise the work of the Government, the Supreme People’s Court and the Supreme People’s Procuracy, to supervise and guide the work of the People’s Councils, declare the state of war, the national or regional mobilization, declare the state of emergency on a general or limited scale and decide other issues under the jurisdiction of the Standing Committee of the National Assembly.
Section 2. PROGRAM ON THE ELABORATION OF LAWS AND ORDINANCES
Article 22.- Working out and adopting the program
1. The law and ordinance-elaborating program shall be worked out on the basis of the Party’s lines and policies, the strategy on socio-economic development, defense, security and the State managerial requirements in each period while ensuring the citizens’ rights and obligations.
2. The agencies, organizations or National Assembly deputies having the right to submit bills as stipulated in Article 87 of the 1992 Constitution shall send the proposal to draft a law(s) or ordinance(s) to the Standing Committee of the National Assembly and concurrently to the Government, which must clearly state the necessity to promulgate the document(s), define the objects and scope of regulation, the necessary conditions for the drafting of the document(s); recommendations on a law(s) or ordinance(s) of a National Assembly deputy shall also be sent to the Standing Committee of the National Assembly and the Government.
The Government shall work out a tentative program on the elaboration of laws and ordinances regarding the issues under the scope of its functions, tasks and powers, submit it to the Standing Committee of the National Assembly, and give comments on the proposals to elaborate laws and ordinances of other agencies, organizations and the National Assembly deputies, as well as the recommendations of the National Assembly deputies on laws and ordinances.
3. The Law Commission of the National Assembly shall assume the main responsibility for and coordinate with the Council on Nationalities and other Commissions of the National Assembly in examining the Government’s tentative program on the elaboration of laws and ordinances, the proposals on the elaboration of laws and ordinances of other agencies, organizations and the National Assembly deputies, recommendations of the National Assembly deputies on laws and ordinances.
4. Basing itself on the Government’s tentative program on the elaboration of laws and ordinances, the proposals of other agencies, organizations and the National Assembly deputies on the elaboration of laws and ordinances, the recommendations of the National Assembly deputies on laws and ordinances, and the evaluation opinions of the Law Commission, the Standing Committee of the National Assembly shall draft the program on the elaboration of laws and ordinances and submit it to the National Assembly for decision.
5. The program on the elaboration of laws and ordinances shall consist of the program on the elaboration of laws and ordinances for each term of the National Assembly and the annual programs on the elaboration of laws and ordinances.
6. In the first year of each term, the National Assembly shall decide a program on the elaboration of laws and ordinances for the whole term, decide the annual program on the elaboration of laws and ordinances at the year-end session of the preceding year.
Article 23.- Adjusting the program
When deeming it necessary, the National Assembly shall decide to adjust the program on the elaboration of laws and ordinances.
When an agency, organization or National Assembly deputy files a motion to adjust the program on the elaboration of laws and ordinances, it must make a report stating clearly the reason for the adjustment.
The procedure and order for the adjustment of the program on the elaboration of laws and ordinances shall be implemented in accordance with Article 22 of this Law.
Article 24.- Guaranteeing the execution of the program
The Standing Committee of the National Assembly shall guide the execution of the program on the elaboration of laws and ordinances.
The agency, organization or National Assembly deputy proposing a bill or draft ordinance already decided in the program on the elaboration of laws and ordinances shall have to organize the drafting, ensure the quality and the time limit for the submission of the draft document.
Section 3. DRAFTING OF LEGAL DOCUMENTS OF THE NATIONAL ASSEMBLY AND THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Article 25.- Setting up the Drafting Committee
1. The agency or organization submitting a bill or draft ordinance shall set up a Drafting Committee. If the bill or draft ordinance relates to various branches and fields, the Standing Committee of the National Assembly shall set up a Drafting Committee composed of competent representatives from the concerned agencies and organizations.
With regard to a bill submitted by the Standing Committee of the National Assembly, it shall set up a Drafting Committee. With regard to a bill or draft ordinance submitted by the Council on Nationalities, a Commission of the National Assembly or a National Assembly deputy or the Standing Committee of the National Assembly shall set up a Drafting Committee at the proposal of the agency or the National Assembly deputy submitting the draft document.
2. The Drafting Committee shall undertake the drafting of a law or ordinance.
The Drafting Committee shall be accountable to the agency, organization or National Assembly deputy submitting the bill for the drafting tempo and quality of the draft document.
3. The concerned agencies and organizations participating in the Drafting Committee shall have to give written comments on the contents related to their specialties and shall take responsibility for their comments.
Article 26.- Drafting laws and ordinances
When drafting a bill or draft ordinance, the Drafting Committee shall carry out the following activities:
1. Reviewing the situation of law enforcement, evaluating the current legal documents related to the draft document; conducting a survey to assess the actual situation of the social relations related to its main contents;
2. Organizing the study of information and documents related to the draft document;
3. Outlining, compiling and revising the draft document.
4. Gathering comments from the concerned agencies, organizations and individuals in the forms appropriate to the characteristics of each draft document;
5. Preparing the report on and other documents related to the draft document. The report must state clearly the necessity of the promulgation, objectives, requirements, scope, objects and main contents of the draft document, the matters that require guiding opinions and the matters where opinions still differ;
6. Coordinating with the concerned agencies, organizations and individuals in preparing the drafting of detailed documents and guiding the implementation of the draft document;
7. When drafting a law or ordinance, the international agreements, which the Socialist Republic of Vietnam has signed or acceded to, must be taken into account.
Article 27.- Structure of laws and ordinances
1. A law or ordinance must have a name and the legal bases for its promulgation. Depending on its contents, the law or ordinance may comprise a preamble, and be structured into parts, chapters, sections, articles, items and points; each part, chapter or section must have a title.
2. A law or ordinance promulgated must identify the documents, articles and items of the documents to be annulled.
1. The agency or organization submitting a bill or draft ordinance shall have the following tasks and powers:
a/ To direct the Drafting Committee and regularly give comments on the drafting;
b/ To request the concerned agencies, organizations and individuals to supply materials and information related to the draft document;
c/ To invite specialists to take part in the drafting;
d/ To consider and decide the submission of the bill to the National Assembly, and of the draft ordinance to the Standing Committee of the National Assembly. If the agency or organization fails to submit the bill or draft ordinance on schedule, it must report in time to the Standing Committee of the National Assembly and clearly state the reason;
2. The National Assembly deputy submitting the bill or draft ordinance shall have the tasks and powers defined in Points a, b and d, Item 1 of this Article. The Office of the National Assembly must ensure the necessary conditions for the Drafting Committee of the bill or draft ordinance submitted by the National Assembly deputy.
Article 29.- Responsibilities of the Government for the bills and ordinances
1. The Government shall have to collectively consider and discuss the bills and ordinances submitted by the Government, decide by majority vote the submission of a bill to the National Assembly or a draft ordinance to the Standing Committee of the National Assembly. With regard to the bills and ordinances submitted by the other agencies, organizations and the National Assembly deputies, the Government shall have to give its written comments.
2. The Ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government shall have to give written comments on the bills and draft ordinances which directly relate to their managerial functions and tasks.
3. The Ministry of Justice shall have to evaluate the bills and draft ordinances for the Government to consider them before deciding to submit them to the National Assembly and/or the Standing Committee of the National Assembly or gives its comments on the draft documents submitted by the other agencies, organizations and the National Assembly deputies to the National Assembly or the Standing Committee of the National Assembly, .
Article 30.- The Vietnam Fatherland Front and its member organizations shall make comments on the bills and draft ordinances
The Vietnam Fatherland Front and its member organizations shall have the right to make comments on the bills or draft ordinances.
With regard to the bills and draft ordinances related to the functions, tasks and powers of the Vietnam Fatherland Front and its member organization, the provisions on the basic rights and obligations of citizens and on the organizations of the State apparatus, the drafting agency shall have to send the drafts to the Vietnam Fatherland Front and its member organizations for comments.
Article 31.- Drafting resolutions of the National Assembly and resolutions of the Standing Committee of the National Assembly
The resolutions of the National Assembly or resolutions of the Standing Committee shall be drafted, by assignment of the National Assembly, the Standing Committee of the National Assembly, the Council on Nationalities, a Commission of the National Assembly, the Government, the Supreme People’s Court, the Supreme People’s Procuracy or another concerned agency or organization. The draft resolution shall be sent to the concerned agencies, organizations and individuals for comments.
Section 4. EVALUATION OF BILLS AND DRAFT RESOLUTIONS OF THE NATIONAL ASSEMBLY, DRAFT ORDINANCES AND RESOLUTIONS OF THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Article 32.- Evaluation by the Council on Nationalities and the Commissions of the National Assembly
1. Before being submitted to the National Assembly or the Standing Committee of the National Assembly, the bills and draft resolutions of the National Assembly, a draft ordinance or resolution of the Standing Committee of the National Assembly must be evaluated by the Council on Nationalities and the concerned Commissions of the National Assembly (referred to as the evaluating agencies).
When the Standing Committee of the National Assembly submits a bill, the National Assembly shall decide the evaluating agency or set up a Provisional Committee to evaluate such bill; with regard to bills, draft ordinances and resolutions submitted by the Council on Ethnicities or a Commission of the National Assembly, the Standing Committee of the National Assembly shall decide the evaluating agency.
2. The evaluating agency shall be entitled to request the drafting agency to report on the issues related to the contents of the draft document; conduct either on its own or together with the drafting agency field surveys of the issues related to the content of the bills, draft ordinances or resolutions. All agencies, organizations and individuals shall, at the request of the evaluating agency, have to provide information and materials in service of the evaluation of the bills, ordinances or resolutions.
3. With regard to the bills, ordinances or resolutions evaluated by the Council on Nationalities, or by another Commission of the National Assembly, the Law Commission of the National Assembly shall take part in the evaluation to ensure the constitutionality, legality and uniformity of the legal system.
Article 33.- Time limit for sending bills, draft ordinances and resolutions for evaluation
Not later than 30 days before the opening of a National Assembly session or not later than 20 days before the opening of a meeting of the Standing Committee of the National Assembly, the agency, organization or National Assembly deputy that submits a draft document must send a report together with the bill, ordinance or resolution to the evaluating agency for evaluation.
Article 34.- Scope of evaluation
The evaluating agency shall evaluate all the aspects of the bill, ordinance or resolution. However, it shall focus on the following major issues:
1. The necessity of the promulgation of the bill, ordinance or resolution; objects and scope of regulation;
2. The conformity of the draft document with the Party�s lines and policies; the document�s constitutionality, legality and uniformity with the legal system;
3. The observance of the drafting procedure and order;
4. The feasibility of the draft document.
Article 35.- Mode of evaluation
A bill, ordinance or resolution may be evaluated once or more than once.
With regard to the bills, ordinances or resolutions submitted to the Standing Committee of the National Assembly for comments, it must be preliminarily evaluated by the evaluating agency.
With regard to the bills or draft ordinances submitted to the National Assembly, and the draft ordinances or resolutions submitted to the Standing Committee of the National Assembly for consideration and adoption, they must be officially evaluated by the evaluating agency.
When conducting an official evaluation, the evaluating agency must convene plenary sessions.
In cases where the evaluation of a bill, ordinance or resolution is assigned to more than one agency, the agency with the main responsibility for the evaluation shall have to convene joint meetings for the evaluation.
The evaluation report must reflect all the opinions made by the members of the evaluating agency.
Section 5. THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY CONSIDERS AND GIVES COMMENTS ON BILLS AND DRAFT RESOLUTIONS
Article 36.- Time limit for sending bills and resolutions to the Standing Committee of the National Assembly for consideration and comments
Not later than twenty days before the opening of a meeting of the Standing Committee of the National Assembly, the agency, organization or National Assembly deputy submitting the bill or draft resolution must send a report together with the draft document and the related materials to the evaluating agency for preliminary evaluation.
Not later than seven days before the opening of a meeting of the Standing Committee of the National Assembly, the agency, organization or National Assembly deputy submitting the bill or draft resolution must send a report together with the draft document and the related materials; the evaluating agency must send a report on the evaluation of that bill or draft resolution to the Standing Committee of the National Assembly.
Article 37.- Order of considering and giving comments on bills and resolutions
1. Depending on the nature and contents of a bill or draft resolution, the Standing Committee of the National Assembly may consider and give comments on the bill or draft resolution once or more than once.
2. The Standing Committee of the National Assembly shall consider and give comments on a bill or draft resolution in the following order:
a/ The representative of the agency, organization or National Assembly deputy submitting the bill or draft resolution makes a presentation on the draft document and the issues related to the contents of the draft document to be commented on;
b/ The representatives of the evaluating agency presents the evaluation report;
c/ The representatives of the invited agencies, organizations and individuals give their comments;
d/ The members of the Standing Committee of the National Assembly start discussion;
e/ The chairman of the meeting makes the concluding remarks.
Article 38.- Accepting comments of the Standing Committee of the National Assembly and revising bills and resolutions
On the basis of the comments of the Standing Committee of the National Assembly, the agency, organization or National Assembly deputy submitting the bill or draft resolution shall have to study and accept the comments and organize the revision of the draft document.
If the agency, organization or National deputy submitting the bill or draft ordinance has any opinions which differ from the comments of the Standing Committee of the National Assembly, such opinions should be reported to the National Assembly for consideration and decision.
Section 6. SOLICITING PUBLIC COMMENTS ON BILLS AND DRAFT ORDINANCES
Article 39.- Deciding the solicitation of public comments on bills and ordinances
1. Depending on the nature and content of a bill or draft ordinance, the National Assembly or the Standing Committee of the National Assembly shall decide to solicit public comments on the bill or draft ordinance.
2. The contents, scope, mode and time of soliciting public comments on the bill or draft ordinance shall be decided by the Standing Committee of the National Assembly.
The Standing Committee of the National Assembly shall direct the solicitation and acceptance of public comments for revising the draft document.
Article 40.- Making comments on bills and ordinances
1. Citizens shall give their comments on bills and/or draft ordinances through their agencies and organizations, either directly or by mail to the Office of the National Assembly, the drafting agency or organization, or through the mass media.
2. The Vietnam Fatherland Front and its member organizations, State agencies, social and economic organizations and People’s Armed Forces units shall have to organize and create conditions for citizens of their organizations, agencies and units to give their comments on the bills or draft ordinances.
Article 41.- Gathering and accepting public comments, revising bills and draft ordinances
Public comments on bills and/or draft ordinances must be gathered, studied and accepted to revise the draft document.
The Office of the National Assembly shall have to gather fully the public comments.
The agency, organization or National Assembly deputy submitting the darft document shall coordinate with the evaluating agency in studying and accepting the public comments, revising the draft document and making a report to the Standing Committee of the National Assembly.
Section 7. SOLICITING COMMENTS FROM NATIONAL ASSEMBLY DEPUTIES AND DELEGATIONS OF NATIONAL ASSEMBLY DEPUTIES ON BILLS AND DRAFT ORDINANCES
Article 42.- National Assembly deputies and Delegations of National Assembly deputies give their comments on the bills
During the drafting process, a bill shall be sent to the National Assembly deputies for comments if it is so agreed by the Standing Committee of the National Assembly.
Not later than twenty days before the opening of a National Assembly session, the bill must be sent to the National Assembly deputies.
The Delegations of National Assembly deputies shall have to hold discussions on the bill in their respective localities and send the minutes of the discussions to the Office of the National Assembly not later than seven days before the opening of a session.
Article 43.- National Assembly deputies, delegations of National Assembly deputies give comments on draft ordinances
When deeming it necessary, the Standing Committee of the National Assembly shall send a draft ordinance to the National Assembly deputies and the Delegations of National Assembly deputies not later than seven days before the opening of a meeting of the Standing Committee of the National Assembly.
The Delegations of National Assembly deputies shall hold discussions on the draft ordinance in their respective localities and send the minutes on the discussions not later than seven days before the opening of a meeting of the Standing Committee of the National Assembly.
Article 44.- Accepting comments of National Assembly deputies and Delegations of National Assembly deputies and revising the draft document
The Office of the National Assembly shall have to gather comments of the National Assembly deputies and the Delegations of National Assembly deputies on a bill or draft ordinance. The agency, organization or individual submitting the draft document shall coordinate with the evaluating agency in studying and accepting comments of the National Assembly deputies and the Delegations of National Assembly deputies for revising the draft document.
Section 8. ADOPTING BILLS AND RESOLUTIONS BY THE NATIONAL ASSEMBLY, DRAFT ORDINANCES AND RESOLUTIONS BY THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Article 45.- Order for considering and adopting bills
1. Depending on the nature and content of a bill, the National Assembly may consider the bill at one or more than one session of the National Assembly. If the bill is considered at more than one session of the National Assembly, at the first session, the National Assembly shall discuss and give comments on the objects and scope of regulation, the basic contents and the issues on which opinions differ. The agency, organization or National Assembly deputy submitting the bill shall have to accept the comments and revise the draft document accordingly.
2. The National Assembly shall consider and adopt the bill in the following order:
a/ The representative of the agency, organization or National Assembly deputy submitting the draft document makes a presentation on the draft document;
b/ The representative of the evaluating agency presents the evaluation report;
c/ The National Assembly discusses the bill at plenary meetings. Discussions may be conducted on each issue, each chapter or the whole of the draft document. Before it is submitted to plenary discussions, the bill shall be discussed by the Delegations and Groups of National Assembly deputies;
During the course of deliberation, the agency, organization or National Assembly deputy submitting the draft document may make a complementary reports on the issues related to the draft document;
d/ The secretariat of the session shall coordinate with the evaluating agency and the drafting agency in accepting the comments of the National Assembly deputies, planning the revision of the draft document and reporting it to the Drafting Committee of the National Assembly before submitting it to the National Assembly for decision.
With regard to bills involving many complicated matters were opinions still differ, the National Assembly may set up a work team consisting of representatives from the evaluating agency, the drafting agency, a number of National Assembly deputies and a number of specialists to revise the bill;
e/ The National Assembly shall adopt the bill by voting article by article, chapter by chapter and listening to its full text before voting, or listening to the full text of the document and then voting it at one time.
The bill shall be adopted when more than half of the total number of the National Assembly deputies vote for.
3. The Chairman of the National Assembly signs to certify the law.
4. If the bill is not yet adopted, the National Assembly gives comments on the issues to be further revised and assign the agency, organization or National Assembly deputy submitting the draft document to coordinate with the evaluating agency in revising it in a time limit decided by the National Assembly.
Article 46.- Order for considering and adopting draft resolutions of the National Assembly
1. Depending on the nature and contents of a draft resolution, the National Assembly may consider the draft document at one or more than one session.
2. The National Assembly shall consider and adopt a draft resolution in the following order:
a/ The representative of the agency or organization assigned to prepare the draft resolution makes a presentation and read the full text of the draft document;
b/ The representative of the evaluating agency presents the evaluation report;
c/ The National Assembly start discussions;
d/ The National Assembly adopts the draft resolution by voting issue by issue then the whole of the draft document or voting the whole of the draft document at one time.
A draft resolution shall be adopted when more than half of the total number of the National Assembly deputies vote for it, except in cases defined in Article 88 of the 1992 Constitution.
3. The Chairman of the National Assembly signs to certify the Resolution of the National Assembly.
Article 47.- Order for considering and adopting draft ordinances
1. Depending on the nature and contents of a draft ordinance, the Standing Committee of the National Assembly may consider the draft document at one or more than one meeting.
2. The Standing Committee of the National Assembly shall consider and adopt a draft ordinance in the following order:
a/ The representative of the agency, organization or National Assembly deputy submitting the draft document makes a presentation and reads the full text of the draft document;
b/ The representative of the evaluating agency presents the evaluation report;
c/ The representatives of the agencies, organizations and individuals invited to the meeting give their comments;
d/ The members of the Standing Committee of the National Assembly start discussions;
e/ The chairman of the meeting makes the concluding remarks;
f/ The Standing Committee of the National Assembly votes.
The draft ordinance shall be adopted when more than half of the total number of the total members of the Standing Committee of the National Assembly deputies vote for.
3. The Chairman of the National Assembly signs the ordinance.
4. If the draft ordinance is not yet adopted then the Standing Committee of the National Assembly shall give comments on the issues to be further revised and assign the agency, organization or National Assembly deputy submitting the draft document to coordinate with the evaluating agency in making the revision within the time limit decided by the Standing Committee of the National Assembly.
Article 48.- Order for considering and adopting draft resolutions of the Standing Committee of the National Assembly
1. Depending on the nature and contents of a draft resolution, the Standing Committee of the National Assembly may consider the draft document at one or more than one meeting.
2. The Standing Committee of the National Assembly shall consider and adopt a draft resolution in the following order:
a/ The representative of the agency or organization assigned to prepare the draft resolution makes a presentation and reads the full text of the draft document;
b/ The representative of the evaluating agency presents the evaluation report;
c/ The representatives of the agencies, organizations and individuals invited to the meeting give their comments;
d/ The members of the Standing Committee of the National Assembly start discussions;
e/ The chairman of the meeting makes the concluding remarks;
f/ The Standing Committee of the National Assembly votes.
The draft resolution shall be adopted when more than half of the total number of the members of the Standing Committee of the National Assembly deputies vote for.
3. The Chairman of the National Assembly signs the resolution of the Standing Committee of the National Assembly.
Article 49.- Revising ordinances and resolutions of the Standing Committee of the National Assembly
If the State President requests the Standing Committee of the National Assembly to revise an ordinance or resolution already adopted by the Standing Committee of the National Assembly as prescribed in Item 7, Article 103 of the 1992 Constitution, the Standing Committee of the National Assembly shall reconsider the issues raised by the State President. If such ordinance or resolution is still voted for the Standing Committee of the National Assembly and the State President still disagrees, the State President shall submit the matter to the National Assembly for decision at the next session.
Section 9. PROMULGATING LEGAL DOCUMENTS OF THE NATIONAL ASSEMBLY AND THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Article 50.- Promulgating laws and resolutions of the National Assembly
The State President shall issue an order to promulgate a law(s) or resolution(s) of the National Assembly, if the promulgation of such resolution(s) is under the jurisdiction of the State President, not later than fifteen days from the date on which the law or resolution is passed.
Article 51.- Promulgating ordinances and resolutions of the Standing Committee of the National Assembly
1. The State President shall issue an order to promulgate an ordinance(s) or a resolution(s) of the Standing Committee of the National Assembly, if the promulgation of such resolution(s) is under the jurisdiction of the State President, not later than fifteen days from the date on which the ordinance or resolution is passed.
2. With regard to an ordinance or resolution which has been already approved by the Standing Committee of the National Assembly but requested by the State President to be revised or submitted to the National Assembly for decision, the time limit for its promulgation shall not be later than ten days from the date of promulgation by the Standing Committee after the revision or from the date of decision by the National Assembly.
Section 10. INTERPRETATION OF LAWS AND ORDINANCES
Article 52.- Competence to interpret laws and ordinances
The Standing Committee of the National Assembly shall interpret laws and ordinances.
The agencies and organizations defined in Article 87 of the 1992 Constitution and the National Assembly deputies have the right to request the Standing Committee of the National Assembly to interpret laws and ordinances. The Standing Committee of the National Assembly shall consider and decide the interpretation.
Article 53.- Drafting and adopting resolutions to interpret laws and ordinances
1. Depending on the nature and contents of the issues to be interpreted, the Standing Committee of the National Assembly shall assign the Government, the Supreme People’s Court, the Supreme People’s Procuracy, the Council on Nationalities or a Commission of the National Assembly to draft a resolution to interpret a law(s) or ordinance(s) and submit it to the Standing Committee of the National Assembly.
2. The Standing Committee of the National Assembly shall consider and adopt a draft resolution to interpret a law(s) or ordinance(s) in the following order:
a/ The representative of the concerned agency, organization or National Assembly deputy(ies) requesting the interpretation invited to the meeting presents their opinions;
b/ The representative of the agency assigned to prepare the draft resolution of interpretation explains and reads its full text;
c/ The representative of the evaluating agency presents an evaluation report on the conformity of the draft resolution of interpretation with the spirit and contents of the interpreted document;
d/ The representative of the agency, organization or individual invited to the meeting give their comments;
e/ The members of the Standing Committee of the National Assembly start discussions;
f/ The chairman of the meeting makes the concluding remarks;
g/ The Standing Committee of the National Assembly votes.
The draft resolution of interpretation shall be adopted when more than half of the total number of the members of the Standing Committee of the National Assembly vote for.
3. The Chairman of the National Assembly signs the resolution on the interpretation of the law or ordinance.
4. The resolution on the interpretation of the law or resolution shall be published in the Official Gazette and made public over the mass media.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực