Bố cục Người ngồi đợi trước hiên nhà hay, chính xác nhất - Cánh diều

Với Bố cục Người ngồi đợi trước hiên nhà Ngữ văn lớp 7 hay, chính xác nhất sách Cánh diều giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà từ đó học tốt môn Ngữ văn 7.

1 1121 lượt xem
Tải về


Bố cục Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn lớp 7 Cánh diều

Bài giảng Ngữ văn 7 Người ngồi đợi trước hiên nhà - Cánh diều

A. Bố cục Người ngồi đợi trước hiên nhà

Chia văn bản làm 3 đoạn:

- Đoạn 1: Từ đầu đến “đôi người đôi ngả”: Tình cảnh ly tán “kẻ Bắc người Nam” của những gia đình có người tập kết ra Bắc.

- Đoạn 2: Tiếp theo đến “tìm mộ phần của dượng”: Tình cảnh đáng thương của dì Bảy khi dượng Bảy ra chiến trận.

- Đoạn 3: còn lại: Tấm lòng thủy chung, son sắt của Dì

B. Nội dung chính Người ngồi đợi trước hiên nhà

Bài tản văn kể về số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng dì bảy mới lấy nhau vỏn vẹn có một tháng. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai.

C. Tóm tắt tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Tình cảnh chia li đáng thương của vợ chồng dì Bảy. Dì dượng mới lấy nhau được một tháng thì dương Bảy đã phải tập kết ra Bắc. Hai người rơi vào cảnh chia li, kẻ Bắc người Nam. Thế rồi không lâu sau dì nhận được tin dượng Bảy đã bỏ lại mạng nơi chiến trường cách ngày độc lập chỉ vài ngày. Mặc dù tình cảnh đáng thương, cô đơn như vậy nhưng dì Bảy vẫn luôn thủy chung, son sắt với dượng quyết không đi bước nữa mà chỉ ở vậy. Qua đó thấy được trái tim và đức hi sinh cao thượng của dì Bảy dì đã hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình, đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất nước.

D. Tác giả, tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

I. Tác giả

Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

- Huỳnh Như Phương sinh năm 1955, quê quán ở Quang Ngãi

- GS Huỳnh Như Phương là nhà giáo chuyên giảng dạy lý thuyết văn học ở Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM, đồng thời là nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước năm 1975.

- Lúc chưa tới tuổi 20, Huỳnh Như Phương đã có bài đăng trên các tạp chí có khuynh hướng thiên tả lúc đó như Trình Bầy, Đối Diện.

II. Tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

1. Thể loại: Tản văn

2. Phương thức biểu đạt: Tự sự + Biểu cảm

3. Tóm tắt tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Nhân vật chính trong văn bản là dì Bảy, người phụ nữ với số phận bất hạnh khi có chồng đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng dì bảy mới lấy nhau vỏn vẹn có một tháng. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai. Dì Bảy là đại diện cho vẻ đẹp của những người phụ nữ tần tảo, hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình cho đọc lập và tự do của dân tộc.

Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

4. Bố cục tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Chia văn bản làm 3 đoạn:

- Đoạn 1: Từ đầu đến “đôi người đôi ngả”: Tình cảnh ly tán “kẻ Bắc người Nam” của những gia đình có người tập kết ra Bắc.

- Đoạn 2: Tiếp theo đến “tìm mộ phần của dượng”: Tình cảnh đáng thương của dì Bảy khi dượng Bảy ra chiến trận.

- Đoạn 3: còn lại: Tấm lòng thủy chung, son sắt của Dì

5. Giá trị nội dung tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

- Phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác.

- Ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

- Ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc.

- Cách miêu tả nhân vật chân thật, sinh động.

E. Đọc tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (Geneve) được kí kết, cuối năm 1954 – đầu năm 1955, ở quê tôi gần một nửa số gia đình có người thân đi tập kết ra miền Bắc. Không khi làng quê chủng xuống vì tình cảnh kẻ Bắc người Nam. Những người đàn bà tiên chồng, tiên con ra đi, mắt đầm lệ, hẹn hai năm trở về mà lòng còn nghi ngại.

Chính quyền quốc gia tiếp thu từ vĩ tuyến 17 trở vào và những người con đất Quảng từng hiển tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến chống Pháp đành phải lia bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, theo đơn vị vào Quy Nhơn, xuống chiếc tàu Ba Lan đang đợi sẵn. Nhiễu người ra đi khi vừa lập gia đình, để lại những người vợ trẻ, con người mang bào thai trong bụng.

Nhà ngoại tôi năm người ra đi trên những chuyến tàu năm ấy: ông ngoại, hai người con trai và hai người con rẻ. Mới một tháng trước đỏ, nhà ngoại rộn rã với đám cưới của đi Bảy. Dượng Bảy người Tam Kỳ mỏ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dị, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới. Chỉ mặt tháng sau là đơn vị chuyên đi, đôi người đôi ngả.

Ra miên Bắc rồi vào lại miền Nam chiến đấu, đường. Bảy văn tìm cách liên lạc với gia đình. Thỉnh thoảng Chú ý ngôi kể của văn bản một lá thư gói trong bọc mi lông bẻ tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dị. Năm dượng đi, dị tron 20 tuổi. Suốt 30 năm sau đỏ, có những người ngõ ý dạm hỏi, đi vân không lung lạc”, với niềm tin sẽ có ngày được trở vẻ. Gần Cuối cuộc chiên tranh, tin tức của đường về nhà thường xuyên hơn. Hình như lời cầu nguyện của di linh ứng để dượng trảnh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.

Nhà tôi gần đường số 1. Môi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, đi tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ” ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xm chỗ chủ quân Tháng 4 năm 1975, những đoản xe Mô-lô-tô-va (Molotova) nói tiếp nhau chạy ngang trước nhà tôi đẻ chuyên quân vào mặt trận phía Nam. Dượng tôi ở trên một chuyến xe đó. 20 năm, đường không quên người xưa nhưng đã quên cảnh cũ Khi đến địa phận huyện Mô Đức, đương đảo mắt tìm xóm nhà quê vợ nhưng không nhận ra vì cảnh vật đối thay. Đến khi dừng lại hỏi nhà, thi xe đã chạy vượt qua gần Tim cây số. Trên đường tiên quân, đấu thể quay xe trở lại, dượng chỉ kịp nhờ một người đi đường báo tm cho gia đình và gin lặng di tôi một chiếc nón bài thơ mua được trên đường hành quân.

Những ngày sau đó, gia đình tôi náo nức trong niềm vui chờ đợi. Ông ngoại tôi mắt sớm trên miền Bắc, ba tôi hì sinh trên chiến trường đã tám năm, nổi đau dân nguôi ngoai. Nhà có năm người ra đi, ba người trở vẻ, cũng còn là may mắn. Di Bảy tôi lại ngồi trước hiên nhà mỗi mắt nhìn ra đường cái Nhưng hai cậu tôi lần lượt trở về mà dượng Đây vân không tin tức. Những chiếc xe chở bộ đội hỏi hương chạy qua không dừng lại Gia đình do hỏi các nơi, mãi đến cuối năm ]975 mới nhận giấy bao tử: dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía đông bắc Sài Gòn), chỉ mươi ngày trước khi chiên tranh ngưng tiếng súng.

Như trong một câu chuyện có, người kị sĩ ra đi trên lưng chiến mã, những ngày chiến thắng chỉ cỏ chiến mã trở về mà không có bóng dáng người trên lưng ngựa. Di tôi nén nỗi đau vào bên trong. Nhà tôi lập bàn thờ cho dượng. Tôi đã nhờ người vẻ tân xã Tam Thanh, huyện Tam Kỷ, từ Quảng Nam tìm gia định dượng, nhưng không ai còn nhớ tên người lính cũ Nguyễn Ngọc Linh. Gần đây dò tìm danh sách liệt sĩ trên mạng, cũng không có thông tin gì để tìm mộ phần của đường.

Ngày hòa bình, đi tôi đã qua tuổi 40. Vẫn có người đàn ông để ý đến đi, nhưng lòng dì không còn rung động. Bà ngoại tôi ngày một già yêu Những người con trai của bảo vẻ thăm ít ngày rồi lại đi ra thành phố. Những người con gái theo chồng, theo con. Chỉ còn mình đi Báy ở lại chăm sóc bả, trồng cơi nhà thờ giữa khu rỡn Ít bàn tay vì xi,

Bà ngoại mất, mấy năm trước, đi vào Thành phố Hồ Chí Minh sóng với em, nhưng được it lâu, nhở quẻ, lại về sống một mình trong ngồi nhà cũ Đi lại tiếp tục những bữa cơm vắng lặng như mây mươi năm trước. Và mỗi buổi chiều muộn, đi lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong võ vọng. Đêm đêm, ngọn đèn dầu trên gian thờ lập lòe theo tiếng kêu của thạch sung, có cảm giác như thời gian ngưng đọng đã từ lầu lắm. Mỗi lần về thăm, ngồi bên mâm cơm đạm bạc với di, tôi chợt nghĩ nếu ngày đỏ di đi bước nữa, thị liệu hãy giờ đi có được hưởng hạnh phúc hay không.

Mưa lụt năm ngoài, sau những trận mưa đữ đội, vững quê tôi nước trản trắng trời trắng đất. Nhà ngoại tôi nước ngập ngang cửa số, gân bằng trận lụt năm Giáp Thin (1964). Nhớ hồi đó, tôi còn nhỏ, nhà tôi đông người, thôn xỏm cho ghe đến tận nhà chuyền người và gia súc lên vùng đồi cao. Lần nảy, chỉ có đi Bảy với người châu gái, nửa đêm nước đẳng vào nhà bất thân, may có vải người bả con ở gân đên giúp đỡ kê bàn ghế đê có chỗ nằm cao hơn mặt nước, chờ đất trời thu nước xuống.

Mùa lũ dữ rồi cũng qua, vườn rau xanh trở lại. Những ngày này, đi tôi, bà Lê Thị Thỏa, một trong bao Người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay dì tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà Bảy gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyện cầu hồn thiêng những người đã ngã xuống độ trí” cho đi bình an, trường thọ.

F. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Thông qua nhan đề, ta cũng thấy được phần nào số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai.

Xem thêm các bài Bố cục Ngữ văn lớp 7 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Bố cục Cây tre Việt Nam

Bố cục Trưa tha hương

Bố cục Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa

Bố cục Ghe xuồng Nam Bộ

Bố cục Tổng kiểm soát phương tiện giao thông

1 1121 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: